Giới
Thiệu
KINH PHÁP HOA
Thích Viên Giác
---o0o---
Kinh
Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại
thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là 1 trong 20 Thánh
thư phương Đông. Sự hành trì tụng niệm một cách sâu rộng và bền bỉ
của Phật tử đối với Kinh Pháp Hoa cho thấy rằng đây là một bộ kinh
đặc biệt về cả hai mặt triết lý và huyền bí. Ở Việt Nam, Kinh Pháp
Hoa được trì tụng hàng ngày như một thời khóa tu học kể cả chư tăng
lẫn Phật tử tại gia. Vì vậy rất khó mà nói hết được giá trị của Kinh
Pháp Hoa và tại sao lại có tác dụng rộng lớn như thế. Sự nghiên cứu
về mặt lịch sử cũng như khái quát bố cục nội dung kinh là điều cần
thiết cho những Phật tử quan tâm đến bộ kinh lớn này.
1- Sự Xuất Hiện Của
Kinh Pháp Hoa:
Theo các tài liệu về lịch sử Phật giáo hiện đại như ĐẠI
THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN của Kimura - Taiken cũng như một số tài
liệu khác thì Phật giáo Đại thừa có mặt tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ
thứ I trước Tây lịch cho đến thế kỷ thứ I sau Tây lịch. Đại thừa
phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ thứ II trở đi. Kinh Pháp Hoa xuất hiện
vào khoảng thế kỷ thứ II. Sự phát triển Phật giáo Đại thừa là tất
yếu để đáp ứng nhu cầu tâm thức và tâm linh của thời đại. Trước Pháp
Hoa, kinh điển Đại thừa đã xuất hiện khá phong phú như Bát Nhã, Hoa
Nghiêm, Duy Ma Cật v.v… Pháp Hoa xuất hiện như là bước tiếp nối tổng
hợp tư tưởng Đại thừa của các kinh trên.
2- Bối Cảnh Lịch Sử :
Sau khi Đức Phật nhập diệt 100 năm, giáo đoàn bắt đầu
phân phái. Những quan điểm, giải thích giáo lý, giới luật có sự khác
biệt giữa các nhóm, các phái và giữa các vùng khác nhau. Sự phân
chia tông phái ngày mỗi tăng, có đến 20 tông phái. Tinh thần giáo lý
Nguyên thủy được ghi nhớ và giải thích phần nào lệch lạc. Tăng đoàn
của mỗi phái cố gắng thiết lập cho mình một căn cứ địa về mặt địa lý
cũng như về mặt tư tưởng để củng cố học thuyết và hệ phái của mình.
Đường lối sinh hoạt và tu tập của chư tăng ngày càng cách biệt với
quần chúng và quần chúng cũng không biết theo ai. Sinh khí của giáo
lý thực tiễn cứu khổ thuở ban đầu bị xói mòn, khô cứng, dần dần đi
vào tư biện triết học. Phật giáo Ấn Độ trong tình trạng như vậy bị
co cụm với những lý thuyết khô khan. Trong khi đó, triết lý
Bà-la-môn đang có chiều hướng phát triển và tranh chấp ảnh hưởng với
Phật giáo, nhu cầu phát triển đổi mới, tạo tác dụng thực tiễn của
giáo lý vào đời sống xã hội là một nhu cầu bức xúc. Đại thừa xuất
hiện trong bối cảnh ấy, những người Phật tử trí thức và đầy tâm
huyết muốn thấy Phật giáo có sự sống sinh động và có tác dụng tích
cực như thời Đức Phật, họ đứng lên khởi xướng phong trào mới là Đại
thừa (Mahayana), tức cỗ xe lớn chứa được nhiều người đến nơi Phật
quả. Phật giáo truyền thống được coi là Tiểu thừa tức cỗ xe nhỏ, ích
kỷ, chỉ thành tựu A-la-hán quả. Sự va chạm giữa Đại thừa và Tiểu
thừa đã xảy ra một cách mạnh mẽ, đến độ không ai chấp nhận ai. Những
kinh điển Đại thừa lần lượt xuất hiện phát dương lý tưởng Đại thừa,
giải thích giáo lý mang tính tích cực và đại chúng hơn. Bát Nhã là
bộ kinh lớn xuất hiện khá sớm, triển khai tư tưởng Chân không tích
cực đả phá Tiểu thừa, cho rằng Thanh văn và Duyên giác không phải là
con của Phật. Kinh Hoa Nghiêm chủ trương pháp giới duyên khởi, nhưng
vẫn coi Tiểu thừa là thấp kém hạ liệt. Đến Duy Ma Cật thì Tiểu thừa
bị chỉ trích thậm tệ. Sự đả phá chỉ trích lẫn nhau đã dẫn đến không
chấp nhận nhau làm cho Phật giáo suy yếu. Đại thừa, mặc dù đã đưa ra
đường lối tu tập sinh động hơn, nhưng bên cạnh đó tạo ra mối mâu
thuẫn mới và lớn lao hơn. Nhu cầu về con đường hòa giải trở nên cấp
thiết, xu hướng phê phán sự xung đột và mâu thuẫn trong Phật giáo
ngày càng mạnh, tạo áp lực nhất định vào tâm tư của thời đại, Kinh
Bách Dụ, một tác phẩm xuất hiện vào thế kỷ thứ II, đưa ra chuyện ngụ
ngôn : Hai người đệ tử bóp chân thầy. Họ thường ghét nhau nên hành
hạ nhau bằng cách lấy đá đánh gãy chân thầy mà người kia đang bóp.
Người kia tức giận trả thù bằng cách cũng lấy đá đánh gãy chân thầy
của người nọ. Ngài Tăng Già Tư Na, tác giả của Bách Dụ nhận xét :
“Cũng như người học Phật, người nghiên cứu Đại thừa bài bác Tiểu
thừa, người nghiên cứu Tiểu thừa bài bác Đại thừa, làm cho giáo pháp
cả hai đều mất”. Trong bối cảnh đó, Kinh Pháp Hoa xuất hiện, chủ
trương hòa giải mọi mâu thuẫn gay gắt của các dòng tư tưởng Đại thừa
trước đó đối với giáo lý truyền thống, tạo sự thống nhất về tư tưởng
và đường lối Phật giáo. Mặt khác, Pháp Hoa cũng tổng hợp những tư
tưởng cốt tủy của Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Duy Ma, đồng thời mở ra chân
trời mới cho mọi con người trong xã hội : Ai ai cũng có Phật tánh,
ai ai cũng có khả năng thành Phật. Kinh Pháp Hoa không trình bày
chân lý theo khía cạnh triết học hoặc chuyên môn, mà theo cách mới
có tính đại chúng, thực tiễn và dễ hiểu. Nhờ những đặc thù trên mà
Kinh Pháp Hoa được coi là vua của các kinh.
3- Quá Trình Phiên Dịch
Và Truyền Bá:
Kinh Pháp Hoa được dịch rất sớm và có rất nhiều bản
dịch khác nhau. Chi Khiêm, người nước Ngô thời Tam Quốc (225-253 TL)
đã dịch riêng phẩm Thí Dụ gọi là Phật Dĩ Tam Xa Hoán Kinh. Tiếp sau
đó các nhà dịch thuật đã dịch 6 bản khác nhau :
1- Pháp Hoa Tam Muội Kinh 6 quyển, ngài Cương Lương
tiếp đời Tôn Lương (225 TL) dịch. 2- Tát Vân Phần Đà Lỵ Kinh 6
quyển, ngài Trúc Pháp Hộ dịch phần đầu, đời Tây Tấn (265 TL).
3- Chánh Pháp Hoa 10 quyển, cũng do ngài Pháp Hộ dịch lần
cuối, đời Tây Tấn (286 TL). 4.Phương Đẳng Pháp Hoa Kinh 5 quyển,
ngài Chi Đạo Căn dịch, đời Đông Tấn (335 TL). 5.Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh 7 quyển, sau đổi thành 8 quyển, ngài Cưu-ma-la-thập dịch năm
406 đời Dao Tần. 6.Thiêm phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 7 quyển, do
hai ngài Xà-la-hốt-đa (Jnànagupta) và Đạt-ma-cấp-đa (Dharmagupta)
cùng dịch vào đời Tùy (601 TL).
Sáu bản dịch trên, nay chỉ còn 3 bản trong Đại Tạng là
Chánh Pháp Hoa, Diệu Pháp Liên Hoa, Thiêm phẩm Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh. Trong các bản này có sự sai khác đôi chút. Kinh Pháp Hoa phải
trải qua nhiều giai đoạn mới hoàn thành như hiện nay. Có thể chia
thành 4 giai đoạn : -Giai đoạn 1:
- Pháp Hoa mang tính đại chúng được viết bằng tiếng
Prakrit, phần trùng tụng xuất hiện trước. - Giai đoạn 2:
Được thêm vào phần văn xuôi để làm cho phần kệ tụng
được rõ hơn (sau này ta tưởng là phần kệ tụng tóm tắt phần văn
xuôi). –
Giai đoạn 3:
Phát triển thêm phần văn xuôi. Khi so sánh các bản Phạn
thì các bản cổ văn xuôi ngắn hơn, các bản về sau văn xuôi lại dài
hơn.
Giai đoạn 4:
Phát triển thêm bản mới, bản Phạn cũ chỉ có 27 phẩm,
sau thêm phẩm Đề Bà Đạt Đa thành 28. Hiện nay có nhiều bản Phạn ngữ
Kinh Pháp Hoa được tìm thấy từ Tây Tạng, Népal, Kotan… Đại Tạng Hán
ngữ nay còn 03 bản. Bản của ngài La Thập dịch thì được ưa chuộng hơn
và phổ biến hơn. Ngoài bản dịch ra Hán ngữ còn các bản dịch khác của
Mông Cổ, Mãn Châu, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam rất phong phú. Sự
nghiên cứu và lưu truyền Kinh Pháp Hoa rất sâu rộng, ở Ấn Độ ngài
Long Thọ (Nagarjuna) khi trứ tác Đại Trí Độ Luận đã dẫn chứng Kinh
Pháp Hoa và Ngài có một tác phẩm giải thích Pháp Hoa là Pháp Hoa
Thích Luận. Ngài Thế Thân, một Luận sư nổi tiếng có lược dịch và
giải thích Pháp Hoa qua bộ Pháp Hoa Luận. Ở Trung Hoa, những bản chú
giải, sớ giải về Pháp Hoa của các nhà nghiên cứu Phật học qua các
thời đại rất nhiều, nổi bật là Trí Giả Đại sư (538) của tông Thiên
Thai với các tác phẩm nổi tiếng như Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa
Văn Cú, Ma Ha Chỉ Quán v.v… Kinh Pháp Hoa đóng một vai trò quan
trọng không những ở Ấn Độ mà còn ở Trung Hoa, Nhật Bản và các nước
theo truyền thống Đại thừa. Chưa có công trình nào đánh giá hết được
tác dụng của kinh đối với xã hội nhân sinh ở các nước trên đến mức
nào.
4- Cấu Trúc Và Nội Dung
Kinh Pháp Hoa:
a- Ngôn ngữ Pháp Hoa:
Kinh Pháp Hoa được trình bày dưới hình thức một vở kịch
có nhiều màn, nên nó mang tính đại chúng dễ hiểu. Đó là cách truyền
đạt chân lý cao siêu qua cái bình thường thông tục. Vì vậy ngôn ngữ
Pháp Hoa diễn đạt mục tiêu không phải là sự kiện mà chính là sự thật
chứa ở bên trong. Nói cách khác, ngôn ngữ Pháp Hoa mang tính biểu
tượng. Chân lý thì toàn diện, siêu việt, trong khi đó, ngôn ngữ thì
phiếm diện, giới hạn, cho dù sử dụng ngôn ngữ tinh xảo cách mấy cũng
không chuyển tải hết sự thật, vì vậy Pháp Hoa chọn cách sử dụng ngôn
ngữ biểu tượng để chuyển tải sự thật đến mức tối đa.
b- Cấu Trúc Kinh:
Kinh Pháp Hoa có 28 phẩm:
01- Phần đầu gọi là Tự, tức là phẩm mở đầu.
02- Phẩm Phương Tiện (sự khéo léo).
03- Phẩm Thí Dụ.
01- Phẩm Tín Giải (niềm tin vững chắc).
02- Phẩm Dược Thảo Dụ (thí dụ về cây thuốc).
03- Phẩm Thọ Ký (xác nhận thành Phật).
04- Phẩm Hóa Thành Dụ (thí dụ về thành phố biến hóa).
05- Phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký (xác nhận cho 500 đệ tử
thành Phật).
06- Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký (xác nhận cho những
người cần phải học và người không cần phải học thành Phật).
07- Phẩm Pháp Sư (Thầy dạy pháp).
08- Phẩm Hiện Bảo Tháp (hóa hiện tháp báu).
09- Phẩm Đề Bà Đạt Đa.
10.Phẩm Trì (giữ gìn kinh).
11- Phẩm An Lạc Hạnh.
12- Phẩm Tùng Địa Dõng Xuất (từ đất vọt ra).
13- Phẩm Như Lai Thọ Lượng.
14- Phẩm Phân Biệt Công Đức.
15- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức
16- Phẩm Công Đức Pháp Sư.
17- Phẩm Thường Bất Khinh Bồ-Tát.
18- Phẩm Như Lai Thần Lực.
19- Phẩm Chúc Lụy (dặn dò).
20- Phẩm Dược Vương Bồ Tát.
21- Phẩm Diệu Âm Bồ-Tát.
22- Phẩm Quán Thế Âm Bồ-Tát.
23- Phẩm Đà-La-Ni (Dharana – mật chú).
24- Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự (chuyện về vua
Diệu Trang Nghiêm).
25- Phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát (sự khuyến khích
của Bồ-tát Phổ Hiền) Các tựa đề nói lên toàn bộ hay một phần nội
dung của một phẩm.
c- Nội Dung:
Đề kinh tiếng Phạn là Saddharma Pundarika Sutra. Từ
“Sad” ngài Pháp Hội dịch là Chánh, ngài La Thập dịch là Diệu;
“Dharma” là pháp; “Pundarika” là hoa sen trắng; “Sutra” là kinh.
Dịch là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, gọi tắt là Pháp Hoa Kinh. Diệu pháp
là chân lý. Chân lý có chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Hoa
sen trắng tượng trưng cho sự thanh khiết, thanh tịnh, không ô nhiễm.
Vậy Diệu pháp là Thật tướng không tách khỏi cuộc đời bụi bặm. Trong
cõi ô trược, chúng sanh vẫn có thể vươn lên giải thoát hoàn toàn,
như hoa sen mọc ở trong bùn mà vươn lên trên bùn, không bị ô nhiễm
mà còn tỏa sắc hương. Thông thường, nội dung Kinh Pháp Hoa được giới
thiệu trình bày qua hai hình thức:
a- Giới Thiệu Kinh Qua Chủ Đề “Khai Thị Chúng Sanh Ngộ
Nhập Phật Tri Kiến”:
Phẩm Tựa trình bày tổng quát hiện tượng và bản thể của
vũ trụ pháp giới. Phẩm 2 đến phẩm 10 mở bày cái thấy biết của Phật.
Phẩm 11 đến 22 chỉ cho thấy chỗ thâm áo của Phật tri kiến. Phẩm 23
đến 28 nói về thể nhập Phật tri kiến.
b- Giới Thiệu Kinh Qua Khái Niệm Về Tích Môn Và Bổn Môn
Của Tông Thiên Thai.
Kinh Pháp Hoa chia làm 2 phần : 14 phẩm đầu thuộc Tích
môn, 14 phẩm sau thuộc Bổn môn. Phần Tích môn chia làm 3 phần : Dẫn
nhập, chánh tông và kết luận. Phẩm 1 là dẫn nhập, phẩm 2 đến phẩm 9
là chánh tông, phẩm 10 đến 14 là kết. Phần Bổn môn cũng chia làm 3
phần như trên. Nửa đầu phảm 15 là phần dẫn nhập (có nơi cho rằng
phẩm 1 là phần dẫn nhập cho cả 2 môn). Nửa phần sau của phẩm 15 đến
phẩm 16 và nửa đầu phẩm 17 là phần chánh tông, nửa sau của phẩm 17
cho đến phẩm 28 là phần kết. Phần Tích môn là phần giáo lý của Đức
Phật Thích-ca Mâu-ni có sanh ra, lớn lên, xuất gia, thành đạo, nhập
diệt, dạy giáo lý thoát khổ ở cõi thế gian này. Trong kinh, phần nào
thuyết pháp ở núi Linh Thứu thì thuộc về Tích môn, còn gọi là Chân
lý tương đối. Phần Bổn môn là phần gốc, là nền tảng của Tích môn.
Nghĩa là Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp. Phật hiện hữu suốt
chiều dài của thời gian và phổ biến cả không gian. Chân lý của Bổn
môn là tuyệt đối. Nhờ giáo lý Bổn môn mà lý giải tất cả chúng sanh
đều thành Phật, vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đây là điểm
đặc thù của Pháp Hoa.
5- Kết Luận:
Kinh Pháp Hoa đóng một vai trò quan trọng trong công
cuộc hàn gắn sự đổ vỡ của các trường phái Phật giáo. Mặt khác đặt
lại giá trị của mọi đường lối tu tập và nhất là giá trị tâm thức
hướng thiện, hướng thượng của mọi chúng sanh. Sự tồn tại của Đức
Phật là vĩnh cửu, mọi hiện tượng dưới con mắt người giác ngộ đều là
biểu hiện chân lý. Ý tưởng này đã làm nền tảng cho tư tưởng Đại thừa
và con đường thực hành Bồ-tát hạnh.
Với một đường lối dung hòa, với tư tưởng pháp chân
không siêu thoát, Kinh Pháp Hoa đã đạt được mục đích của mình là
khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Có lẽ cũng vì vậy mà
kinh được tôn thờ quý kính, hành trì và phổ biến một cách sâu rộng.
--- o0o ---
|