Lịch Sử
Kết Tập
Kinh -
Luật - Luận Lần Thứ Năm & Sáu
TT. Thích
Phước Sơn
---o0o---
LỊCH SỬ KẾT TẬP PHÁP TẠNG LẦN THỨ V
Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến
lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử
chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là
Mẫn Đông (Mindon - tại vị từ 1853 - 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị
cao tăng, cử hành kết tập Tam tạng giáo điển lần thứ 5, tại thủ đô
Man-Đức -Lặc (Mandalay), chính quốc vương làm người hộ pháp. Lần kết
tập này lấy Luật tạng làm trung tâm, khảo đính đối chiếu những điểm
dị đồng của thánh điển, rồi đại chúng cùng đọc tụng, trải qua 5
tháng mới hoàn thành. Sau đó nhà vua truyền lệnh đem văn tự của 3
tạng đã được kết tập sắp xếp theo thể loại, rồi cho khắc trên 729
khối đá hình vuông và đem cất vào trong chùa tháp Câu-tha-đà
(Kuthodaw), dưới chân núi Mạn-đức-lặc và cho xây 45 tòa tháp Phật
bao quanh ở bên ngoài. Thành quả kết tập này vẫn còn được bảo quản
tại cố đô Mạn-đức-lặc, cho đến ngày nay (PQĐTĐ, tr 5189b).
Tóm Tắt:
1. Lý do kết tập: Để thống nhất và giữ sự trong sáng
của kinh điển.
2. Thời gian kết tập: Vào năm1871, và trải qua 5 tháng
mới hoàn thành.
3- Địa điểm kết tập: Tại thủ đô của Miến Điện lúc bấy
giờ là Mạn-đức-lặc (Mandalay).
4. Số người tham dự kết tập: 2400 vị cao tăng.
5- Người khởi xướng và bảo trợ cuộc kết tập: Vua Mẫn
Đông (Mindon), vị hộ pháp đắc lực của Phật giáo Miến Điện lúc bấy
giờ.
6- Thành quả cuộc kết tập: Khảo đính lại 3 tạng, rồi
đem khắc trên 729 phiến đá hình vuông.
7. Phương thức bảo quản: Đem cất 3 tạng vào trong chùa
tháp Câu-tha-đà (Kuthodaw), và xây 45 ngôi bảo tháp xung quanh bên
ngoài.
LỊCH SỬ KẾT TẬP PHÁP TẠNG LẦN THỨ VI
Đại hội kết tập pháp tạng lần này được tổ chức tại Miến
Điện, cách lần kết tập pháp tạng thứ 5 đúng 83 năm. Phật giáo Miến
Điện vốn được Chính phủ tán trợ, đã long trọng cử hành đại hội kết
tập Tam tạng lần thứ 6 vào dịp đại lễ Phật Đản, nhằm ngày 17 tháng 5
(Visàkha Day), năm 1954. Mục đích lần kết tập này là nhằm đoàn kết
Phật giáo đồ, chấn hưng Phật giáo Thượng tọa bộ, và đề cao địa vị
độc lập của nước Miến Điện. Địa điểm kết tập đặt tại phía Bắc Ngưỡng
Quang trên đồi núi Nghệ Cố; cách tổ chức rập khuôn theo lần kết tập
thứ nhất tại hang Thất Diệp, nước Ấn Độ. Lần kết tập này dùng những
bản văn đã khắc trên 729 khối đá của lần kết tập thứ 5 làm căn cứ,
và thu thập rộng rãi các bản văn Tích Lan, Thái Lan, Cao Miên, Hiệp
hội Pàli Thánh điển ở Luân Đôn và những bản văn Pàli tại Miến Điện,
rồi đem ra khảo đính một cách kỹ lưỡng. Sau khi kết tập hoàn thành,
Giáo hội bèn đem in để lưu truyền. Lần kết tập này có mời các Tỷ
kheo thuộc những nước Phật giáo Nam truyền tham dự, đồng thời các Tỷ
kheo của những nước Phật giáo Bắc truyền cũng được mời đến dự khán.
Thời gian kết tập trải qua hơn 2 năm, đến Phật Đản 1956 (Phật lịch
2500) mới hoàn thành (PQĐTĐ, tr 5189).
Tóm tắt:
1- Lý do kết tập: Nhằm đoàn kết Phật giáo đồ và chấn
hưng Phật giáo Thượng tọa bộ.
2- Thời gian kết tập: Bắt đầu ngày 17 tháng 5, dịp lễ
Phật Đản năm 1954, trải qua 2 năm, đến Phật Đản 1956 (PL. 2500) mới
hoàn thành.
3- Địa điểm kết tập: Tại phía Bắc Ngưỡng Quang, trên
đồi núi Nghệ Cố.
4- Người khởi xướng cuộc kết tập: Giáo hội Phật giáo
Miến Điện.
5- Người bảo trợ cuộc kết tập: Chính phủ Miến Điện.
6- Thành quả của cuộc kết tập: Tham khảo tất cả kinh
điển của các nước Phật giáo Nam truyền, rồi đúc kết và đem xuất bản
để truyền bá.
Tóm Lược Tổng Quát:
Đến đây, chúng ta đã thấy một cách khái quát lịch trình
kết tập pháp tạng từ khi Phật Niết bàn cho đến ngày nay. Hai lần kết
tập thứ nhất và lần thứ hai, đều được các hệ phái Phật giáo công
nhận giá trị lịch sử của nó. Lần kết tập thứ ba gồm có 3 thuyết đề
cập đến, trong đó có đôi chỗ bất đồng. Nhưng thuyết được Tam Tạng
Pháp sư Huyền Trang ghi lại trong Đại Đường Tây Vức Ký là tương đối
có giá trị nhất về mặt lịch sử. Lần kết tập thứ nhất, hai, ba và tư,
đều xảy ra tại Ấn Độ. Riêng lần thứ tư, ngoài Ấn Độ, tại Tích Lan
cũng có một đại hội kết tập pháp tạng được tổ chức cùng thời gian
tương tự. Sau lần kết tập này, lần thứ năm và thứ sáu được diễn ra
tại Miến Điện, chỉ là công việc kết tập Tam tạng của Phật giáo
Thượng tọa bộ; và từ đó đến nay (1997), chưa có lần kết tập pháp
tạng nào khác nữa.
Hai lần kết tập thứ nhất và thứ hai được thực hiện bằng hình thức
khẩu tụng và khẩu truyền, chứ chưa ghi chép thành văn bản. Mặc dù
cũng có người cho rằng đã có dùng văn tự, nhưng ý kiến này không
được các học giả công nhận.
Luật tạng: Được hình thành ngay từ lần kết tập đầu tiên,
do Ưu Ba Ly tụng xuất, được gọi là Bát Thập Tung Luật (và được
truyền nhau bằng đọc thuộc lòng). Từ đó trở đi, hầu hết các bộ phái
Phật giáo đều lấy bộ luật này làm căn cứ, rồi bổ sung và chú giải
rộng rãi thêm. Do đó mà về phương diện Giới luật, sự sai khác giữa
các bộ phái tương đối rất ít.
Kinh tạng: - Chủ yếu là 4 bộ Nikàya, tương đương với 4
bộ A Hàm - cũng được hình thành từ lần kết tập đầu tiên, do A Nan
tụng xuất; Còn Tiểu bộ kinh Nikàya thì được hình thành dần dần sau
đó. Theo quan điểm của các học giả thì những gì được gọi là kinh
thường hội đủ 3 yếu tố: 1. Phù hợp với chân lý (pháp tánh); 2. Phù
hợp với đạo đức (hay giới luật); 3. Có giá trị thực tiễn. Luật thì
chỉ có Phật chế định, nhưng kinh thì có 5 hạng người nói ra, đó là:
1. Do chính miệng Phật nói ra; 2. Do đệ tử Phật nói; 3. Do các vị
thần tiên nói; 4. Do chư Thiên nói; 5. Do hóa nhân nói. (1)
Luận tạng: Chính thức được thành lập từ đại hội kết tập
lần thứ 3 trở đi, do yêu cầu phản bác những chỉ trích và xuyên tạc
của ngoại đạo, đồng thời cũng nhằm làm sáng tỏ giá trị của giáo điển
mà thành lập. Hơn nữa, cũng chính từ lần kết tập thứ 3 này, Tam tạng
giáo điển mới bắt đầu chính thức ghi chép thành văn bản. Theo Phán
sư Ân Thuận thì tôn giáo cổ đại cũng như các nền triết học khác, từ
lúc khai sáng đến lúc hoàn thành, về phương diện văn cú, đều từ đơn
giản đến phong phú; về phương diện nghĩa lý, đều từ chỗ mù mờ đến
chỗ sáng tỏ, từ chỗ sơ lược đến chỗ tinh vi, từ chỗ rời rạc đến chỗ
có hệ thống. Thánh điển Phật giáo cũng không ra ngoài công lệ đó;
nghĩa là sự tụng đọc, kết tập ban đầu rất đơn giản, ngắn gọn, rồi
dần dần trở nên phong phú và hoàn chỉnh (2). Thế nên, 7 bộ luận thư
của Phật giáo Nam truyền không phải được soạn ra cùng một lúc, mà ít
nhất cũng trải qua thời gian từ 200 đến 300 năm mới hoàn tất.
Các Nhà Phật Học Cho
Rằng Thánh Điển Phật Giáo Bao Gồm Mấy Loại Sau Đây:
1- Thánh Điển Pali
Thánh điển này thuộc các nước Phật giáo Nam phương như Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào. Cơ sở của văn Pàli là tiếng
Paisàci và có pha trộn ít nhiều tiếng Ma Kiệt Đà (Magadha). Cách cấu
trúc của văn Pàli được chia làm 5 nhóm, mỗi nhóm gồm 5 âm tiết, văn
phạm rất chặt chẽ, đọc lên nghe có nhạc điệu, khiến cho người học dễ
ghi nhớ và thuộc lòng; nên dù không phải là ngôn ngữ chính của Phật,
vẫn được các học giả đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Hơn nữa, Thánh
điển này được bảo tồn tại Tích Lan và các nước Phật giáo Nam phương
khác, ít bị nạn binh lửa chiến tranh tàn phá, chưa trải qua sự phiên
dịch, nên khi nghiên cứu, các học giả có cảm giác rất gần với Phật
giáo Nguyên thủy. Đó là ưu thế của loại Thánh điển này.
Chúng ta còn biết rằng Tam tạng giáo điển sau khi truyền vào Tích
Lan, trải qua hơn 150 năm đến đời vua Phạt-đa-già-ma-ni trị vì, ông
mới ra lệnh viết thành văn tự lần đầu tiên, khoảng năm 20 trước Tây
lịch (3). Thế rồi, mãi đến năm189 Tây lịch, vua Tích Lan là Tấn La,
nhân kỷ niệm lần thứ 25 ngày lên ngôi của mình, nhà vua mới cho in
tạng Pàli thánh điển. Đây là một bộ Đại tạng khá hoàn chỉnh, thường
được gọi là Nam truyền Đại tạng kinh, nội dung thiên về Phật giáo
Tiểu thừa. Đại khái các bản Hán dịch về Luật tạng và kinh A hàm,
tương đương với các Kinh Luật trong Đại tạng này (4).
2- Thánh điển Sanskrit:
Gồm Hai Loại:
a- Nê Bá Nhĩ thánh điển: loại kinh điển này không giống
với kinh điển Pàli, và đều thuộc về Phật giáo Đại thừa. Những tác
phẩm tác này có hình thức giống như Áo Nghĩa Thư.
b- CácThánh điển Phật giáo được phát hiện tại Trung Á
Tế Á: loại Thánh điển này cho đến nay đều là những bản văn rời rạc,
không đầy đủ.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể kể thêm Hán dịch Thánh điển và Tạng
dịch Thánh điển:
- Hán dịch Thánh điển: bao
gồm các bản dịch bằng Hán văn từ những tác phẩm thuộc các bộ phái.
Công việc phiên dịch bắt đầu từ năm Đinh Mão, niên hiệu Vĩnh Bình
thứ 10, tức năm 67 Tây lịch, đến năm 730 thuộc niên hiệu Đường Khai
Nguyên thứ 18, gồm tất cả 664 năm, và số người phiên dịch là 176
người, kể cả chư Tăng và cư sĩ. Tất nhiên, sau đó công việc phiên
dịch còn tiếp tục đến thế kỷ 13. Những bản Hán dịch về Phật điển gồm
đủ các bộ phái, mặc dù chưa hoàn chỉnh, nhưng đây là một kho báu
trong lĩnh vực văn hóa Trung Quốc, khiến Trung Quốc thành một trung
tâm Phật giáo vĩ đại nhất, ngoại trừ Ấn Độ (5).
- Tạng dịch Thánh điển:
Thánh điển này chủ yếu được dịch từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 11.
Đây là loại văn hiến được nhiều học giả Phật giáo trọng
thị để tâm nghiên cứu. Còn các kinh điển mà Phật giáo Nhật Bản và
Triều Tiên sử dụng chẳng qua chỉ là những bản Hán dịch đặc biệt, chứ
không phải là bản dịch từ ngôn ngữ chính quốc; ngoại trừ, gần đây
Nhật Bản đã dịch đầy đủ bộ Nam truyền Đại tạng kinh (6).
Tóm lại, thông thường chúng ta chỉ biết có 3 tạng là; tạng Kinh,
tạng Luật và tạng Luận. Thế nhưng có thuyết còn đề cập đến 5 tạng,
đó là: 1- Tạng Kinh; 2- Tạng Luật; 3- Tạng Luận; 4- Tạp tạng; 5- Cấm
chú tạng (hay Bồ Tát tạng). Thậm chí trong "Bồ Tát Xử Thai kinh,
phẩm Xuất Kinh" còn liệt kê ra đến 8 tạng là: 1- Thai Hóa tạng; 2-
Trung Ấm tạng; 3- Ma Ha Diễn Phương Đẳng tạng; 4- Giới Luật tạng; 5-
Thập Trụ Bồ Tát tạng; 6- Tạp tạng; 7- Kim Cương tạng; 8- Phật tạng
(7).
Tất nhiên, thuyết này ít ai công nhận.
Ngoài các đại hội kết tập pháp tạng mà chúng ta đã tìm
hiểu, Đại Trí Độ Luận quyển 100 và Kim Cương Tiên Luận quyển 1 còn
cho biết: Cùng lúc Ca Diếp kết tập 3 tạng Tiểu thừa tại núi Kỳ Xà
Quật, thì có Văn Thù, Di Lặc... cùng với A Nan kết tập kinh điển Đại
thừa tại núi Thiết Vi. Cuộc kết tập này được gọi là Kết tập Kinh
điển Đại thừa. Nhưng thuyết này có lẽ là truyền thuyết phát sinh sau
khi Phật giáo Đại thừa đã hưng khởi (8).
Trong loạt bài vừa qua, chúng tôi đã giới thiệu khái
quát lịch sử kết tập pháp tạng và diễn tiến hình thành Tam tạng giáo
điển qua các thời kỳ từ lúc khẩu truyền cho đến khi được viết thành
văn bản. Những bài kế tiếp, chúng tôi sẽ trình bày sơ lược nội dung
của hai Tạng giáo Nam truyền và Bắc truyền, để quý độc giả có cái
nhìn tổng quát về Tam tạng giáo điển của đạo Phật.
Ghi chú:
(1), (2): Nguyên thủy Phật giáo
thánh điển chi tập thành, Ấn Thuận, Đài Bắc XB 1988, tr.6, tr.21.
(3), (6): Ba Lợi hệ Phật giáo sử cương, nhiều tác giả, Đài Bắc XB
1987, tr.242, tr.233.
(4), (5): Phật điển Hán dịch chí nghiên cứu. Vương Văn Nhan, Đài Bắc
XB 1984, tr.3, tr.1.
(7), (8): Phật Quang Đại Từ Điển, Đài Bắc Xb 1989, tr.1588.
--- o0o ---
|