Lịch Sử
Kết Tập
Kinh Luật
Lần Thứ Hai
Thích
Phước Sơn
-
---o0o---
Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề
ra 10 điều phi pháp như sau:
1- Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp,
2- Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai
ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp,
3- Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn
hợp pháp,
4- Tỳ kheo ăn xong, đi sang nơi khác ăn thêm vẫn hợp
pháp,
5- Tỳ kheo dùng sữa đường hòa lại uống ngoài bữa ăn
chính vẫn hợp pháp,
6- Tỳ kheo uống rượu tự chế biến từ trái cây vẫn hợp
pháp,
7- Tỳ kheo tùy ý làm tọa cụ lớn hoặc nhỏ vừa với mình
vẫn hợp pháp,
8- Tỳ kheo có thể làm những việc mà lúc còn cư sĩ đã làm
vẫn hợp pháp, tất nhiên có việc có thể làm được và có việc không thể
làm được,
9- Trong một trú xứ có một nhóm Tỳ kheo làm pháp yết ma
riêng, sau đó đến yêu cầu chúng Tăng chấp nhận pháp yết ma ấy vẫn
hợp pháp,
10- Tỳ kheo có thể thu nhận và cất giữ vàng bạc, tiền
của vẫn hợp pháp.
Thế rồi, vào các ngày mồng 8, 14 và 15, các Tỳ kheo ấy
thường ngồi ở chỗ đông người qua lại, đặt một cái bát nước trước mặt,
nói với mọi người rằng đó là cái bát điềm lành, rồi yêu cầu họ bố
thí:
"Những điềm lành ở trong này, các vị hãy bố thí y bát,
giày dép và thuốc men". Những người muốn bố thí, liền bố thí, những
người không muốn bố thí thì chê trách, hủy báng, nói: "Sa môn Thích
tử không nên nhận vàng bạc, tiền của, giả sử có ai đem cho, cũng
không nên đưa mắt nhìn đến, nay vì sao lại bày ra cái trò xin bố thí
như thế này?".
Bấy giờ, Trưởng lão Da Xá ở trên giảng đường Trùng Các,
bên dòng sông Di Hầu thấy thế, liền nói với các Tỳ kheo: "Các Thầy
chớ bày ra cái trò xin bố thí như vậy. Chính tai tôi từng nghe Phật
dạy: Người cầu xin bố thí phi pháp, và người cầu bố thí cho kẻ xin
phi pháp, cả hai đều có tội". Thầy nói với các Tỳ kheo xong, lại nói
với các bạch y nam nữ già trẻ: "Các người đừng bố thí như thế. Chính
tôi từng nghe Phật dạy: Người cầu xin phi pháp và người bố thí cho
kẻ xin phi pháp, cả hai đều có tội".
Khi các Tỳ kheo được vàng bạc, tiền của rồi, liền đem
chia cho Da Xá, nói với Thầy: "Đại đức có thể nhận phần này".
Da Xá đáp: "Tôi không nhận cái phần bố thí do xin phi
pháp như vậy".
- Nếu thầy không nhận thì có thể cho lại chư Tăng.
- Tôi đã không nhận thì lấy đâu mà cho chư Tăng?
Thế rồi, các Tỳ kheo ấy bèn hạch tội Da Xá rằng trước
đây Thầy đã nói cho bạch y biết việc đó, làm như thế là nhục mạ bạch
y, nên họ phạt Da Xá bằng pháp yết ma hạ ý (làm vui lòng người khác).
Sau khi tuân thủ pháp yết ma hạ ý, Da Xá liền bảo các
Tỳ kheo cử một Tỳ kheo cùng đi với Thầy đến các nhà bạch y để xin
lỗi họ. Da Xá bèn đi đến chỗ 500 Ưu bà tắc đang tụ họp, nói với họ:
"Các người nên biết, điều gì chánh pháp thì tôi nói là chánh pháp,
điều gì phi pháp thì tôi nói là phi pháp, điều gì chánh luật thì tôi
nói là chánh luật, điều gì phi luật thì tôi nói là phi luật. Những
gì do Phật dạy thì tôi bảo là do Phật dạy, những gì không phải do
Phật dạy thì tôi bảo là không phải do Phật dạy. Trước đây tôi đã nói
như thế, khiến các Ưu bà tắc nổi giận, nên hôm nay tôi đến để xin
lỗi".
Các Ưu bà tắc nghe thế, hoảng kinh bảo: "Thưa Đại đức,
lúc nào Đại đức bảo đây là pháp, đây là luật, đây là lời Phật dạy,
khiến cho chúng tôi nổi giận mà nay phải đến xin lỗi?".
Nhân đó, Da Xá mới nói với họ rằng, ngày trước tại
thành Vương Xá, Đức Thế Tôn có nói với các đại thần của vua Bình Sa
Vương rằng: "Sa môn Thích tử không nên cất giữ vàng bạc châu báu và
dùng nó để buôn bán". Rồi Phật nêu ví dụ về mặt trời, mặt trăng
không sáng tỏ là vì bị 4 thứ khói, bụi và A tu la che khuất. Cũng
thế, Sa môn Thích tử cũng bị 4 thứ sau đây che khuất:
1- Không đoạn trừ ái dục, làm điều bất tịnh,
2- Đam mê rượu thịt không chịu trừ bỏ,
3- Chuyên làm những việc tà vạy để mưu sinh,
4- Thu nhận vàng bạc châu báu rồi dùng nó để mua bán
kiếm lời. Chỉ có những ai xem ngũ dục là thanh tịnh mới cất giữ vàng
bạc châu báu, và dùng nó để mua bán, rồi xem như một việc làm hợp
pháp. Phật thường bảo: "Tỳ kheo cần xe thì xin xe, cần người thì nhờ
người, tùy theo những nhu cầu cần thiết Ta đều cho phép cầu xin,
nhưng hoàn toàn không được thu nhận vàng bạc châu báu và dùng nó để
mua bán".
Da Xá lặp lại lời Phật dạy xong, bèn hỏi các người Ưu
bà tắc là những điều đó có đúng luật, đúng lời Phật dạy hay không.
Các người ấy đều nhất trí thừa nhận là đúng, và phát biểu: "Tại
thành Tỳ Xá Ly hiện nay chỉ có Đại đức Da Xá là số một trong hàng Sa
môn Thích tử". Thế rồi, họ yêu cầu Thầy trụ trì tại thành Tỳ Xá Ly
để họ cúng dường tứ sự (4 món cần thiết suốt đời).
Sau đó, Da Xá từ giã các cư sĩ rồi trở về lại trú xứ.
Các Tỳ kheo Bạt Kỳ biết Da Xá được các người Ưu bà tắc tín nhiệm,
nên xoay qua kết tội thầy phạm Ba dật đề, vì trước đây đã xúc phạm
các Tỳ kheo, do đó, phải sám hối. Da Xá khẳng định rằng mình vô tội
nên không có lý do gì phải sám hối. Các Tỳ kheo Bạt Kỳ bèn tập họp
lại, định làm yết ma kết tội Da Xá ngoan cố không nhận tội. Thấy
tình thế gay cấn, Da Xá liền dùng thần thông bay đến nước Ba Tuần.
Trên đường đi, Thầy gặp 60 Tỳ kheo đã đắc tam minh, lục thông, đều
là đệ tử của A Nan, Thầy liền yêu cầu họ họp sức để diệt trừ 10 điều
phi pháp của nhóm Tỳ kheo Bạt Kỳ, đồng thời Thầy tiếp tục vận động
hai nhóm Tỳ kheo khác, mỗi nhóm gồm 30 người. Họ cũng đã đạt được
đạo quả cao siêu như nhóm Tỳ kheo trước, và ai nấy đều nhiệt tình
hưởng ứng công việc chính nghĩa của thầy. Rồi thầy tiếp tục đến núi
A Phù mời trưởng lão Tam Phù Đà hợp tác, và trưởng lão cũng tùy hỷ.
Bấy giờ, trưởng lão Ly Bà Đa đã đạt được từ tâm tam
muội, có đông đảo đồ chúng, đang ở tại thành Câu Xá Di. Da Xá cũng
đến đó mời trưởng lão tham gia, và trưởng lão cũng hoan hỷ.
Các Tỳ kheo Bạt Kỳ nghe tin Da Xá đã đến gặp trưởng lão
Ly Bà Đa, họ bèn chở đầy thuyền những y bát của Sa môn và những vật
dụng cần thiết khác, cùng đến đó định mua chuộc trưởng lão để trưởng
lão yểm trợ. Trong thuyền ấy, có một Tỳ kheo tên Sa Lan, thấy sự
việc phức tạp, thầy bèn căn cứ vào kinh luật chiêm nghiệm xem các Tỳ
kheo Bạt Kỳ hành động đúng pháp hay phi pháp, thì thầy thấy rằng họ
phi pháp. Bỗng dưng, trên không trung có vị thiên thần ba lần xướng
lên rằng: "Đúng thế ! đúng thế ! Các Tỳ kheo Bạt Kỳ hành động phi
pháp như ông đã thấy".
Khi đi đến Câu Xá Di, các Tỳ kheo Bạt Kỳ liền vào diện
kiến trưởng lão Ly Bà Đa và thưa rằng: "Chúng tôi chở rất nhiều vật
dụng cần thiết của Sa môn đến để cúng dường đại đức, mong đại đức
nạp thọ". Trưởng lão từ chối nói: "Y bát của tôi đã đầy đủ chẳng cần
chi nữa". Họ lại nài nỉ: "Nếu không nhận nhiều, xin đại đức nhận cho
chút ít". Trưởng lão khẳng định: "Y bát của tôi đã đủ không thể nào
nhận thêm những vật của các thầy một cách phi pháp".
Biết Trưởng lão Ly Bà Đa có một đệ tử tên Đạt Ma thường
hầu bên cạnh, các Tỳ kheo Bạt Kỳ liền đến xin cúng dường vật dụng
cho thầy, thầy cũng từ chối. Họ bèn thuyết phục: "Khi Phật còn tại
thế, người ta đến cúng dường Phật, nếu Phật không nhận thì họ đem
cúng dường A Nan, A Nan đều nhận cả. A Nan nhận thì cũng như Phật
nhận". Đạt Ma nghe thế liền nhận một vật. Nhận rồi liền hỏi: "Các
Thầy muốn điều gì mà cưỡng ép bố thí cho tôi?". Họ đáp: "Chúng tôi
muốn đại đức thưa với Hòa thượng Bổn sư, tận lực hỗ trợ chúng tôi,
đừng để cho Da xá phá hoại pháp luật của chúng tôi".
Đạt Ma liền đến thưa với thầy mình: "Hòa thượng nên ủng
hộ các Tỳ kheo Bạt Kỳ", Ly Bà Đa nói: "Những người làm điều phi pháp,
ta không ủng hộ". Đạt Ma thưa: "Mong thầy suy nghĩ lại". Ly Bà Đa
liền khiển trách Đạt Ma: "Nay ngươi khuyên ta hỗ trợ những kẻ phi
pháp, ngươi chẳng phải là đệ tử của ta nữa. Từ nay trở đi chớ có ở
quanh quẩn bên ta".
Đạt Ma sợ hãi, xấu hổ, đến thuật lại với các Tỳ kheo
Bạt Kỳ sự kiện vừa rồi và họ bèn an ủi, khuyên Thầy đừng sợ gì cả.
Thế rồi, trưởng lão Ly Bà Đa suy nghĩ: "Nếu ta dẹp trừ
những việc phi pháp của bọn họ tại đây, họ sẽ khởi lên trở lại, vậy
ta phải cùng nhau đến chỗ ở của họ mà dẹp trừ". Nghĩ vậy, liền cùng
với Da Xá đến thành Tỳ Xá Ly. Nơi thành này, có vị Tỳ kheo tên là
Nhất Thiết Khứ, Thầy là vị Thượng tọa có uy vọng nhất trong hàng Sa
môn Thích tử ở cõi Diêm phù đề này, đã đắc quả A la hán, có tam minh,
lục thông, cũng là đệ tử lớn nhất của A Nan. Da Xá liền bàn với Ly
Bà Đa, cùng đến gặp Nhất Thiết Khứ để bàn bạc công việc rồi sẽ thực
hiện. Sau khi gặp Thượng tọa Nhất Thiết Khứ, chào hỏi xong xuôi, Ly
Bà Đa một mình đến phòng Thượng tọa, trải tọa cụ an nghỉ. Đêm đến,
Ly Bà Đa suy nghĩ: "Thượng tọa Nhất Thiết Khứ này đã quá già nua mà
còn nỗ lực ngồi thiền suốt đêm, thì ta nay đâu được phép an nghỉ".
Nhất Thiết Khứ cũng suy nghĩ: "Vị khách Tỳ kheo này đi đường cực
nhọc mà còn ngồi thiền suốt đêm để hành đạo, thì ta đâu được phép
nằm yên".
Hai người ngồi thiền suốt đêm suy nghĩ về nhau như thế.
Đến cuối đêm, Nhất Thiết Khứ hỏi Ly Bà Đa: "Đêm nay Thầy nhập vào
loại thiền định nào?"
Ly Bà Đa đáp: "Tính tôi rất nặng lòng từ bi, đêm nay
tôi nhập vào từ tâm tam muội".
- Đó là loại Thiền định thô thiển. Chẳng hay Thầy đã
đắc quả A la hán chưa?
- Đã đắc rồi. Thế còn Thượng tọa đêm nay nhập vào loại
Thiền định nào?
- Tính tôi thích quán tưởng về "không", đêm rồi tôi nhập vào không
tam muội.
- Đó là việc làm của bậc đại nhân. Vì không tam muội là
pháp của bậc đại nhân. Nhưng Thượng tọa đã đắc quả vị A la hán chưa?
- Đã đắc rồi.
- Vậy xin Thượng tọa cho biết, muối để cách đêm có được
phép dùng không?
- Việc ấy nên hỏi giữa chúng Tăng, nếu hỏi riêng tôi,
những kẻ phi pháp sẽ cho tôi là có ý thiên vị và không chấp nhận tôi
vào thành phần bàn luận Tỳ ni (giới luật).
Bấy giờ, Ly Bà Đa liền tập họp Tăng chúng để luận bàn
Tỳ ni, nhưng vì Tăng chúng đông đảo, không khí ồn náo, khó quyết
đoán Tăng sự nên Thầy đề nghị bạch nhị yết ma đề cử một số đại diện
để chủ trì cuộc họp và quyết đoán các sự việc. Nhóm Tỳ keo Bạt Kỳ
trước hết đề cử 4 vị: 1/Nhất Thiết Khứ, 2/ Ly Bà Đa, 3/ Bất Xà Tôn,
4/ Tu Ma Na. Nhóm Tỳ kheo Ấp Ba Lợi cũng đề cử 4 người: 1/ Tam Phù
Đà, 2/ Sa Lan, 3/ Trường Phát, 4/ Ba Sa Lam.
Các Thượng tọa được Tăng sai bèn nhất trí chọn khu vườn
của một nữ thí chủ đã cúng dường cho chư Tăng, tại Tỳ Xá Ly làm nơi
nghị sự.
Bấy giờ Ly Bà Đa bèn hỏi Thượng tọa Nhất Thiết Khứ điểm
thứ nhất: "Muối để cách đêm có được phép dùng không?"
Nhất Thiết Khứ đáp: "Không được dùng".
- Phật chế định điều này tại nơi nào?
- Tại thành Vương Xá.
- Do ai mà chế?
- Do một Tỳ kheo ở nơi A lan nhã.
- Phạm về việc gì?
- Phạm về việc dùng thức ăn để cách đêm, thuộc tội Ba
dật đề.
Thế rồi, Ly Bà Đa kết luận: Đó là pháp, đó là luật, đó
là lời Phật dạy, các Tỳ kheo Bạt Kỳ làm điều phi pháp, phi luật,
trái lời Phật dạy, giờ đây bỏ xuống một thẻ.
Và cứ thế, Ly Bà Đa hỏi, Nhất Thiết Khứ đáp, cho đến
khi kết thúc 10 điều phi pháp.
Tiếp theo, 8 vị này bèn suy cử 4 người đại diện là:
Nhất Thiết Khứ 136 tuổi hạ, Ly Bà Đa 120 tuổi hạ, Tam Phù Đà và Da
Xá đều 110 tuổi hạ, những vị này có trách nhiệm đem các quyết định
của Đại hội vừa rồi ra công bố trước 700 vị A la hán, theo thể thức
Ly Bà Đa hỏi và Nhất Thiết Khứ đáp như trên. Cuối cùng, Ly Bà Đa kết
luận: "Những gì không do Phật chế thì không được tùy tiện chế định,
những gì do Phật đã chế thì không được vi phạm. Tăng chúng phải chăm
chỉ học tập những gì Phật đã truyền dạy".
Cuộc kết tập này vừa đúng 700 vị A la hán, nên gọi là
cuộc kết tập của 700 người. (Ngũ phần Luật, ĐTK.1421, tr.19
Vài Điều Ghi Nhận
1- Lý do kết tập: cả hai bộ Tứ Phần luật (ĐTK.1428, tr.969c-976a) và
Thập Tụng luật (ĐTK. 1435, tr. 453c-455c) đều nhất trí với Ngũ Phần
Luật cho rằng do 10 điều phi pháp của nhóm Tỳ kheo Bạt Kỳ mà phải mở
Đại hội kết tập pháp tạng lần thứ hai này.
2- Thời gian kết tập: Ngũ
Phần luật và Tứ Phần luật đều ghi nhận là sau Phật Niết bàn 100 năm.
Riêng Thập Tụng luật thì bảo là sau Phật Niết bàn 110 năm.
3- Địa điểm kết tập: cả ba
bộ đều nhất trí bảo là tại Tỳ Xá Ly.
4- Thành phần chủ trì cuộc
kết tập: Hai bộ kia cũng không khác mấy với Ngũ Phần (xem lại trên),
chỉ có cách phiên âm tên của các trưởng lão hơi khác đôi chút mà
thôi.
5- Số người tham dự kết
tập: Cả ba bộ đều nhất trí cho rằng cuộc kết tập lần này có tất cả
700 vị A la hán.
6- Về 10 điều phi pháp: Cả
ba bộ, kể cả Luật Thiện Kiến (ĐTK.1462,tr.677c) và Luật Nam tông (Luật
xuất gia, quyển thượng, T.K.Hộ Tông, 241) cũng ghi nhận là có tất cả
10 điều, nhưng về thứ tự của 10 điều thì có đảo lộn chút ít (xem bản
so sánh ở sau). Tuy thế, nội dung của từng điều thì các bộ gần như
nhất trí, chỉ khác nhau về cách diễn giải rộng hay hẹp mà thôi.
Ở điều 2, Ngũ Phần luật
ghi: "Lưỡng chỉ" sao thực thực tịnh" (dùng hai ngón tay cầm thức ăn
để ăn vẫn hợp pháp), và được giải thích rõ là: Tỳ kheo ăn xong, rời
khỏi chỗ ngồi, nếu nhận được thức ăn khác, không cần xin phép ăn
thêm, dùng hai ngón tay cầm thức ăn mà ăn vẫn hợp pháp. Chúng tôi đã
so sánh các bộ Tứ Phần luật, Thập Tụng luật, Thiện Kiến luật - là
những tư liệu rất căn bản, cổ xưa, còn giữ nguyên vẹn cũng đều giải
thích ý nghĩa như Ngũ Phần. Nhưng không hiểu sao phần lớn các loại
luật giải về sau, thường giải thích điều này khác hẳn. Cụ thể như
Phật Quang Đại Từ Điển, tr.442a, giải thích điều 2 Nhị chỉ tịnh như
sau: Từ lúc mặt trời đúng ngọ cho đến lúc bóng xế hai ngón tay vẫn
có thể ăn được (mà không phạm luật). Nhân đây, người viết muốn nêu
lên thắc mắc này, xin chất chính các vị tôn túc luật sư, và rất mong
vấn đề này được làm sáng tỏ.
Tại sao gọi 10 điều ấy là
phi pháp? Thiết nghĩ, lúc bấy giờ cách Phật Niết bàn mới khoảng 100
năm, các vị tôn túc trưởng lão nghiêm trì giới luật vẫn còn nhiều,
chánh pháp còn được nhiều người sùng thượng, mà các Tỳ kheo Bạt Kỳ
lại tự tiện đặt ra những điều luật mới khác với giới luật Phật chế,
nên mới bị lên án gắt gao như vậy. Kỳ thực, trong 10 điều ấy chỉ có
vài điều là trái luật, ngoài ra, các điều khác cũng không có gì là
trầm trọng lắm, nếu đem so sánh với thời đại chúng ta ngày nay. Vả
lại, nếu muốn cho chánh pháp tồn tại lâu dài và được truyền bá rộng
rãi, thì các sứ giả Như Lai phải biết tùy theo căn cơ, thời đại và
hoàn cảnh mà áp dụng giới luật một cách uyển chuyển, linh động, miễn
sao không phương hại đến mục đích giải thoát là được. Nếu không thì
giới luật của Phật sẽ có nhiều điều trở nên vô hiệu. Thế nên, Phật
đã cẩn thận căn dặn: "Này các Tỳ kheo, tuy là những điều do Ta chế
định, nhưng nếu không phù hợp với phong tục tập quán của địa phương
đó, thì không nên áp dụng. Trái lại, có những điều không do Ta quy
định, nhưng vốn là phong tục tập quán của địa phương ấy thì không
thể không thi hành" (Ngũ Phần luật, ĐTK.1421, tr.153a).
Rồi Đức Phật bổ túc:
- "Tỳ kheo khi làm việc vì, nên đem đối chiếu với kinh,
luật, nếu việc làm đó phù hợp với tinh thần của kinh, luật thì hãy
làm. Ngược lại, nếu việc làm đó trái với tinh thần của kinh, luật,
thì không nên làm" (Tứ Phần Luật, ĐTK.1428, tr.970a).
Tóm lại, tinh thần của
Phật giáo là "Tùy duyên mà bất biến, bất biến mà vẫn tùy duyên".
Chúng ta có thể linh động áp dụng giới luật sao cho tốt nhất để đạt
đến mục đích giải thoát, nhưng phải thận trọng trong việc đề xuất
những quy định mới, và nhất là không nên tùy tiện sửa đổi giới luật
của Phật.
Phụ
Lục: Bản So Sánh 10 Điều Phi Pháp
Các bộ luật - Những điều khoản
- Ngũ Phần luật: 1 2 3 4 5
6 7 8 9 10
- Tứ Phần luật: 7 1 3 2 6
8 9 5 4 10
- Thập Tụng luật: 1 2 5 3
4 7 9 8 6 10
- Thiện Kiến luật: 1 2 4 3
7 8 9 6 5 10
- Nam Tông luật: 1 2 4 3 7
8 9 6 5 1
Chỉ có
cột 3 của Ngũ Phần luật (3 Tứ Phần: 5 Thập Tụng: 4 Thiện Kiến: 4
Nam Tông) về nội dung, so với mỗi bộ có sai khác đôi chút, còn 9
cột kia, tuy vị thứ của mỗi bộ có khác nhau, nhưng nội dung căn
bản có thể nói tương đối nhất quán. (Khi nào có dịp, chúng tôi sẽ
trở lại vấn đề này).
--- o0o
---
|