-
Vị Trí Thánh Điển Hoa Văn
& PHẬT GIÁO THẾ GIỚI
Đại Sư Ấn Thuận
Người dịch:Thích Hạnh Bình
---o0o---
Hội Thân hữu Phật giáo thế giới,
chủ yếu là liên lạc tính đặc thù của Phật giáo khu vực trong mối
giao lưu của Phật giáo thế giới. Xuất phát từ tinh thần liên kết
đến sự hòa vui hợp tác, từ sự phát huy văn hóa cao cả của đức
Phật đến thực hiện sự nghiệp cứu giúp chúng sinh. Do vậy, trước
tiên cần xác định quan điểm, trên thế giới có bất kỳ hình thức
sinh hoạt cá biệt nào của Phật giáo, đều có chung một cội nguồn
là Phật giáo, do vậy không nên có thái độ võ đoán phiến diện, tự
cho mình là đúng kẻ khác là sai, không nên khinh khi phê phán
Phật giáo Ðại thừa là “phi pháp”, đồng thời cũng không nên kiêu
ngạo chê bai cho Phật giáo Tiểu thừa là hạng “tiêu nha bại
chủng”. Chỉ có tình hữu nghị với thái độ toân trọng tin tưởng và
giúp đỡ lẫn nhau, với tinh thần khách quan trong công tác nghiên
cứu và tu học, mới có thể cùng nhau chia sẻ sự hiểu biết, đó
cũng là điều kiện để đôi bên cảm thông và hợp tác. Có làm đượïc
vậy, mới có thể giúp cho chúng ta tìm ra cái tinh túy của Phật
giáo, đồng thời loại bỏ những điều tồi bại, để cho Phật giáo
phát triển đúng hướùng, và thích nghi cùng thời đại, hướng dẫn
xã hội, giác tỉnh thế gian và giúp đỡ mọi loài.
Phật pháp đều có cùng một nguồn gốc, lấy giải thoát
làm mục tiêu tối thượng, nhưng tính thích ứng xã hội của Phật
giáo rất đa dạng, vì nó có khả năng hòa nhập vớùi mọi dân tộc
trên thế giới, tuy những dân tộc ấy không cùng không gian và
thời gian. Do vậy, sự phát triển của nó dường như không có một
hình thái cố định nào. Nhưng căn cứù khuynh hướng và quy luật
phát triển của nó, chúng ta cần tìm hiểu khả năêng thích ứng
ngoại giớùi và sự liên kết nội giới của quá trình diễn biến của
Phật giáo, từ đó nó cho chúng ta nhận thức rằng: Sự bất đồng
hình thức sinh hoạt của Phật giáo trên thế giới, là điều có thể
cảm thông và hợp tác. Một cách bình thường mà nói, vì mỗi loại
hình sinh hoạt của Phật giáo của từng địa phương đều có sự ưu
khuyết điểm của nó, do vậy chúng ta phải đứng trên lập trường
bình đẳng, tôn trọng sự thật, chúng ta mới có thể hy sinh cái
ngắn ngủi không hoàn mỹ, để chọn cái lâu dài hữu ích hơn. Ðây
chính là giải pháp tốt đẹp và tiến bộ nhất, để sinh hoạt của
Phật giáo tiến gần chân lý của đức Phật, đồng thời phù hợp với
hoài bảo chân chính của Ngài hơn.
Ðứng từ góc độ Phật giáo Ấn độ, quan sát sự hoạt
động của những Phật giáo trên thế giới, tất cả những hình thức
khác nhau ấy đều xuất phát từ một nguồn gốc là đức Phật, sau đó
được phân chia và hình thành nhiều hình thức sinh hoạt Phật giáo
khác nhau vì:
1- Từ Góc Độ Thánh Điển
Quan Sát:
Phật pháp trước tiên kết tập và lưu hành chỉ có Pháp
và Luật, Pháp tức chỉ Kinh (Àgama). Cho đến thời gian trước sau
Công nguyên, những người nghiên cứu đến Pháp (Àgama) này, chú
trọng phương pháp tu tập của Thinh văn, cho nên những người này
đặc biệt đề cao sự phân tích về pháp tướng (màtrka) và chủ
trương các pháp “thật hữu”, từ đó tiến hành giải thích biên tập
thành A tỳ đàm (abhidharma). Hoặc giả có ngườøi chú trọng đức
tướng của Phật và hạnh Bồ tát, cho nên họ đề cao sự thể chứng
pháp tánh duyên khởi, và cho rằng pháp tán vồn là “không”, từ đó
những người có cùng quan điểm này biên tập và lưu hành kinh Ðại
thừa, trong đó có đề cập về hữu và không. Ðến thế kỷ thứ ba, Bố
tát Long dựa vào lập trường tư tưởng “tánh không” của kinh điển
Ðại thừa, phân tích tư tưởng A-hàm (Àgama) A tỳ đàm
(abhidharma), trước tác Trung luận và các luận khác. Trên thật
tế, các kinh điển Ðại thừa đều có khuynh hướng chung, là thảo
luận về tánh chơn thường và duy tâm, như các kinh điển Thắng
man, Niết bàn v.v..., sau đó lại xuất hiện kinh Lăng già.v.v...
cũng cùng mang tư tưởng này. Trong quá trình phát triển tư tưởng
chơn thường và duy tâm của các kinh điển Ðại thừa, các nhà luận
sư của Hữu Bộ, Du Già, đều y cứ tư tưởng tánh không, duy tâm của
những loại kinh này mà biên tập các luận Du già Duy thức, thành
một trong những hệ phái lớn của Phật giáo. Chúng ta căn cứ quá
trình phát triển và diễn biến của nó, để chúng ta hiểu rằng, lý
do có những kinh luận mang nội dung tư tưởng khác nhau, đều mang
tính tương thân tương duyên, nhân cái trước mà có cái sau. Do
đó, có sựï bất đồng quan điểm và khuynh hướng giữa các kinh luận
vớùi nhau. Có được cái nhìn như vậy, chúng ta có thể hiểu rõ
Phật giáo hơn.
2- Từ Góc Độ Giáo Thừa Mà
Nói:
Phật pháp ở giai đoạn sơ kỳ (nguyên thủy), Phật
pháp là Phật pháp vốn không có sự khác biệt phân chia. Nhưng đến
thời gian trước hoặc sau Công nguyên, Phật pháp phân hóa thành
Thinh Văn thừa và Bồ Tát thừa. Qua kinh điển Ðại thừa chúng ta
có thể thấy một cách rõ sự phân chia giữa Tiểu thừa và Ðại thừa.
Vào thế kỷ thứ hai hoặc ba, Bồ Tát thừa lại xuất hiện những kinh
điển mang tư tưởng chơn thườøng và duy tâm. Trong loại kinh điển
này có sự khác biệt 3 hệ tư tưởng là: Hữu, không, trung, hoặc 3
thừa là: Tiểu thừa, Ðại thừøa và Nhất thừa. Sau đó, giáo lý Bồ
Tát thừa rất được phổ biến, đề cao quả vị Phật, do đó nó được
gọi là Phật thừa. Ðến thế kỷ thứ 5, trong tư tưởng diệu hữu của
Phật thừa lại tiếp tục phân hóa thàn Ðà-li-ni thừa. Thừa này đem
Phật pháp phân làm Tam tạng là: Ba-la-mật tạng (bao gồm tất cả
Ðại thừa hiển giáo), Ðà-li-ni tạng, hoặc gọi là Tứ đế hạnh,
Ba-la-mật-đa hạnh và Cụ tham hạnh. Sự phân hóa của giáo phán
này, biểu thị toàn bộ diện mạo của Phật pháp qua sự phân chia và
phát triển của nó. Quan điểm phân chia này cùng với sự phân chia
Phật pháp thành 3 thời kỳ của Ðại sư Thái Hư rất giống nhau.
- 500 năm của thời kỳ đầu: Thời kỳ Tiểu thừa thạnh
hành Ðại thừa ẩn... Văn hệ Pàli thuộc giai đoạn này.
- 500 năm của thời kỳ giữa: Thời kỳ chủ lưu là Ðại
thừa, thứ yếu là Tiểu thừa ... Văn hệ Hoa văn chú trọng giai
đoạn này.
- 500 năm của thờøi kỳ sau: Thời kỳ Mật thừa chủ
lưu, Hiển giáo thứ yếu... Văn hệ Tạng văn thuộc giai đoạn này.
Phật giáo Hoa văn được lưu trữ ở Trung Quốc, nó được
dịch sang Nhật ngữ và hình thành Phật giáo Nhật bản. Trong 3
thời kỳ của Phật giáo Ấn độ, Phật giáo Trung Quốc rất chú trọng
và đề cao Phật giáo ở giai đoạn đầu và Như lai thừa ở giai đoạn
sau. Trong suốt quá trình phát triển của Phật giáo thế giới, đây
là nhữõng văn hiến đáng được chú ý, nó được dịch sang Hoa văn
(phần lớn không còn Phạn bản). Như thế chỉ có Phật giáo Hoa văn
mớùi có thể giúp cho chúng ta những lý giải một cách hoàn chỉnh
về tiến trình diễn biến của Phật giáo. Bây giờ, chúng ta căn cứ
nguồn tài liệu này, thảo luận một vài điểm mang tính đặc thù của
nó:
Thứ Nhất Là A Hàm
(Àgama):
Bốn bộ A-hàm được bảo tồn một cách đầy đủ. Trung A-hàm
và Tạp A-hàm là những bản kinh thuộc Thuyết nhất thiết hữu Bộ,
Trường A-hàm thuộc hệ phái phân biệt thuyết, Tăng Nhứt A-hàm
thuộc hệ phái Ðại chúng. Tuy những Văn hiến này so với thánh
điển được ghi chép bằng tiếng Pàli thì không được đầy đủ, vì
nguồn tư liệu bằng tiếng Pàli đượïc bảo tồn một cách hoàn bị của
một Bộ phái, nhưng đối với nguồn tư liệu Hoa văn vẫn có giá trị
đặc biệt của nó. Ngược lại, trong Ðại Tạng kinh bằng tiếng Tây
Tạng hoàn toàn không có bốn bộ A-hàm này.
Ðiểm Thứ Hai Là Tỳ Nại-Da
(Vinaya):
Trong Ðại tạng bằng tiếng Tây Tạng chỉ lưu trữ những
bộ tân luật của Hữu bộ, Trong Ðại tạng bằng tiếng Pàli chỉ có
những bộ luật của Ðồng diệp bộ, nhưng trong Ðại tạng bằng tiếng
Hoa thì luật tạng được lưu trữ tương đối đầy đủ hơn, như:
01- Ðại Chúng
Hệ...................................................................Ma
ha tăng kỳ luật.
Hóa Địa Bộ
............................................................................Ngũ
phần luật
Pháp Tạng Bộ
........................................................................Tứ
phần luật
02. Phân biệt thuyết hệ
Ẩm quang bộ
.........................................................................Giới
bổn
Ðồng diệp
bộ.........................................................................Thiện
kiến luật 3.
03- Thuyết Nhất Thiết Hữu Hệ
Cựu thuyết nhất thuyết
hữu.................................................... Thập
tụng luật.
Tân thuyết nhất thiết hữu .....
................................................ Căn bổnThuyết
nhất thiết Tỳ-nại-da. 4- Ðộc Tử Hệ............
Chánh lượng bộ .................... Nhị thập nhị minh liễu
luận.
Ðây là những văn hiến được thu thập rất đầy đủ, đáng
cho chúng ta làm công tác so sánh nghiên cứu.
Ðiểm Thứ Ba Là A Tỳ Đạt
Mạ (abhiharma):
Ðây là những luận thư của ba phái lớn của Thượng tọa
hệ là: Phần biện thuyết, Thuyết nhứt thiết hữu và Ðộc tử bộ. Ðối
với nguồn tư liệu này, trong bộ Ðại Tạng bằng tiếng Tây Tạng chỉ
lưu trữ một bộ phận rất ít về A-tỳ-đaït-ma, trong đó chỉ thấy có
bộ Thi thiết luận của Lục túc và Cu xá luận, là bộ luận đượïc
xuất hiện tương đối muộn. Ðối Văn học Pàli có đầy đủ 7 bộ luận.
Trong Thánh điển Hoa văn, tuy phần lớn tư liệu thuộc Hữu bộ,
nhưng trên thựïc tế, nó không giớùi hạn chỉ có Hữu bộ mà bao gồm
cả những bộ luận của các phái khác nhau. Những bộ luận thuộc
Thuyết nhứt thiết hữu Bộ, gồm có có 6 bộ (1.Pháp uẩn túc luận,
2. Tập dị môn túc luận, 3.Thi thiết luận, 4.Phẩm loại túc luận,
5.Giới thân túc luận, 6.Thức thân túc luận), gọi là Lục túc,
Phát trí luận và Tỳ bà sa luận. Ngoài ra, còn có A tỳ đàm tâm
luận là tác phẩm đối kháng với bộ Thuận chánh lý luận và Hiển
Tông luận thuộc hệ tư tưởng Cu xá; Phân biệt thuyết hệ có bộ Xá
lợi phất A-tỳ-đàm luận. Qua những tác phẩm này, chúng ta có thể
nói, đây là những luận thư có tính chất thiết yếu và duy nhất
của Nam Bắc truyền A-tỳ-đàm luận. Bắc truyền còn có Giải thoát
đạo luận, là dị bản của Thanh tịnh đạo luận thuộc văn học Pàli;
Ðộc Tử bộ có Tam di để bộ luận, Tam pháp bộ luận. Ngoài ra, tác
phẩm đượïc xuất hiện khá muộn vào khoảng thế kỷ thứ 3,4 SCN là
bộ Cu Xá luận, qua nội dung tư tưởûng của nó, có thể liệt vào
Hữu bộ và Kinh bộ, nhưng cần phải chọn lọc và tổng hợp, vì Cu Xá
luận là tác phẩm khá nổi tiếng trong giới Phật giáo, nó có ảnh
hưởng khá sâu đậm đến tác phẩm Thành thật luận, là tác phẩm mang
tính chủ lưu của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ những văn hiến
này, tiến hành nghiên cứu và lý giải, chúng ta thấy Tam tạng
thánh điển của thời đại Phật giáo sơ kỳ, tuy Phật giáo Trung
quốc không đề cao, nhưng nguồn tư liệu rất phong phú, và đáng
được tin cậy, để chúng ta tiến hành nghiên cứùu tìm hiểu sự phân
chia các bộ phái mà Phật giáo Ðại thừa gọi là Thinh Văn, thậm
chí nó cũng là bằng chứng cụ thể để phát triển thành tinh thần
Bồ tát hạnh của Ðại thừa. Nếu như chúng ta nghiên cứu Phật học
mà vô tình hay cố ý bỏ qua những Thánh điển bằng Hoa văn này,
tôi tin chắc rằng, khó có thể hoàn thành những điều kiện cơ bản
để các nước Phật giáo trên thế giới cảm thông và ngồi lại với
nhau, cũng khó hoàn thành trách nhiệm cao cả đối với Phật giáo
thế giới.
Ðiểm Thứ Tư & Năm, Những
Kinh Điển Ðại Thừa Mang Ý Nghĩa Tánh Không & Chơn Thường:
Những thánh điển này ở Văn học Hoa văn và Tạng văn
rất đầy đủ (nhưng bộ đại tạng Pàli không có những thánh điển
này). Bốn bộ kinh : Bát nhã, Hoa nghiêm, Ðại tập, Niết bàn, hoặc
thêm Bảo tích thành năm bộ kinh lớn, đều là những bộ kinh nổi
tiếng của kinh điển Ðại thừa. Ở đây tôi có thể đưa ra tính đặc
thù ưu việt của Thánh điển Hoa văn như sau: 1. Các bản dị dịch
của Hoa văn, được giữ nguyên vẹn những điểm không giống nhau của
nó, nhưng điều này ở bản Tây Tạng đã trải qua nhiều đợt tu
chỉnh, làm mất đi dấu tích nguyên bản. Do đó, nghiên cứùu thánh
điển Hoa văn, chúng ta có thể rõ ràng và tườøng tậnquá trình và
diễn biến trong trật tự của Thánh điển Phật giáo, đồng thời nó
cũng cho chúng ta có thể hiểu rõ tính không đồng nhất từ Tây
phương (Ấn độ). Ðây không phải là cái nhìn thiên kiến cố chấp,
trên thực tế căn cứù từ những tư liệu Hoa văn chúng ta có thể
thấy rõ sự diễn biến của nó. 2. Kinh Ðại thừa bằng Hoa văn, được
truyền dịch trước thời lưỡng Tấn cùng với Phật giáo Tây Tạng đặc
biệt có quan hệ mật thiết, vì cả hai nơi đều lấy khu vực vùng
núi thuộc nước Kế tân làm trung tâm, rồi dần dần mở rộng đến
vùng phía Tây của Thổ hỏa la, phía Tây Nam của Phạm thuật na và
Na Yiết la, phía Ðông của Kiến đà la, phía Ðông Bắc của Kiệt
xoa, Tử hợp và Vu điền. Ðiều này đối với giới Phật giáo Trung
quốc, nó tạo thành trung tâm tư tưởng Phật giáo. Trong đó, Bồ đề
lưu Chi là học giả Bắc Ấn độ đã dịch ra tiếng Hoa tác phẩm Thập
địa luận, Lăng già luận, là nhữõng tác phẩm có giá trị rất đặc
sắc.
Ðiểm Thứ Sáu Là Trung
Quán:
Trung quán mà được người Trung quốc lưu truyền cùng với
Trung quán của người Tây Tạng lưu truyền là hai bản không giống
nhau. Bản mà Hoa văn truyền thừa là bản của giai đoạn sơ kỳ. Ðặc
biệt chú trọng những luận điểm mà Long Thọ thảo luận, như Ðại
trí độ luận là bản giải thích kinh Bát nhã, Thập trụ đại tỳ bà
sa luận là tác phẩm giải thích Thập địa luận, nó không chỉ là ý
nghĩa thâm sâu của Trung quán, mà còn đề cao tinh thần Bồ tát
hạnh. Khác với Trung quán của thờøi hậu kỳ, là bản sau thời kỳ
Du già hưng khởi, là những luận điển của những đệ tử của Long
Thọ. Ðối với những tác phẩm của thời hậu kỳ này, trong Ðại tạng
Hoa văn chỉ có Bát nhã đăng luận của Thanh Biện, không phong phú
bằng Tạng văn, vả lại nó cũng đượïc phân chia khá nhiều học
phái. Tác phẩm Nhập Ðại thừøa luận của Kiên Tuệ, Thuận trung
luận của Vô Trước, đó là hai tác phẩm đại biểu cho khuynh hướng
từ Trung quán chuyển hướng đến giai đoạn Du già.
Ðiểm Thứ Bảy, Du Già
Duy Thức:
Ðối với học phái này, tư liệu Hoa văn rất đầy đủ,
gồm có Thập địa luận, Nhiếp luận, Thành duy thức luận là 3
trường phái lớn. Nhưng Tây Tạng bản chủ yếu chỉ có trường phái
An Huệ mà thôi, tư tưởng của trường phái này có thể nói gần với
tác phẩm Nhiếp luận của Hoa văn. Nhưng trường phái Duy Thức mà
Hoa văn đề cao là trường phái Hộ Pháp, không phải là An Huệ.
Trong đó tác phẩm Thành duy thức luận là tác phẩm được đại diện
cho tư tưởng của Trần Na, Hộ Pháp và Giới Hiền. Có thể nói,
chúng ta biết được học phái này ngang qua nguồn tư liệu Hoa văn.
Nhơn minh là tác phẩm song hành Duy thức tướng, nó so với những
tác phẩm của Trần Na, Pháp Xứng đượïc truyền dịch trong Tạng văn
thì không mấy đầy đủ. Ðiều này biểu thị dân tộc Trung Hoa không
chú trọng tính logic, không đề cao sự tranh biện bằng ngôn từ.
Ðây là sự giới hạn của các luận sư của Pháp giáo Trung quốc
trong quá khứ, điều đó không đủ chiếm vị trí chủ lưu.
Ðiểm Thứ Tám, Bí Mật Du
Già:
Sự Bộ (Nhật Bản gọi là Tạp mật), là Ðại Nhật kinh
của Hành bộ, Kim cang đảnh kinh của Du già bộ, trong Ðại tạng
kinh bằng Hoa văn đều có dịch và truyền thừa. Chỉ có Vô thượng
Du già bộ chịu ảnh hưởng của thời đại, khi Vô thượng Du già
thịnh hành, là thời gian Trung quốc rơi vào tình trạng suy vi,
chịu những ảnh hưởng những tập khí không tốt, phái này lấy việc
dâm dục làm pháp môn tu tập, do đó nó không được giới tri thức
Trung quốc chấp nhận. Liên quan đến nguồn tư liệu về phái Bí mật
Du già này được bảo tồn trong Tạng văn khá đầy đủ.
Những điều vừa trình bày trên, cho chúng ta thấy
rằng Thánh điển được dịch sang tiếng Hoa, tuy Phật giáo của đất
nước này chỉ chú trọng giai đoạn Trung kỳ Ðại thừa, nhưng trên
thật tế, Thánh điển được dịch sang Hoa văn không giới hạn chỉ có
nguồn tư liệu của Phật giáo trung kỳ; Nguồn tư liệu của Phật
giáo ở giai đoạn vãng kỳ chúng ta cũng rõ được nguồn gốc; Phật
giáo ở giai đoạn sơ kỳ cũng đượïc truyền dịch khá phong phú. Do
đó, căn cứ từ nguồn tư liệu Hoa văn, chúng ta tiến hành lý giải
nghiên cứu, bằng cách tham khảo Tam Tạng thánh điển Thinh văn
của văn học Pàli ở giai đoạn sơ kỳ, đồng thời nghiên cứu Trung
quán, Vô thượng Du của thời vãng kỳ Phật giáo qua nguồn tư liệu
Tạng văn, từ đó chúng ta có được toàn cảnh của bức tranh phát
triển của Phật giáo, đã trải qua thời gian một ngàn sáu bảy trăm
năm, và nó cũng được lưu truyền đến ngày nay qua ba hệ văn học
(Pàli văn, Hoa văn và Tạng văn) của Phật giáo. Qua đó, chúng ta
có cái nhìn về Phật giáo tương đối chính xác, hoàn chỉnh và có
hệ thống hơn. Ðối với vấn đề này ngài Thái Hư đã phát biểu: Y cứ
những thánh điển đượïc lưu truyền tại Trung quốc, tham khảo văn
bản Pàli ở Tích lan và bản dịch của Tây tạng. Qua đó chúng ta
tiến hành phân biệt chọn lọc để tìm ra điểm chân chánh Phật
pháp, đề xuất quan điểm mới, là mục đích luận thuật Phật giáo sử
Ấn độ. Ðây không chỉ nghiên cứu sử Phật giáo Ấn độ, mà còn là
điều cơ bản để các nước Phật giáo trên thế giới có sự thông cảm
lẫn nhau, cũng là phương pháp giải quyết tối ưu và hợp lý nhất
trong việc quyết định chọn lấy điều tốt đẹp và lâu dài, bỏ đi
những gì mang tính hữu hạn và xấu xa để hướng đến mục đích cao
cả, làm cho Phật giáo phát triển và thích nghi với từng thời
đại.
(Bài này được dịch từ tác phẩn “Dĩ Phật pháp nghiên
cứu Phật pháp” trong bộ Diệu vân tập, quyển 16, của HT Ấn Thuận,
do nhà xuất bản Chánh văn ấn hành, 1990).
--- o0o ---