- Khái
Quát Về Nguồn Gốc
-
Kinh A Hàm
- Thích Nguyên
Hiền Biên Soạn
---o0o---
Từ ngữ A-hàm (Àgama) nói theo nghĩa rộng là chỉ cho những giáo
thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do sưu tập các giáo
thuyết ấy tạo thành. Do vậy, thông thường nói Kinh A-hàm tức chỉ
cho 4 bộ hoặc 5 bộ Thánh điển của Phật giáo Nguyên thủy.
Phật giáo Nguyên thủy là thời đại giáo pháp còn nhất
vị, giáo đoàn còn thống nhất, chưa phân chia thành bộ phái, tức
trong khoảng thời gian từ khi Đức Phật bắt đầu thành lập giáo
đoàn, hoằng dương giáo lý cho đến 100 năm (hoặc 200 năm) sau khi
Phật nhập diệt. Kinh điển trong thời kỳ này bao hàm hình thái
nguyên thủy nhất của giáo thuyết Phật-đà. Đây là cơ sở giáo lý căn
bản của Phật giáo Đại thừa, Tiểu thừa sau này.
Cuối thế kỷ XIX, các học giả phương Tây bắt đầu nghiên
cứu các kinh điển Pàli, lấy Phật giáo phương Nam làm chính. Trước
đó, các học giả Trung Quốc và Nhật Bản chẳng những không biết có
sự tồn tại của Thánh điển Pàli mà cũng chưa hiểu rằng Thánh điển
này giống với Kinh A-hàm, tức Kinh Phật Hán dịch xưa nay được quen
gọi là "Kinh Tiểu Thừa". Vì thế, kể từ khi Kinh A-hàm bị phán
thích là kinh điển thuộc về Tam Tạng giáo của Tiểu thừa, có giáo
nghĩa thấp nhất trong "Ngũ thời Bát giáo" của Đại sư Trí Khải đời
Tùy cho đến nay thì giá trị Kinh A-hàm bị các học giả và các nhà
tôn giáo xưa nay coi thường.
Về tên gọi và thời đại của Phật giáo Nguyên thủy,
trong giới học giả có nhiều ý kiến khác nhau. Đầu tiên, học giả
người Anh là Thomas William Rhys Davids (1843 - 1922) gọi là Early
Buddhism. Sau đó, một học giả người Nhật Bản là Kimura Taiken
chính thức dịch từ ngữ "Early Buddhism" là Phật Giáo Nguyên Thủy
(trong tác phẩm NGUYÊN THỦY PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN, xuất bản năm
1924). Tiếng Anh của "Phật giáo Nguyên thủy" đáng lẽ phải là
"Primitive Buddhism", nhưng vì từ Primitive ngoài các ý nghĩa :
Đầu tiên, trước nhất, nó còn bao hàm các nghĩa : Nguyên thủy, Thời
kỳ đầu chưa được khai hóa... Do đó dễ bị xem là từ ngữ có hàm ý
thấp kém, vì thế các học giả phương Tây thường tránh dùng, mà sử
dụng từ ngữ "Early Buddhism".
Một học giả người Nhật khác là ông Tỷ Kỳ Chánh Trị thì
cho rằng nếu Early Buddhism chỉ cho Phật giáo ở thời kỳ đầu tiên
(tức thời đại của Phật và các đệ tử của Ngài) thì đáng lẽ phải
dịch là "Phật giáo Căn bản" (Basic Buddhism). Các học giả khác của
Nhật Bản và Trung Quốc, nổi tiếng như ngài Ấn Thuận... cũng đồng
quan điểm trên.
Nói theo các văn hiến hiện còn thì thời đại Phật giáo
Căn bản, 4 bộ (hoặc 5 bộ) A - hàm chưa được kiết tập, cho nên nói
một cách nghiêm túc, do sự thiếu sót các văn hiến Phật giáo Căn
bản, nếu không tìm tòi trong các Thánh điển được tập đại thành vào
thời đại Phật giáo Nguyên Thủy thì không thể nào mở ra con đường
nghiên cứu Phật giáo Căn bản. Các học giả Trung Quốc, Nhật Bản gần
đây thường căn cứ vào các tạng kinh bằng tiếng Pàli, tiếng Hán,
tiếng Phạn và tiếng Tây Tạng để nghiên cứu Phật giáo Căn bản. Còn
các học giả phương Tây do thiếu khả năng xem đọc tiếng Hán nên
phải nghiên cứu bằng tiếng Pàli, khiến cho kết quả nghiên cứu có
chỗ chênh lệch, nhưng nhờ sự trợ giúp của Ngôn ngữ học, Khảo cổ
học và Tư tưởng sử trên tinh thần và phương pháp học thuật có
khuynh hướng nghiên cứu với thái độ phê phán, nên rất được xem
trọng.
Bất luận Căn bản hay Nguyên thủy, tư tưởng trọng tâm
của giáo pháp Đức Phật chính là học thuyết Duyên Khởi. Tư tưởng
"Nghiệp" và "Giải thoát" y cứ vào ÁO NGHĨA THƯ của Ấn Độ, đồng
thời sử dụng tư tưởng "Chúng sinh bình đẳng" của Kỳ-na giáo và sự
sáng tạo độc đáo của việc cầu đạo chứng ngộ. Tất cả giáo pháp của
Đức Phật đều lấy luận thuyết Duyên Khởi làm tiêu chuẩn, gồm 4 phần
:
1- Ba pháp ấn ( hoặc 4 pháp ấn).
2- Mười hai nhân duyên.
3- Bốn đế.
4- Tám chánh đạo.
Ở Ấn Độ, tuy các tư tưởng triết học đã thịnh hành rất
sớm, nhưng tuyệt nhiên không có luận thuyết Duyên Khởi, các tôn
giáo hoặc triết học khác trên thế giới cũng không có, nên Duyên
Khởi được xem như đặc trưng cơ bản của Phật giáo.
Từ nhận định cơ bản trên, ta bắt đầu đi vào nghiên cứu
Kinh A-hàm. Có lẽ việc xác định vị trí, thời gian của một kinh
điển nào đó ra đời là cách tốt nhất để tránh lầm lạc, chắp vá và
thiên kiến.
Từ A-hàm (Àgama) được các học giả cận đại giải thích là : Lai
trước, Thú quy, Tri thức, Thánh ngôn, Thánh huấn tập, Kinh điển.
Hán dịch của từ Àgama cũng rất nhiều : Pháp quy, Pháp bản, Pháp
tạng, Giáo pháp, Giáo phần, Chủng chủng thuyết, Vô tỷ pháp, Truyền
giáo, Tịnh giáo, Thú vô, Giáo, Truyền, Lai, Tạng v.v...
THIỆN KIẾN LUẬT TỲ-BÀ-SA 2 thì cho A-hàm nghĩa là dung
chứa, tụ tập. Nhưng nghĩa này có thể là chỉ cho từ "Nikàya" trong
tiếng Pàli (nghĩa là tập hội, toản tập) chứ không phải từ Àgama.
PHÁP HOA LUẬN SỚ có nêu lời giải thích của ngài Đạo An
đời Đông Tấn rằng A-hàm là "Thú vô", vì tất cả pháp đều hướng về
pháp "Không" cứu cánh. Còn ngài Tăng Triệu thì giải thích A-hàm là
Pháp quy (1). Thực ra, những lối giải thích trên đều không đúng
với chánh ý của A-hàm.
A-hàm thuộc về giáo thuyết truyền thừa, được tập đại thành sau khi
Đức Phật nhập diệt. Đây là nội dung của Kinh Tạng (Phạn : Sùtrànta
- pitaka) trong 3 tạng, chia làm Tứ A-hàm hay Ngũ A-hàm.
Tứ A-hàm là Trung A-hàm, Trường A-hàm, Tăng Nhất
A-hàm và Tạp A-hàm (hoặc Tương Ưng). Đây là từ ngữ
được các kinh sau đây đề cập đến : Kinh Bát-nê-hoàn quyển hạ, Hữu
Bộ Tỳ-nại-da Tạp Sự 39, Luận Đại Trí Độ, Luận Du-già-sư-địa 85,
kinh Đại Bát-niết-bàn 13 (bản Bắc), Kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng
Thập Luân 2 v.v...
Ngũ A-hàm là Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tăng-thuật-đa
(Tương Ưng), Ương-quật-đa-la (Tăng Nhất) và Khuất-đà-ca (Tạp
loại). Từ ngữ này được ghi trong Thiện Kiến Luật Tỳ-bà-sa 1, Đại
A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la Sở Pháp Trụ Ký v.v...
Luật Ngũ Phần 30, Luật Ma-ha Tăng-kỳ 32, Luật Tứ Phần
5, Luận Phân Biệt Công Đức 1 v.v... gọi Khuất-đa-ca A-hàm là Tạp
Tạng trong 5 bộ A-hàm. Năm bộ này tương đương với 5 bộ kinh (Pãnca
- Nikàya) trong kinh Phật bằng tiếng Pàli.
Theo Tỳ-nại-da Tiểu Phẩm (Vinaya - cùlavagga), Nhất
Thiết Thiện Kiến (Samanta – pàsàdika 1) và bài tựa của Trường Bộ
Kinh Chú (Sumangala - vllàsinĩ), 5 bộ kinh là : Digha - Nikàya,
Majjhima - Nikàya, Samyutta - Nikàya, Anguttara - Nikàya và
Khuddaca - Nikàya, tương đương với 5 bộ : Trường, Trung, Tương
Ưng, Tăng Chi và Tiểu Bộ Kinh hiện nay.
Về sự truyền thừa của hệ A-hàm, theo bài tựa của
Trường Bộ Kinh Chú, sau khi kết tập lần thứ nhất, Trường Bộ Kinh
do hệ thống A-nan, Trung Bộ Kinh do hệ thống Xá-lợi-phất, Tương
Ưng Bộ Kinh do hệ thống Đại Ca-diếp, Tăng-chi Bộ Kinh do hệ thống
A-na-luật xếp loại mà truyền thừa riêng biệt nhau.
Theo PHÁP HOA HUYỀN TÁN 1, ĐẠI THỪA PHÁP UYỂN NGHĨA LÂM
CHƯƠNG 4, HOA NGHIÊM KINH SỚ SAO HUYỀN ĐÀM 8 v.v..., cả 4 bộ A-hàm
và Luật Ma-ha Tăng-kỳ đều do Đại Chúng Bộ truyền. Còn theo CÂU-XÁ
LUẬN KÊ CỔ quyển thượng thì Trung A-hàm và Tạp A-hàm do Tát-bà-đa
Bộ truyền, Tăng Nhất A-hàm do Đại Chúng Bộ truyền, Trường A-hàm do
Hóa Địa Bộ truyền, Biệt dịch Tạp A-hàm là do Ẩm Quang Bộ truyền.
Tóm lại, A-hàm là do mỗi bộ phái tự truyền riêng, nhưng sau khi
Đại thừa phát triển, kinh điển A-hàm được xem là một tên khác của
kinh điển Tiểu thừa. Nhưng LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ thì cho từ A-hàm cũng
chỉ chung cho Đại thừa, nên Kinh Bát-nê-hoàn 6 có từ ngữ "Phương
Đẳng A-hàm". Thuật ngữ Phương Đẳng A-hàm này chỉ cho kinh điển Đại
thừa.
NGUYÊN
DO VÀ SỰ THÀNH LẬP KINH A - HÀM
Thời đại Phật giáo Nguyên thủy, đệ tử Phật và các tín
đồ đối với giáo pháp đã nghe thường dùng thể thơ hoặc những đoạn
văn xuôi ngắn gọn, hoặc dùng hình thức truyền miệng lẫn nhau để
ghi nhớ truyền thừa. Nhưng vì đệ tử Phật tiếp thu không đồng nên
mỗi bộ phái đều có tư tưởng khác nhau. Vì thế, khi giáo đoàn được
xác lập, vấn đề chỉnh lý và thống nhất các giáo thuyết của Đức
Phật là một việc làm tất yếu. Nhờ đó, giáo thuyết của Đức Phật
được hoàn bị, lần lần phát triển thành một hình thức văn học riêng
biệt, cuối cùng trở thành Thánh điển. Đó là nguyên do từ đâu có
Kinh A-hàm.
Kinh A-hàm được thành lập từ lúc nào, phải căn cứ vào số lần kiết
tập để luận bàn.
Kiết Tập Lần Thứ Nhất
Sau khi Phật nhập diệt, vào một mùa hạ, 500 vị
A-la-hán tập hợp trong hang Thất Diệp ngoài thành Vương Xá. Đại
chúng cử Tôn giả Ca-diếp làm thượng thủ, cử hành kiết tập lần thứ
nhất. Tôn giả A-nan tụng Pháp (Kinh), Tôn giả Ưu-ba-ly tụng Luật.
Nguồn gốc sâu xa của Kinh A-hàm bắt nguồn từ lúc này.
Kiết Tập Lần Thứ Hai
Sau khi Phật nhập diệt khoảng 100 năm, 700 Tỳ-kheo tập
hợp tại thành Tỳ-xá-ly. Đại chúng cử ngài Da-xá làm thượng thủ, cử
hành kiết tập lần thứ hai. Lần kiết tập này chủ yếu tụng Luật
tạng.
Kiết Tập Lần Thứ Ba
Sau khi Phật nhập diệt khoảng 236 năm, tức là thời Vua
A-dục, đại chúng tập hợp tại thành Hoa Thị, cử ngài
Mục-kiền-liên-tử-đế-tu làm thượng thủ, tổ chức kiết tập lần thứ
ba. Đến đây Tam Tạng giáo pháp mới hoàn thành.
Kiết Tập Lần Thứ Tư
Sau khi Phật nhập diệt 400 năm, dưới sự hộ trì của Vua
Ca-nị-sắc-ca, đại chúng tập hợp tại nước Ca-thấp-di-la, cử Hiếp
Tôn giả và ngài Thế Hữu làm thượng thủ, cử hành kiết tập lần thứ
tư. Lần kiết tập này chủ yếu là luận thích Tam Tạng.
Tóm lại, Kinh A-hàm được tụng vào lúc kiết tập lần thứ
nhất, từ lần kiết tập thứ hai về sau, tức vào khoảng thế kỷ III
trước Tây lịch là thời kỳ Kinh A-hàm chính thức được thành lập.
HÌNH THỨC VĂN HỌC CỦA KINH
A-HÀM
Các nhà phán giáo về sau đã căn cứ vào thể loại của
văn kinh mà chia Kinh A-hàm thành hai thứ : Chín thể loại và Mười
hai thể loại :
a- Chín Thể Loại (Cửu bộ kinh)
1- Kinh
2- Trùng tụng
3- Ký thuyết
4- Kệ tụng
5- Cảm ứng kệ
6- Như thị ngữ (Bản sự)
7- Bản sanh
8- Phương quảng
9- Vị tằng hữu pháp.
b- Mười Hai Thể Loại (Thập nhị bộ kinh)
Mười hai là gồm chín loại kể trên, cộng thêm Nhân
duyên, Thí dụ và Luận nghị. Chín thể loại thành lập sớm hơn mười
hai thể loại, nhưng về bộ loại văn học của Thánh điển Phật giáo
thì lấy mười hai thể loại làm luận cứ chắc chắn.
SỰ TRUYỀN THỪA CỦA KINH A-HÀM
Sau khi Phật nhập diệt khoảng 100 năm, giáo đoàn thống
nhất của Phật giáo Nguyên Thủy chia thành Đại Chúng Bộ và Thượng
Tọa Bộ. Sau đó lại chia thành 20 bộ phái Tiểu thừa, mỗi bộ phái
đều có Kinh Tạng truyền thừa riêng biệt. Theo những tư liệu hiện
còn thì lúc ấy ít nhất cũng còn tồn tại những kinh điển do Thượng
Tọa Bộ (ở phương Nam), Hữu Bộ, Hóa Địa Bộ, Pháp Tạng Bộ, Đại Chúng
Bộ, Ẩm Quang Bộ và Kinh Lượng Bộ truyền. Nhưng đến nay, chỉ có
kinh điển của Thượng Tọa Bộ ở phương Nam là hoàn toàn được bảo
tồn, gồm có 5 bộ : Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng-chi Bộ,
Tiểu Bộ (tức Khuất-đà-ca A-hàm) chép bằng văn Pàli. Đây là 5 bộ
A-hàm Nam truyền.
Về mặt Bắc truyền, do gom góp các kinh điển rời rạc
riêng lẻ của các bộ phái mà tạo thành bốn bộ A-hàm : Trường A-hàm,
Trung A-hàm, Tăng Nhất A-hàm và Tạp A-hàm. Bốn bộ kinh này được
ghi bằng Phạn văn. Đây là bốn bộ A-hàm Bắc truyền. Trong đó Trường
Bộ, Trung Bộ của Nam truyền tương đương với Trường A-hàm của Bắc
truyền; còn Tương Ưng Bộ tương đương với Tạp A-hàm, Tăng-chi Bộ
tương đương với Tăng Nhất A-hàm.
Năm bộ Nam truyền được ghi bằng văn Pàli, gần với ngôn
ngữ thường dùng ở thời Phật, cho nên các học giả thường cho rằng
Nam truyền giàu sắc thái nguyên thủy hơn Bắc truyền.
KHẢO SÁT TỪNG BỘ KINH
Để có một cái nhìn tường tận về danh nghĩa, nội dung
và các bản dịch của từng bộ kinh, thiết tưởng phải khảo sát từng
bộ kinh thì mới có thể hiểu rõ nguồn gốc của chúng. Nếu là một
tiểu luận được trình bày kỹ lưỡng lẽ ra phải liệt kê từng phẩm
kinh để đối chiếu dịch giả, thời đại phiên dịch để thấy được giá
trị của từng bộ. Nhưng phạm vi bài viết này chỉ muốn khái quát về
nguồn gốc và nội dung chung, nên chỉ nói tóm lược 4 bộ hay 5 bộ mà
thôi. Để tiện đối chiếu, ta nên trình bày chung các bộ Nam truyền
và Bắc truyền hầu giúp người đọc thẩm định được rõ hơn. Trong quá
trình phiên dịch, có lúc bản Phạn hoặc Pàli được phát hiện trong
những thời gian khác nhau, thời đại phiên dịch (tân, cựu) cũng
khác nhau, nên có những bản kinh Biệt sanh (Biệt dịch), trùng
dịch, thất dịch... khác nhau. Từ đó, đôi lúc nghĩa lý hay văn cú
cũng có thể chênh lệch nhau, đó là điều khó tránh khỏi. Trong phần
này, chúng ta dùng tên kinh Bắc truyền làm gốc để đối chiếu, bởi
lẽ tên kinh Bắc truyền gần gũi với chúng ta hơn, vì Phật điển Việt
Nam hầu hết ảnh hưởng của Trung Quốc, vốn sử dụng chữ Hán và thuộc
hệ Bắc truyền.
1- Kinh Trường A - Hàm
Kinh Trường A-hàm, tiếng Phạn là Dìghàgama, tiếng Pàli
là Digha - nikàya, gồm 22 quyển, do Ngài Phật-đà Da-xá và Trúc
Phật Niệm cùng dịch vào năm Hoằng Thỉ thứ 15 đời Dao Tần (413),
hiện được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập 1. Sở dĩ nói
"Trường" là vì do soạn tập những kinh điển dài nhất trong A-hàm mà
thành. Theo TỨ PHẦN LUẬT 54, NGŨ PHẦN LUẬT 30, LUẬN DU-GIÀ-SƯ-ĐỊA
85, nguyên do có chữ "Trường" là vì tổng tập những kinh lớn (dài).
TÁT-BÀ-ĐA TỲ-NI TỲ-BÀ-SA 1 thì cho rằng Trường A-hàm là phá dẹp
các tà thuyết của ngoại đạo. LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC thì cho rằng
"Trường" nghĩa là nói những việc lâu xa, nghĩa là trải qua nhiều
kiếp vẫn không dứt. Nói chung về phần định danh, các kinh luận nói
khác nhau, xong đại để vẫn vậy.
Toàn kinh chia làm 4 phần, gồm 30 kinh. Trong đó, phần
thứ nhất nói về bản thủy và sự tích của Đức Phật; phần thứ hai nói
về việc tu tập các hạnh và cương yếu giáo pháp của Phật thuyết;
phần thứ ba nói về các luận nạn đối với ngoại đạo và dị thuyết;
phần thứ tư ghi chép về tướng trạng khởi nguyên của thế giới (Vũ
trụ).
Kinh này tương đương với Trường Bộ (Pàli :
Digha-Nikàya) trong 5 bộ của hệ Nam truyền. Trường Bộ gồm có 3
phẩm, 34 kinh, tức Giới Uẩn Phẩm (gồm 13 kinh), Đại Phẩm (10 kinh)
và Pàli phẩm (11 kinh). Nhưng Thế Ký Kinh trong Trường A-hàm thì
không có trong Trường Bộ. Theo MỤC LỤC TAM TẠNG (Anh văn) của học
giả Nhật Bản là Nanjò Fumio, nếu đối chiếu 34 kinh bản Pàli với 30
kinh bản Hán dịch thì chỉ có kinh thứ 6 bản Hán dịch và kinh thứ
10 bản Pàli là có mối quan hệ rõ ràng, còn các kinh khác thì không
nhất trí với nhau. Nhận xét của một số học giả nổi tiếng khác của
Nhật Bản thì ôn hòa hơn, tức cho rằng các kinh tương tợ nhau.
Đặc biệt có Kinh Thất Phật trong Trường A-hàm (Trung
Quốc gọi là Biệt Sanh Kinh) được trích riêng ra để dịch rất nhiều
(21 loại). Các học giả Tây phương thường dùng bản chép tay Pàli,
hiệu đính, phiên dịch rồi xuất bản cũng nhiều, như Dialogues of
Buddha, 1909 - 1921, do học giả người Anh là Rhys Davids và phu
nhân là J.E. Carpenter phiên dịch; Dic Reden des Gotamo Buddhos,
1907 - 1918, do K..E. Newmann dịch sang tiếng Đức; Das Buch der
langen Texte des Buddhist Kanon Leipzig, 1913, do O. Franke dịch
sang tiếng Đức. Ngoài ra còn có bản chú thích Trường Bộ
Sumangalavilàsinì của Đại luận sư của Tích Lan sống vào thế kỷ V
là ngài Phật Âm (Buddhaghosa), được hai vợ chồng Davids xuất bản
vào năm 1986.
Trong các bản Sankrit mới phát hiện ở Tân Cương, Trung
Quốc có kinh tương đương với Chúng Tập Kinh (Sangìti-sutta) - kinh
thứ 9 của bản Hán dịch, và tương đương với một đoạn kinh
Àtànàtiya-sutta - kinh thứ 32 bản Pàli, được học giả R.Hoernle thu
lục trong tác phẩm Manuscrip Remains of Buddhist Literature found
in Eastern Turkestan,Vol.1.
Ngoài ra trong Đại Tạng Kinh của Tây Tạng có Hdus-pa chen-pohi md
tương đương với Đại Hội Kinh - kinh thứ 19 trong Trường A-hàm;
Tshans-Pahi dra-bahi mdo tương đương với Phạm Đôﮧ Kinh - kinh thứ
21 trong Trường A-hàm; Lcan-lo-can-gyi pho-bran-gi mdo tương đương
với A账#224;nàtiya-sutta trong Trường Bộ.
2- Kinh Trung A - Hàm
Kinh Trung A-hàm, tiếng Phạn là Madhyamàgama, gồm 60 quyển,
do ngài Cù警#273;àm Tăng-già-đề-bà dịch sang Hán văn vào đời Đông
Tấn (317-419), Trung Quốc, được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh tập 1. Sở dĩ nói "Trung" là vì nó không lớn cũng không nhỏ,
không dài cũng không ngắn. Trung A-hàm là bộ kinh tổng tập những
kinh điển vừa phải, không lớn lắm cũng không nhỏ lắm.
Theo TÁT-BÀ-ĐA TỲ-NI TỲ-BÀ-SA 1, Kinh Trung A-hàm là một bộ kinh
Đức Phật giảng nói các nghĩa lý sâu xa cho hàng chúng sinh lợi căn
nghe. Toàn kinh gồm có 5 phần tụng (Ngũ tụng), 18 phẩm và 222
kinh. Ngũ tụng gồm Sơ tụng, Tiểu độ thành tụng, Niệm tụng, Phân
biệt tụng và Hậu tụng. Ở đây xin lượt phần liệt kê tên phẩm và tên
kinh.
Kinh này lấy việc tự thuật giáo nghĩa của Đức Phật và
các đệ tử của Ngài là chính. Trong đó thỉnh thoảng cũng nói về
những điều răn dạy của Đức Phật đối với các đệ tử, các bậc vương
giả, cư sĩ và các ngoại đạo. So với Kinh Tạp A-hàm, kinh này tiến
một bước rất lớn trong việc phân biệt về pháp tướng, xem Đức Phật
là một phân thân Phật có đầy đủ 32 tướng. Nếu Tạp A-hàm được xem
như một bộ kinh đúng như ý nghĩa của danh từ, thì Trung A-hàm lại
có cái khí vị của một bộ luận nhiều hơn.
Kinh này tương đương với Trung Bộ (Pàli : Majjhima - Nikàya) trong
5 bộ kinh thuộc Nam truyền. Trung Bộ gồm có 3 tụ, 15 phẩm và 152
kinh. Tụ thứ nhất gồm 5 phẩm, mỗi phẩm có 10 kinh; tụ thứ hai cũng
gồm 5 phẩm, mỗi phẩm có 10 kinh; tụ thứ ba có 5 phẩm, 3 phẩm trước
mỗi phẩm có 10 kinh, 2 phẩm sau mỗi phẩm có 11 kinh. Theo tác phẩm
The four Buddhist A觡mas in Chinese (Bốn bộ A-hàm bản Hán dịch) của
học giả Tỷ Kỳ Chánh Trị người Nhật Bản, Kinh Trung A-hàm (bản Hán
dịch) chỉ có 98 kinh tương đồng với Trung Bộ (bản Pàli), nhưng thứ
tự của các phẩm và các kinh ấy cũng không hoàn toàn phù hợp với
nhau.
Đồng bản dị dịch (tức cùng một bản Phạn nhưng khác
người dịch, tất nhiên là dịch sang Hán Văn) của kinh này có bản
dịch của Đàm-ma-nan-đề (59 quyển), bản dịch của Tăng-già-đề-bà (60
quyển).
Trong các bản kinh tiếng Phạn mới được phát hiện gần đây ở tỉnh
Tân Cương, Trung Quốc, có kinh tương đương với Kinh Thỉnh Thỉnh
(Pravàranà - sùtra), kinh thứ 121 trong Trung A-hàm bản Hán dịch;
có bản tương đương với Kinh Ưu-ba-li (Upàli - sùtra), kinh thứ
133; có bản tương đương với Kinh Anh Vũ (Súka - sùtra), kinh thứ
170 trong Trung A-hàm, được học giả R.Hoernle thu lục trong tác
phẩm Manuscrip Remains of Buddhist Literature found in Eastern
Turkestan,Vol.I.
Trong Đại Tạng Kinh của Tây Tạng có Mdo Chen-po
gzugs-can snin-pos bsu-ba shes-bya-ba tương đương với Kinh
Tần-bà-sa-la Vương Nghinh Phật, kinh thứ 62 trong bản Hán dịch;
Las rnam-par hbyed-pa tương đương với Kinh Anh Vũ, kinh thứ 170
bản Hán dịch; Khams-man-pohi mdo tương đương với Kinh Đa Giới,
kinh thứ 121 bản Hán dịch; Mdo Chen-po ston-pa-nid ses-bya-ba
tương đương với Kinh Tiểu Không, kinh thứ 190 bản Hán dịch; Mdo
Chen-po ston-pa nid chen-po shes-bya-ba tương đương với Kinh Đại
Không, kinh thứ 191 bản Hán dịch.
Các học giả hiện đại phần nhiều cho rằng Kinh Trung
A-hàm do Tát-bà-đa bộ truyền.
3- Kinh Tăng Nhất A - Hàm
Kinh Tăng Nhất A-hàm, tiếng Phạn là Ekttarikàgama, tiếng
Pàli là Anguttara - Nikàya, gồm 51 quyển, do ngài Cù-đàm-tăng-già
Đề-bà dịch vào đời Đông Tấn (317-419), Trung Quốc, được xếp vào
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập 2.
Theo THIỆN KIẾN LUẬT TỲ-BÀ-SA 1, NGŨ PHẦN LUẬT 30, TỨ
PHẦN LUẬT 54, sở dĩ nói "Tăng Nhất" là vì bộ kinh này phân loại và
tập đại thành thứ tự của các pháp số từ 1 đến 11 pháp. Theo
TÁT-BÀ-ĐA TỲ-NI TỲ-BÀ-SA, Tăng Nhất A-hàm là một bộ kinh tổng tập
những bài thuyết pháp của Đức Phật tùy thời giảng nói cho chư
thiên và chúng sinh nghe. Toàn kinh gồm 52 phẩm, 472 kinh. Kinh
này có sắc thái Đại thừa rất đậm, được thành lập trễ nhất trong 4
bộ A-hàm.
Nội dung kinh này ban đầu nói phẩm Tựa, thuật lại
chuyện ngài A-nan truyền tụng kinh điển, sự kết tập của kinh này,
nhân duyên Ưu-đa-la thọ pháp v.v... Sau đó nương theo thứ tự tăng
dần của các pháp số mà phân loại và gom tập. Đặc biệt trong bộ
kinh này, sau các phẩm hoặc các kinh phần nhiều có phần tổng tụng,
tức phần đại yếu của mỗi phẩm hoặc mỗi kinh.
Về số phẩm và số quyển của Kinh Tăng Nhất A-hàm, 3 bản
đời Tống; đời Nguyên và đời Minh có 52 phẩm, 50 quyển; trong Cao
Ly tàng bản thì có 50 phẩm, 51 quyển. Về pháp số được trình bày
theo thứ tự tăng dần trong kinh này có hai thuyết :
1. Theo Luật Ma-ha Tăng-kỳ 32, Luận A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa 10 và Hữu Bộ
Tỳ-nại-da Tạp Sự 39, Kinh Tăng Nhất A-hàm vốn trình bày thứ tự
tăng dần từ 1 pháp đến 100 pháp, nhưng về sau bị mất mát hết nên
chỉ còn 10 pháp.
2- Theo Luật Ngũ Phần 30, Luật Tứ Phần 54 và Luận Phân
Biệt Công Đức 2, Kinh này trình bày thứ tự tăng dần từ 1 pháp đến
11 pháp. Thuyết này phù hợp với nội dung của Kinh Tăng Nhất A-hàm
hiện còn.
Kinh này tương đương với Tăng Chi Bộ (Pàli : Anguttara
- nikaya) trong 5 bộ kinh hệ Nam truyền. Tăng Chi Bộ gồm 11 tụ,
171 phẩm, 2203 kinh. Theo tác phẩm The four Buddhist Àgamas in
Chinese của học giả người Nhật, trong 472 kinh của Tăng Nhất A-hàm
(Bản Hán dịch chỉ có 136 kinh là tương đương hoặc có thể đối chiếu
so sánh với Tăng Chi Bộ Kinh), Tăng Chi Bộ Kinh không có bao hàm
tư tưởng Đại thừa như trong bản Hán dịch, lại ít có dấu hiệu của
sự thêm thắt sửa đổi; cho nên có thể niên đại hoàn thành bộ này
trước bản Hán dịch, tức khoảng thế kỷ thứ I Tây lịch. Ngoài ra,
theo phần đề giải Kinh Tăng Nhất A-hàm trong Phật Quang Đại Tạng
Kinh, Tăng Nhất A-hàm có 153 kinh tương đương hoặc gần giống Tăng
Chi Bộ Kinh.
Kinh Biệt Sanh (Kinh được trích dịch riêng) của Tăng
Nhất A-hàm có Kinh A-la-hán Cụ Đức 1 quyển, kinh này có đến 18 bản
dịch khác nhau. Trong các bản Phạn văn mới phát hiện được ở Tân
Cương có kinh tương đương với kinh thứ 5 trong phẩm Thiện Tụ của
bản Hán dịch, được Học giả R. Hoernle thu lục vào tác phẩm
Manuscrip Remains of Buddhist Literature found in Eastern
Turkestan, vol 1.
Ngoài ra trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng có Kinh Byams-pas shus-pahi
lehu (Từ Thị Sở Vấn Phẩm) tương đương với Thiện Tri Thức Phẩm,
Kinh thứ 6 bản Hán dịch; Mdo Chen-po rgyal-mtshan dam-pa
shes-bya-ba (Đại Vi Diệu Tràng Kinh) tương đương với Kinh thứ nhất
của Cao Tràng Phẩm bản Hán dịch; Lden-pa-bshihi mdo (Tứ Đế Kinh)
tương đương với Kinh thứ nhất trong phẩm Tứ Đế bản Hán dịch;
Byams-pa bsgom-pahi mdo (Từ Quán Tưởng Kinh) tương đương với Kinh
thứ 10 trong phẩm Phóng Ngưu.
Các học giả cận đại cho rằng Kinh Tăng Nhất A-hàm là
do một phái nhỏ sau cùng của Đại Chúng Bộ truyền.
4- Kinh Tạp A - Hàm
Kinh Tạp A-hàm, tiếng Phạn là Samyuktàgama, tiếng Pàli
là Samyutta-Nikàya, gồm 51 quyển, do ngài Cầu-na Bạt-đà-la dịch
sang tiếng Trung Quốc vào đời Lưu Tống, được xếp vào Đại Chánh Tân
Tu Đại Tạng Kinh tập 2.
Về tên gọi Kinh Tạp A-hàm, theo NGŨ PHẦN LUẬT 30, TỨ
PHẦN LUẬT 54, kinh này do Đức Phật giảng thuyết về Tứ Thánh Đế,
Bát Thánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên... cho các thính chúng Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên tử, Thiên nữ v.v... Nay gom
tập lại thành một bộ nên gọi là Tạp A-hàm. Theo LUẬT MA-HA TĂNG-KỲ
32, do gom tập những câu văn phồn tạp nên gọi là Tạp A-hàm. Ngoài
ra, theo TÁT-BÀ-ĐA TỲ-NI TỲ-BÀ-SA 1, Tạp A-hàm là bộ kinh xiển
dương các loại thiền định, là pháp môn mà người tu tập thiền định
phải thực hành. Theo LUẬN DU-GIÀ-SƯ-ĐỊA 85, do tất cả sự tướng đều
tương ưng với giáo, gom hết những nghĩa lý đó nên gọi là Tạp
A-cấp-ma (Tạp A-hàm).
Toàn kinh này gồm 50 quyển, 1362 tiểu kinh (theo số
mục được biên tập trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh), nội dung
tương đương với Tương Ưng Bộ (Samyutta - Nikàya, gồm 2858 tiểu
kinh, 203 phẩm, 516 thiên, 5 tụ) bản Pàli thuộc hệ Nam truyền. Đây
là bộ kinh lớn nhất trong 4 bộ A-hàm bản Hán dịch. Về thời kỳ
thành lập, kinh này cũng được thành lập sớm nhất trong 4 bộ A-hàm.
Nếu phân loại theo tính chất của từng phẩm thì toàn kinh có thể
chia ra 3 bộ phận lớn :
01- Tu-đa-la : Gồm các phẩm nói về Uẩn, Xứ, Duyên
khởi, Thực, Đế, Giới, Niệm, Trụ v.v...
02- Kỳ-dạ : Gồm những lời vấn đáp được trình bày theo
lối kệ tụng.
03- Ký thuyết : Những lời của Phật và các đệ tử của
Ngài tuyên thuyết.
Ba bộ phận nói trên, theo thứ tự tương đương với 3 loại
"Sở thuyết", "Sở vi thuyết" và "Năng thuyết" được nêu trong LUẬN
DU-GIÀ-SƯ-ĐỊA 85.
Kinh Tạp A-hàm là bộ kinh còn bảo tồn được phong cách
của Phật giáo Nguyên Thủy. Trong đó, tuy có những phần do đời sau
biên soạn, nhưng hầu hết là được thành lập vào thời kỳ sớm nhất.
Những câu pháp trong kinh này phần nhiều đơn giản. Đối với pháp
môn tu hành thực tiễn thì có các phẩm nói về Niệm, Trụ, Uẩn, Giới,
do Đức Phật và các đệ tử trực tiếp đối thoại với nhau mà có sự
khác nhau về Tứ song, Bát bội, nương theo 8 chúng mà giảng nói
"Chúng tương ưng", khiến cho các hàng tại gia, xuất gia, nam nữ
lão ấu cho đến các đại đệ tử đều lãnh thọ được giáo pháp.
Các học giả cận đại nghiên cứu về 4 bộ A-hàm rất
nhiều, đầu tiên là các học giả Tây phương, sau đó các học giả Nhật
Bản tiến thêm một bước là luận cứu về văn kinh, phần lớn đều đặc
biệt chú trọng nghiên cứu bằng bản Pàli, cho đó là Thánh điển
Nguyên Thủy và xem nhẹ những ngữ văn khác. Kinh A-hàm bản Hán dịch
do pho quyển quá nhiều, các chương phẩm lại trùng lặp, từ ngữ mâu
thuẫn, văn dịch lại có chỗ thừa có chỗ thiếu, do những yếu tố đó
nên không được phổ cập. Sau khi Trung Quốc chú trọng nghiên cứu
Phật học thì các học giả mới có xu hướng tham khảo lại tư tưởng
A-hàm. Như Kinh Tạp A-hàm, do nội dung của bản hiện còn vốn không
hoàn chỉnh, thứ tự lại lộn xộn, thất lạc, kinh văn lại khó hiểu,
nên các học giả cận đại phải chỉnh lý kinh này. Trước mắt có "Tạp
A-hàm Kinh" của Phật Quang Sơn sử dụng cách chấm câu theo thể thức
mới, từng đoạn được trình bày rõ ràng, chú trọng đối chiếu giữa
bản Pàli, bản Hán dịch và các bản khác, phân định lại thứ tự của
các quyển, sau mỗi tiểu kinh đều có giải thích ý của kinh, những
chỗ khó hiểu trong kinh thì chua thêm bản Pàli, hoặc dịch thành
tân văn (văn Bạch thoại). Ngoài ra, bản này được hiệu đính nghiêm
túc, chú giải tỉ mỉ, dẫn chứng đầy đủ, đó là điểm đặc sắc của bản
này. TẠP A-HÀM KINH LUẬN HỘI BIÊN của ngài Ấn Thuận thì đối chiếu
Kinh Tạp A-hàm với Du-già-sư-địa Luận, đó là điểm đặc sắc nhất của
bản này. Ngài Ấn Thuận sử dụng cách phân loại theo nội dung của
kinh giống như cổ lệ ở Ấn Độ, không phân quyển theo phương pháp
truyền thống của các bản Hán dịch, gồm 7 phần tụng, 51 tương ưng.
Theo tác phẩm HÁN BA TỨ BỘ TỨ A-HÀM HỔ CHIẾU LỤC của
một học giả Nhật Bản là Xích Chiểu Trí Thiện, giữa Tương Ưng Bộ
của hệ Nam truyền và Kinh Tạp A-hàm bản Hán dịch thuộc Bắc truyền,
không những số kinh được ghi chép khác nhau mà nghĩa lý trong đó
trái ngược nhau cũng không ít. Một học giả Nhật Bản khác là Tỷ Kỳ
Chánh Trị cũng tham chiếu giữa các kinh như Tương Ưng Bộ bản Pàli,
Kinh Tạp A-hàm bản Hán dịch, Hữu Bộ Tỳ-nại-da Tạp Sự v.v...Trong
tác phẩm "Hán Dịch Tứ A-hàm" (The four Buddhist A觡mas in Chinese)
của ông, ông đã phân chia nội dung thành 8 phẩm, 63 bộ.
Ngoài ra, 3 phẩm A-dục Vương Nhân Duyên Kinh, Pháp
Diệt Tận Tướng Kinh, A-dục Vương Thí Bán A-ma-lặc Quả Nhân Duyên
Kinh trong hai quyển 23 và 25 nói trên, nếu căn cứ trên nội dung,
nghĩa lý của kinh mà nói thì không nên biên nhập vào Kinh Tạp
A-hàm. Cho nên trong hai bản mới của Trung Quốc đều loại bỏ ba
phẩm kinh này ra khỏi Kinh Tạp A-hàm. Riêng bản của Phật Quang Sơn
thì xếp ba phẩm này vào phần Phụ Lục để các độc giả tham khảo. Số
kinh đầy đủ của bản này là khoảng 1300 tiểu kinh, tức là bao hàm
cả các kinh trong hai quyển 23 và 25 nói trên. Phật Quang Đại Tạng
Kinh ngoại trừ 3 kinh nói trên, còn 1359 kinh, đồng thời hiệu
chỉnh lại pho quyển và đặt lại tên kinh mới. Trong "Tạp A-hàm Kinh
Luận hội biên" của ngài Ấn Thuận thì sau mỗi kinh đều có liệt kê
những kinh có liên quan đến kinh ấy, tức tổng cộng toàn bộ gồm hơn
một vạn kinh. Trong "Quốc Dịch Nhất Thiết Kinh" của Nhật Bản cũng
sử dụng phương pháp của ngài Ấn Thuận, nhưng tổng số kinh so với
bản của ngài Ấn Thuận thì có khác nhau.
Kinh Tạp A-hàm bản Hán dịch có đến 3 loại, các kinh Biệt Sanh thì
có đến hơn 30 loại, tổng cộng là 33 loại. Ngoài ra, từ năm 1884,
nguyên văn của Tương Ưng Bộ bản Pàli liên tục được dịch ra tiếng
Anh, tiếng Đức, tiếng Nhật Bản, hiệu đính và sửa chữa rất nhiều.
Đặc biệt vào năm 1924, ông W. Piyattisa đã xuất bản tác phẩm chú
thích Tương Ưng Bộ (Pàli : Sàratthappakàsini) của Đại Luận sư Phật
giáo Tích Lan thế kỷ V là ngài Phật Âm (Pàli : Buddhaghosa).
Trong những bản Phạn mới phát hiện được ở tỉnh Tân
Cương, Trung Quốc cận đại cũng có những đoạn tương đương với Kinh
Tạp A-hàm bản Hán dịch. Các học giả hiện đại rất chú trọng nghiên
cứu các bản Phạn này.
Về sự truyền thừa Kinh Tạp A-hàm, theo PHÁP HOA KINH
HUYỀN TÁN 1, ĐẠI THỪA PHÁP UYỂN NGHĨA LÂM CHƯƠNG 4, HOA NGHIÊM
KINH SỚ SAO HUYỀN ĐÀM, Kinh Tạp A-hàm đều do Đại Chúng Bộ truyền,
nhưng CÂU XÁ LUẬN KÊ CỔ quyển thượng thì cho rằng Kinh Tạp A-hàm
và Trung A-hàm là do Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (tức Tát-bà-đa Bộ)
truyền. Còn ngài Ấn Thuận thì cho rằng Kinh Tạp A-hàm bản Hán dịch
là do Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ truyền, Tương Ưng Bộ bản Pàli là do
Xích Đồng Diệp Bộ truyền, Kinh Tạp A-hàm bản biệt dịch là do Ẩm
Quang Bộ truyền.
KẾT LUẬN
Kinh điển A-hàm là kinh điển có hình thái nguyên thủy
nhất. Trên phương diện Văn học sử, người ta tìm thấy ở đây hình
ảnh sống động nhất và chân thật nhất về cuộc đời Đức Phật và giáo
đoàn Phật giáo ngày xưa. Do không được tiếp cận với các văn bản cổ
cũng như các bản Pàli, một số hệ tư tưởng Bắc truyền từ lâu đã xem
nhẹ Kinh A-hàm. Tất nhiên về mặt Tư tưởng sử, họ không tìm thấy
những quan niệm như Phật tánh, Tam thân v.v... trong kinh điển
Nguyên Thủy, nhưng phương pháp mà Phật chỉ dạy để liễu sanh thoát
tử, chứng nhập Niết-bàn thì không thể không nghiên cứu trong Kinh
A-hàm mà có thể tìm hiểu chính xác được. Do vậy, sự tìm tòi, đối
chiếu, phân loại cũng như hiệu đính các bản kinh của một số học
giả và danh tăng cận đại là việc làm vô cùng ý nghĩa.
Tại Việt Nam nói riêng, đã đến lúc chấm dứt quan niệm
cho rằng Kinh A-hàm là Tiểu thừa. Đại và Tiểu không có ranh giới
trong kinh điển, chỉ có trong chính quan niệm của chúng ta thôi.
Hãy lật lại từng trang kinh đã từ lâu phủ bụi thời gian, để cho
Thánh pháp dựng hình sống động và miên viễn giữa lòng đời trái
đắng mật đen này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.
- Phật Quang Đại Từ Điển.
- Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận (Kimura Taiken -
HT. Quảng Độ dịch).
- Bài tựa Kinh Trường A-hàm (HT.Trí Đức dịch).
- Phật Giáo Thánh Điển (ngài Thánh Nghiêm).
|