Tổng Luận
KINH LĂNG NGHIÊM TRỰC CHỈ
H.T. Thích Thiện Siêu
---o0o---
Từ Phật Oai Âm Vương về trước, không có tên Phật và
tên chúng sanh. Bấy giờ chính là đạo. Chỉ có điều là không người
giác tri. Lớn thay lời nói ấy! Có thể gọi lời đó là phơi bày ánh
sáng giữa ban ngày, ngợi khen sự mênh mông của biển cả. (Ý nói đã
sáng càng thêm sáng, đã mênh mông càng thêm mênh mông). Ngộ tức là
đề hồ, mê vẫn là độc dược. Do đó cho nên đức Phật đóng cửa thất
nơi nước Ma-kiệt-đà, ngài Duy Ma Cật ngậm miệng tại thành
Tỳ-da-ly. Ðâu chỉ vì chơn cơ tuyệt đãi, mà thật là chí đạo khó
nói. Cho nên đức Thế Tôn trải tọa dưới cội Bồ-đề, bèn muốn thị
hiện nhập Niết-bàn, bày ngực giữa rừng cây Song thọ, lại tuyên bố
không từng nói một chữ. Trước sau cùng một ý chí này, đầu cuối
toàn nêu bày trọn vẹn. Lời dạy trong Mười hai bộ kinh, đúng thật
đều là phương tiện. Ba thời năm giáo, quyền giáo Tiểu thừa đều thu
nhập vào tính Diệu viên.
Pháp giới đâu thể biết, đồng giác mê mà thành chung
thủy; trí sáng tự chiếu soi, bao hàm chơn vọng bởi tánh viên
thường. Từ trước đến nay vẫn là như thế. Cổ động sự vào ra của
muôn loài mà không cùng với Thánh nhân đồng một lo nghĩ, (muôn
loài ra vào từ diệu tánh, mà diệu tánh không có sự lo nghĩ như
Thánh nhân). Tận cùng chỗ chỉ quy của Ba tạng, cốt yếu gạn rõ việc
khó rõ của trăm họ. Vốn tự không mê đâu lại có ngộ? Trỏ nhĩ diệm
(sở tri) là Bồ-đề, luống uổng khơi bày cái thấy của đấng Ðộc tôn:
trả Niết-bàn về sanh tử, ai biết được tâm đấng Ðại giác.
Phải biết vọng xoay theo bất giác, mới tin diệu tánh
tức vô minh. Hội ba đời trong một sát-na, dung mười phương nơi
đương niệm. Trong đây rất khó dung hợp, động niệm liền dính trần
sa, vừa tự tin đã là trôi mất thời gian, còn để mặc tự nhiên thì
lại đồng mờ mịt.
Việc hằng ngày của kẻ dung thường, chính là chỗ để
tâm của hàng Thượng triết: sự có không của phàm phu, ngoại đạo đều
là chỗ cứng lưỡi của bậc Chí nhân. Ðộng cũng không phải là vọng,
tánh trí vốn tự lặng yên. Lý chơn thật rốt ráo về đâu, tánh hư
không đồng với tịch chiếu. Còn không phải là kiếp ngoại, thì đâu
gọi là thời nay.
Chơn như không thật tánh, sáng và tối tùy theo duyên,
sanh diệt do tâm, năng nhân và sở nhân lẫn hiện.
Từ nhất chơn pháp giới, vọng thấy có tự và tha; từ
nơi cửa như huyễn, mà riêng thành tâm và sắc. Sáu trần ngăn bít
thành động và tịnh hai duyên, năm ấm ngưng chắc, nên người hiền kẻ
ngu đều chấp.
Từ cửa mắt vào gọi đó là sắc; từ cửa tai vào gọi đó
là tiếng, mũi, lưỡi, thân, ý tự giữ việc riêng; hương, vị, xúc,
pháp cùng nhau hiển hiện. Căn và trần đâu có khác, phân biệt cũng
là thường. Chính cái ngã cảnh ngã tâm của kẻ mê loạn tức là chơn
trí, chơn lý của bậc Thánh Hiền. Cái sai biệt như thế, cần phải
một phen xoay trở lại.
Chung ngồi nơi Ðạo tràng của Như Lai mà hằng trọn đời
không giác ngộ; ai chỉ ra cảnh giới trần lao, hầu khai mở cho kẻ
mê muội đồng trở về.
Sanh tử tiếp nối, đều bởi dâm tâm; phân biệt theo
vọng duyên, đều do tánh thấy. Tánh vốn chẳng phải thấy, gá nơi căn
mà soi sáng; tâm không là dâm, nhân vì sắc che lấp. Thấy sắc thì
tâm mờ tối, thấy tướng thì tâm phát sanh: đồng nơi tâm và mắt này,
mà phân chia có hơn có kém.
Nhơn tâm nên có tưởng, đạt tưởng chính là tâm. Há có
tạm và thường, do giác mê bèn có khác. Biết lưu chuyển do từ đâu,
thì tâm cảnh nào có khác. Rõ thường trú hằng như vậy, thì thấy
nghe không đổi dời. Gạn cùng bảy chỗ (bảy chỗ hỏi gạn tâm), thì đa
văn ích gì.
Từ cửa mặt phóng hào quang, là chỉ cho thấy căn tánh
mỗi mỗi đều tròn sáng; thế giới hợp lại hay chia ra, là tiêu biểu
thân và độ lớp lớp thu nhiếp lẫn nhau, thân tâm vốn không rộng
hẹp, mà thể dụng như tuồng có trệ ngại và viên dung. Bởi do chưa
rõ hai món căn bản nên khiến cho cái "năng suy" lìa trần không có
tự thể, do đó tướng và kiến hiện tiền có thể biện biệt, nhưng tâm
và mắt đen tối vẫn còn mê.
Ðèn hay hiển bày các sắc, như vậy cái thấy là con mắt
chứ không phải đèn; con mắt hay hiển bày các sắc, như vậy tánh hay
thấy là tâm chứ không phải con mắt. Mới tin tâm vốn thường trụ, mà
con mắt thì có khuyết có toàn.
Thường trú gọi là chủ, không thường trú gọi là khách.
Cũng như hư không vốn đứng lặng, mà bụi trần tự lay động; tâm tánh
vốn chơn không, mà sanh diệt thì theo niệm. Ðâu không biết niệm là
sở duyên, còn chưa rõ tâm ắt chẳng diệt.
Bởi do ở lâu trong mê nên tâm đã thành tưởng. Lấy
tưởng duyên tâm, thì tâm đồng với tưởng tàn tạ. Lìa tưởng gạn cái
thấy, cái thấy hiển lộ thì tưởng không còn. Nên ngoài phân biệt
vẫn còn lưu lại căn tánh để chờ đợi phát minh. Tuy đối hiện nói là
tạm có, lại trải qua năm xưa cũng như hiện tại.
Quán thân dời đổi, niệm niệm không dừng, xem sông
Hằng vẫn y nhiên, lúc trẻ với lúc già không khác, đối cảnh rõ
ràng, không rơi vào suy nghĩ (kiến tánh ngoài suy nghĩ), nhớ lại
tức đành rành, đâu phải nhọc tụng tập. Cho nên biết Phật tánh của
chúng sanh, ở ngay trước mắt; nhận thấy Niết-bàn Như Lai thoạt vào
nơi tâm niệm. Nương theo chỗ tâm phân biệt không đến kịp, để chỉ
ra hiện lượng (tánh thấy) ngay đương thời (bây giờ). Thoáng chốc
xoay đầu thì nhiều kiếp tợ như mới hôm qua.
Lại gạn cùng chỗ điên đảo, để cứu xét nguyên do sót
mất (bản tánh). Mới biết tánh thấy nghe bị mê lầm nơi sắc không,
nên không thể nói ngộ, nhưng tâm không sanh diệt vẫn ở trong thân
thì đâu được nói không mê; chỉ một cánh tay không khác mà mỗi
người bảo là xuôi ngược khác nhau. Ðã lầm nước, toàn biển cả thì
ai bàn chi đến bọt nổi. Ở nơi cái bất giác này, vọng ý thừa đương
thì tâm địa thường trú, chẳng qua chỉ là cái "sở ngộ", mà hiện
lãnh pháp âm chỉ là cái "năng duyên". Tâm phân biệt năng duyên đã
không tự tánh (thật tánh) thời tâm tánh sở ngộ ắt có chỗ trả về.
Ðâu biết tám thứ (có thể trả về) sai biệt đều thuộc thế gian, mà
tám thứ kiến tính rốt cuộc không ngoài ông. Tiền trần là vật, còn
cái thấy của ông không phải vật. Tánh tri giác không xen tạp với
vô tình; mà tôi và ông vẫn phân cách nhau trên thân thể. Mỗi mỗi
đều tự cùng khắp, trong tánh thấy đâu có chia ra trong ngoài; cũng
không dứt nối, như thế hư không nào có vuông tròn.
Nói lý thì rất rành rẽ mà nói chứng ngộ vẫn còn phần
lượng. Nếu chỉ tâm "sở ngộ" là phải, ắt cho tâm "năng duyên" là
trái. Phải trái rõ ràng thì vật ngã khó tiêu.
Trong sự vật gạn bày cái thấy, là trước dứt bặt tâm
sở ngộ. Phải hết thì trái cũng không còn, lại gạn cùng thức năng
ngộ.
Ðại đạo không riêng khác, chẳng phải hàng Nhị thừa có
thể nghĩ bàn. Tự trú trong Tam-ma-địa, phải bậc Ðại trí mới nói
được.
Tướng hoa đốm giữa hư không, tánh Bồ-đề cùng khắp,
thị phi đều dẹp, chỉ một Văn Thù; một và hai đều mất, diệu giác
riêng treo cao. Nếu không thấu triệt cội nguồn các pháp, thì ít ai
chẳng lầm cho là thần ngã. Lại nếu quanh quẩn trong bốn loại thì
sẽ lầm cho là nhân duyên. Ðệ nhất nghĩa đế tức ngay trong các
tướng thế gian. Chỉ một phen phát minh sẽ không còn việc khác.
Bốn nghĩa đã thành tựu thì vượt ra ngoài sáng, tối,
thông, bít. Nếu thấy được tánh thấy thì liền được Bồ-đề. Muốn biết
nguyên do ngộ được cái thấy, phải biết nguyên do cái thấy sanh ra.
Cái thấy vốn tánh là chơn, còn cảnh chính từ vọng hiện. Do vọng
thấy cảnh, mới làm cho tánh minh diệu bị buộc vào trong căn; biết
tâm không vọng, liền khiến kiến tính vượt khỏi ngoại trần.
Biệt nghiệp ví dụ căn thân, đồng phận, ví dụ khí
giới; căn mê đã hết như mắt nhậm bỗng lành; lượng khí giới vốn
không, tợ bóng lòa chẳng phải đã có. Chơn trí thì không có thấy,
chơn lý thì không có trần. Mắt thấy là theo hiện nay, kiến duyên y
như thuở trước. Mười phương cõi nước đều là tánh diệu minh; cái
thấy cái nghe ngay đây đâu từng hư vọng.
Trong Như Lai tạng, ngũ ấm, lục nhập đều chơn; trong
tánh chơn như, mười hai xứ mười tám giới vốn thật. Tự tánh sắc là
chơn không, cho đến giác minh là chơn thức, vốn sẵn cùng khắp mà
tùy theo chỗ hiểu biết của chúng sanh. Từ đó phát minh được điều
chưa từng có. Tự tín tâm linh không ở ngoài cũng không ở trong
thân, trở lại xem mười phương thế giới đều nương hư không, hư
không lại ở trong tâm.
Cảm cái ân tha thiết trở về nguồn, nguyện sâu xa với
tâm từ bi đồng thể. Ðã ngộ được pháp thân, lại mong trừ lỗi lầm
nhỏ nhặt. Ngã chấp phân biệt dễ trừ, câu sanh ngủ ngầm khó thấy.
Vẫn còn phải thưa thỉnh để giải thích cho những người đồng nghi.
Tánh thanh tịnh bỗng nhiên sanh ra, biết sự vọng lập
của giác minh; thấy đồng thấy khác, mà khởi ra pháp hữu vi về hàm
thức. Thế giới đã thành, chúng sanh lưu chuyển; nhân duyên kết
cấu, nghiệp quả tìm nhau. Ở trong giác minh khởi diệt, như ráng
nắng khởi sóng; ở trong tánh giác diệu minh, tợ thái hư thường
lặng.
Ngộ nguyên không vay mượn, chỉ cần tin giác tánh của
chúng sanh vốn thường như; mê đâu có nguyên nhân, ai bảo thế giới
diệu không vẫn thường tại? Mặt trời thì sáng, mây phủ thì tối, gió
lay thì động, mưa tạnh thì trong, hư không chẳng động, còn các
tướng thì lưu chuyển.
Quán tánh vốn là chơn, quán tưởng nguyên là vọng. Hợp
với vọng thành vọng, hợp với tánh toàn chơn chỉ có tánh diệu giác,
tất cả đều "phi"; chơn thời tùy duyên biến khắp, tất cả đều "tức".
Do đó mà ứng hiện có tục có chơn, có phàm có Thánh. Tâm phú cảm
của bậc đại giác thì thường cùng khắp, tánh đương niệm của quần
sanh tự đầy đủ, toàn nương ngón tay khéo mà phát ra âm thanh chơn
thật sẵn có. Chẻ trong hạt bụi mà lấy quyển kinh, đồng trong hải
ấn mà phát hào quang soi khắp. Vừa mới tin tánh diệu giác vốn viên
mãn, không nguyên nhân mà tự vọng; ắt khiến cho tánh cuồng bỗng
hết, tánh thanh tịnh thù thắng vốn trùm khắp.
Rõ tánh không, nên không ở trong sanh tử; ngộ duyên
khởi, nên không trú Niết-bàn. Ba thứ tương tục vẫn tại trong mộng,
một niệm huân tu liền tạm ra khỏi buộc ràng. Ấy đều không thể do
dụng công mà được, há lại dùng việc hý luận mà thành. Do đó muốn
phát minh để giác ngộ kẻ sơ tâm, thì trước phải xét nhân địa tu
tập, rồi sau mới thẩm trừ mê hoặc. Tánh thấy, nghe, hay, biết được
phát minh đây, tức là đức thường, lạc, ngã, tịnh rốt ráo.
Chỉ cần chín chắn phân biệt sanh tử, liền có thể xa
xa khế hợp Niết-bàn. Không theo hư vọng, cứ nhậm vận yên lặng càng
sâu, thì nước trong hiện tiền, không đợi gạn bỏ bùn; rốt ráo đến
tận nguồn, đâu vượt qua thuần tịnh. Chỉ là căn tánh trong mê không
tự biết, nên duyên trần sanh thức; chỗ gút sau khi ngộ nên biện
biệt, như dẹp giặc phải tìm kẻ môi giới. Chướng ngại phần phân
biệt nơi địa vị Sơ tâm, tiêu dung phần chủng tử tập khí nơi địa vị
hậu trí, vẫn gọi là phương tiện, chưa nghĩ đến viên tu. Mỡ sáu gút
đồng như một, dính và gở đều xoay lại. Trừ bỏ vật để xem hư không,
thì tướng đồng và khác đều bỏ hết. Biết cái niệm trạm của tâm tánh
diệu viên thoáng thế, thời sự thanh tịnh của căn thắng nghĩa vẫn
còn nguyên. Tối và sáng là cái thấy, mê vọng mới thành hôn mê. Căn
hay biết chứ không phải trần, nếu không chạy theo nó thì tự nhiên
giải thoát.
Thể tánh của bảy thứ (Bồ-đề, Niết-bàn, Chơn-như,
Phật-tánh, Yếm-ma-la thức, không Như Lai tạng, Ðại viên cảnh trí)
vốn bền chắc, đâu đợi phải có tiếng chài mới nghiệm biết; tánh tri
giác nơi sáu cửa vẫn thường diệu, đâu vì ngủ thức mà sai khác.
Diệu tánh vốn thanh tịnh, do tánh mình dính cái vọng mà phát ra
hiểu biết. Mở phải từ nơi lòng gút, căn trần vốn không lỗi. Tánh
nương nhờ nơi sức tịnh, lý và hạnh thành tựu lẫn nhau.
Lựa sự viên dung hay trệ ngại nơi căn cảnh, mượn làm
gương soi các căn cơ: ngộ thẳng tắc nơi sự tu trì, chóng vượt qua
quyền thừa hữu học. Tất cả sắc pháp đều tụ nơi mắt, xưa do cái
thấy mà mờ tối, nay do cái thấy mà giác ngộ, mười phương âm thanh
đều đạt đến nơi cái nghe, không bị tai làm ngại, lại lấy tai mà
xoay chuyển. Xoay cái nghe trở về tánh giác, kíp chuyển cái cơ
không dừng trụ: Không và giác cùng cực viên mãn, ai hiểu thấu tánh
lặng lẽ ở hiện tiền này? Ðây là chỗ căn bản chứng ngộ của đức Quán
Thế AÂm, đã được viên thông; cũng là căn được đức Văn Thù lựa
chọn, làm phương tiện đầu tiên. Lựa chọn 23 vị Thánh, chỉ cho ba
đời theo một cửa (nhĩ căn viên thông). Y theo chỗ ngộ mà viên tu,
chỉ có hai nghĩa quyết định; theo chỗ tu mà khởi ngộ, lại có Ba vô
lậu học. Hành không hư dối, dứt sạch mà ái kiến, tâm thẳng như dây
đờn, thành nhân địa chân chánh.
Hiện nghiệp dễ chế phục, tự hành có thể trái bỏ,
nhưng tập quán cũ rất khó trừ, vẫn phải nhờ thần lực. Do đó kiến
lập đạo tràng, nhờ tha lực gia bị; nhưng chương cú diệu vi, phải
do tự mình khế hội. Mười phương chư Phật, từ đây xuất sanh; hậu
thế kẻ tu hành, không rời nơi tòa. Nếu muốn phát sanh Sơ càn tuệ
địa, hoàn toàn trước phải do lần lượt tiến thầm, lại còn mong đầy
đủ 55 tâm; vậy sau mới thành quả địa tu chứng. Ấy là khuôn phép tu
hành của Phật để lại, bỏ đây bèn lạc vào đường tà. Dẫu được thẳng
đến giác ngộ sáng suốt, cũng tự mình thầm hợp với chánh quán.
Không có ai ba nghiệp chưa trong, sáu căn chưa sạch mà có thể làm
mô phạm cho người trời. Chính mười nhân không dính, sáu căn không
giao xen này, mà đâu tránh khỏi Thiền-na sai lạc. Bởi vậy do vì
thuần tình mà sa vào địa ngục, chỉ do một niệm sai khác; hoặc vì
thuần tưởng mà sanh thiên, cũng phải biết hễ phước báo hết vẫn sa
đọa. Nghiên cứu tận cùng tâm thức thì tột đến nơi trời Tứ không,
còn phóng túng chìm đắm trong mê muội thì thành ra địa ngục A-tỳ.
Phật tánh lưu chuyển tùy theo niệm mà có thăng trầm; vọng tánh
chẳng phải gì khác, như bàn tay lật ngược. Chỉ cần biết rõ tự tâm
sẵn có, không chạy theo thấy biết, bèn có thể tùy thuận giác tánh;
kíp hiểu rõ Thánh tình. Ở trong Tam-ma-địa, đắc và thất đều dứt,
chỗ ngũ ấm diệt tận, cảnh giới không còn lưu lại. Từ đầu đến cuối,
từ phàm vào thánh, xoay nhìn lại chỗ ngộ không vượt ngoài sơ tâm.
Không phải pháp nhãn có thể nhìn thấy, há lại thiên Ma được dịp
khuấy phá. Nếu chỉ nương giáo pháp tiến tu, do giới vào định, nếu
không tùy thời tự giác, thì chưa khỏi nhân thấy cảnh thù thắng
trong định mà sanh tâm. Dính nơi cảnh bèn rơi vào tà tư, hễ động
niệm liền bị Ma nhiếp phục. Ðến chỗ sanh diệt đã diệt thì thức
tánh hiện tiền, nếu lầm cho là Bồ-đề thì quên mất chánh trí chánh
kiến.
Riêng thành lập các luận không cứu xét tánh diệu
viên, dẫu chúng định tánh Thanh văn, chưa thể cho là kiến tánh.
Ðộc giác được chút ít vẫn còn xa trái Niết-bàn. Bởi vì không do
tích lũy (tu hành) thẳng đó tâm khai ngộ, cùng với đây thứ lớp đi
sâu vào Thiền định, tuần tự cho đến phá được thức ấm, đồng gọi là
Càn tuệ địa, chóng vào Kim cang địa. Kia do ngộ rồi mà tu, đây do
tu rồi mới ngộ. Do tu mà ngộ là trước hành bố (tiệm tu), sau viên
dung hành bố. Ngộ thời đều ngộ mà đắp đổi có dị đồng, tu thời đều
tu, lại chia ra có khó dễ. Người đốn ngộ thì về lý, do có sai
khác, người tiệm tu thì về sự, dính có tạp loạn lỗi lầm. Lý mà sai
biệt là tại mất chơn khi ngộ, sự mà sai lầm là thường e khi tu có
nhiều đường rẽ. Thế là vì kiến tánh ly trần, vượt lên trên phân
biệt mà tùy duyên tự tại; chơn tâm không vọng, ra ngoài thị phi
lấy Diệu huệ trang nghiêm. Ngộ đã tinh tường thì tu mới viên mãn
giải thoát.
Hành lấy lý ấn chứng, thì nghĩa sai biệt không thiếu
sót; lý phải lấy hành mà trang nghiêm, thì cửa căn bản (pháp môn
tu căn bản) không bị vượt qua. Ngũ ấm tiêu trừ theo thứ lớp, đâu
ngại viên dung; nhân giới hạn rõ ràng, mà không chìm vào sự chứng
ngộ thiên lịch.
Bản giác tịnh tâm, ban đầu không trần cấu, vì vọng
tưởng kế đạt mới hiện có sắc tâm. Sắc nhân không mà hiện có, xúc
do lìa ra mà biết. Nhớ chẳng phải vì quên mà hóa không, sanh đâu
phải vì diệt mà mất hẳn. Tức khiến cho cái sanh diệt xoay về trong
tánh trạm, thì vào hiệp càng bày rõ ở mé thức. Cho nên hành ấm tuy
hết mà giác tâm khó viên mãn. Hàng nhị thừa đã lầm nhập vào vô vị,
kẻ sơ tâm vẫn lầm nghĩ nghì nơi tức sắc.
Ngộ lý chưa viên mãn, vừa mới hướng đến cửa giải
thoát, liền đã thành ra nhàm chán cảnh; mê tình chẳng dứt sạch,
dẫu có nói hành vi trái đạo, rốt cuộc ắt đi đến sự bác không. Vạn
pháp tuy không mà lý nhất chơn đâu có chỗ trụ; tâm trong tam giới
đã tuyệt dứt thì hiện hành đâu xen lạm câu sanh. Con mắt của ngàn
Thánh đã siêu, mà không thân vẫn còn e hữu sự. Do đó việc thốt mổ
đồng thời phải trả lại hàng tác gia (mô phạm), được chơn tông vô
trước, chưa xưng là tôn quý.
Trong kinh này việc A-nan thị hiện bị đọa, là cốt yếu
trước tiên phải rửa sạch thức tâm; cuối cùng đến sự viên tu cũng
tức là dứt trừ Thánh giải. (nhược tác Thánh giải tức thị quần tà).
Ði trong dị loại mới cho là đồng triền. Ai chẳng thấy? Ai chẳng
nghe? Mắt thấy không phải sắc, tai nghe không phải tiếng. Toàn thể
đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu,
vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại (vượt ngoài không thời gian);
vẫn thuộc về chỉ dấu vết, chứ chưa phải đến chỗ chơn.
Lặng lẽ mà thành, không thấy được dấu vết; lấy thần
mà rõ đó đều do tại nơi người.
Xuân Giáp Tuất 1995.
--- o0o
---