|
Kinh
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ BA
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM
TẬP TÁN THỨ CHÍN
Ngài Tu Bồ Ðề bạch đức Phật: "Bạch đức Thế-Tôn!
Con chẳng cảm thấy cũng chẳng được gì là Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba
la mật thời sẽ vì ai mà giảng thuyết Bát-Nhã ba la mật?
Bạch đức
Thế-Tôn! Con chẳng thấy được tất cả các pháp tập họp rời tan, nếu
con vì Bồ-Tát mà gọi tên Bồ-Tát có thể con sẽ phải hối hận.
Bạch đức
Thế-Tôn! Tên gọi ấy chẳng an trụ. Tại sao vậy? Vì tên gọi vốn vô sở
hữu. Vì thế nên tên gọi ấy chẳng trụ cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch đức
Thế-Tôn! Con chẳng thấy được sắc nhẫn đến thức, nhãn nhẫn đến ý, sắc
nhẫn đến pháp, nhãn thức nhẫn đến ý thức, nhãn xúc nhẫn đến ý xúc,
nhãn xúc nhơn duyên sanh thọ, con cũng chẳng thấy được vô minh nhẫn
đến lão tử họp tan, vô minh diệt nhẫn đến lão tử diệt họp tan. Nếu
đã là chẳng thấy được thời thế nào lại đặt tên. Thế nên tên gọi
chẳng trụ cũng chẳng phải chẳng trụ. Tại sao vậy? Vì tên gọi vô sở
hữu vậy.
Bạch đức
Thế-Tôn! Con chẳng thấy được tham sân si các phiền não kiết sử họp
tan, chẳng thấy được sáu ba la mật đến mười tám pháp bất cộng họp
tập rời tan, thời thế nào sẽ đặt tên gọi là Bồ-Tát. Tên gọi này
chẳng an trụ chẳng phải chẳng an trụ. Tại sao vậy? Vì tên gọi vô sở
hữu vậy.
Bạch đức
Thế-Tôn! Con chẳng thấy được ngũ ấm họp tan như mộng, như bóng, như
vang, như dương diện, như biến hóa.
Con chẳng được
rời họp tan, cùng tịch diệt bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh họp
tan.
Con chẳng được
pháp tánh thiệt tế pháp tướng pháp vị họp tan.
Con chẳng được
những pháp thiện pháp bất thiện họp tan.
Con chẳng được
những pháp hữu vi vô vi hữu lậu vô lậu họp tan.
Con chẳng được
những pháp quá khứ vị lai hiện tại họp tan.
Con chẳng được
những pháp chẳng quá khứ chẳng vị lai chẳng hiện tại họp tan.
Những gì là Pháp
chẳng quá khứ chẳng vị lai chẳng hiện tại? Chính là pháp vô vi vậy.
Bạch đức
Thế-Tôn! Con chẳng thấy được pháp vô vi họp tan. Chẳng thấy được
Phật họp tan, cũng chẳng thấy được Phật quốc chư Phật và Bồ-Tát cùng
Thanh Văn Bích Chi Phật họp tan. Vì đều vô sở hữu nên chẳng trụ
chẳng phải chẳng trụ.
Như thế thời thế
nào sẽ có thể giáo Bồ-Tát về Bát-Nhã ba la mật.
Bạch đức
Thế-Tôn! Danh tự Bồ-Tát đây chẳng an trụ cũng ch ẳng phải chẳng an
trụ. Tại sao vậy? Vì danh tự này vô sở hữu vậy, thế nên chẳng trụ
cũng chẳng phải chẳng an trụ.
Bạch đức
Thế-Tôn! Con chẳng thấy được chư pháp thiệt tướng họp tan thời thế
nào đặt tên cho Bồ-Tát mà gọi là Bồ-Tát. Danh tự thiệt tướng của các
pháp chẳng trụ cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì danh tự này vô sở hữu.
Thế nên danh tự chẳng trụ cũng chẳng phải chẳng an trụ.
Bạch đức
Thế-Tôn! Các pháp do nhơn duyên hòa hiệp mà có giả danh thi thiết.
Danh tự Bồ-Tát trong ngũ ấm, thập nhị xứ, thập bát giới nhẫn đến
trong mười tám pháp bất cộng đều bất khả thuyết, ở trong pháp hòa
hiệp cũng là bất khả thuyết.
Ví như mộng ảnh
hưởng diệm hóa, trong các pháp, đều bất khả thuyết.
Ví như danh tự
hư không địa thủy hỏa phong cũng chỉ có thể nói trong không có pháp.
Danh tự của giới
tam muội trí huệ giải-thoát giải-thoát-tri-kiến, danh tự của Tu Ðà
Hoàn Tư Ðà Hàm A Na Hàm A La Hán Bích Chi Phật cũng chỉ có thể nói
trong không có pháp.
Danh tự của
Phật, của pháp cũng chỉ có thể nói trong không có pháp. Những pháp
là thiện bất thiện thường vô thường khổ lạc ngã vô ngã tịch diệt ly
hữu vô.
Bạch đức
Thế-Tôn! Vì thế nên lòng con sẽ hối hận nếu con đặt danh tự Bô-Tát
mà gọi là Bồ-Tát, vì tướng họp tan của tất cả pháp đều bất khả đắc.
Danh tự ấy chẳng trụ cũng chẳng phải chẳng trụ, vì là vô sở hữu vậy.
Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát nghe nói tướng và nghĩa của Bát-Nhã ba la
mật như vậy mà tâm chẳng trầm một, chẳng hối tiếc chẳng kinh chẳng
sợ, thời phải biết Bồ-Tát này quyết định an trụ trong tánh bất thối
chuyển, vì chẳng an trụ trong các pháp vậy.
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, chẳng nên an
trụ trong ngũ uẩn thập nhị xứ thập bát giới,chẳng nên an trụ trong
sáu đại chủng thập nhị nhơn duyên.
Tại sao vậy? Vì
sắc và sắc tướng là không nhẫn đến lão tử và tướngÕ lão tử là không.
Sắc không nhẫn
đến lão tử không chẳng gọi là sắc nhẫn đến chẳng gọi là lão tử. Rời
ngoài không cũng không có sắc, nhẫn đến rời ngoài không cũng không
có lão tử. Sắc tức là không, không tức là sắc. Nhẫn đến lão tử tức
là không, không tức là lão tử.
Vì lẽ trên đây
nên lúc muốn thực hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng nên an
trụ trong sắc, nhẫn đến chẳng nên an trụ trong lão tử. Chẳng nên an
trụ trong tứ niệm xứ nhẫn đến chẳng nên an trụ trong mười tám pháp
bất cộng. Tại sao vậy? Vì tứ niệm xứ và tướng của tứ niệm xứ là
không. Tứ niệm xứ không chẳng gọi là tứ niệm xứ, rời ngoài không
cũng không có tứ niệm xứ. Tứ niệm xứ tức là không, không tức là tứ
niệm xứ. Nhẫn đến mười tám pháp bất cộng cũng vậy.
Bạch đức
Thế-Tôn! Lúc muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng nên
an trụ trong sáu ba la mật. Tại sao vậy? Vì sáu ba la mật và tướng
của sáu ba la mật là không. Sáu ba la mật không chẳng gọi là sáu ba
la mật. Rời ngoài không cũng chẳng có sáu ba la mật. Sáu ba la mật
tức là không, không tức là sáu ba la mật.
Bạch đức
Thế-Tôn! Lúc muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng nên
an trụ trong nhứt tự môn nhị tự môn nhẫn đến vô lượng tự môn. Vì ý
nghĩa cũng như trên đã nói.
Bạch đức
Thế-Tôn! Lúc muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng nên
an trụ trong các môn thần thông. Vì ý nghĩa cũng như trên đã nói.
Bạch đức
Thế-Tôn! Lúc muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng nên
an trụ trong sắc là vô thường, sắc là khổ, sắc là vô ngã, sắc là
không, sắc là tịch diệt, là ly. Tại sao vậy? Vì vô thường và tướng
vô thường là không. Vô thường không chẳng gọi là vô thường, rời
ngoài không cũng chẳng có vô thường. Vô thường tức là không, không
tức là vô thường. Khổ vô ngã không tịch diệt và ly, đại Bồ-Tát chẳng
nên an trụ cũng như vậy.
Bạch đức
Thế-Tôn! Lúc muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng nên
an trụ trong như như. Tại sao vậy? Vì như tướng là không nên chẳng
gọi như như, rời ngoài không cũng chẳng có như như. Như tức là
không, không tức là như.
Bạch đức
Thế-Tôn! Muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng nên an
trụ trong pháp tánh pháp tướng pháp vị thiệt tế. Tại sao vậy? Vì
thiệt tế và thiệt tế tướng là không. Thiệt tế không chẳng gọi là
thiệt tế, rời ngoài không cũng chẳng có thiệt tế. Thiệt tế tức là
không, không tức là thiệt tế.
Bạch đức
Thế-Tôn! Muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng n ên an
trụ trong tất cả môn đà la ni, môn tam muội. Tại sao vậy? Vì tướng
của Ðà-La-Ni và Tam-Muội là không. Ðã là không thời chẳng gọi là môn
đà la ni môn tam muội. Rời ngoài không cũng chẳng có môn đà la ni
môn tam muội. Môn đà la ni và môn tam muội tức là không, không tức
là môn đà la ni môn tam muội.
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, vì không
phương tiện, nên an trụ trong sắc thọ tưởng hành thức, vì có tâm
chấp ngã nên Bồ-Tát này sanh khởi sắc hành đến thức hành. Nếu đã
sanh khởi hành thời chẳng nhẫn thọ Bát-Nhã ba la mật. Vì chẳng đầy
đủ Bát-Nhã ba la mật nên chẳng thành tựu được nhứt thiết chủng trí.
Như ngũ uẩn,
thập nhị xứ đến tam muội môn cũng như vậy. Do tâm ngô ngã mà Bồ-Tát
sanh khởi tam-muội-môn-hành. Vì có hành nên chẳng nhẫn thọ và chẳng
đầy đủ Bát-Nhã ba la mật, do đây nên chẳng thành tựu được nhứt thiết
chủng trí.
Tại sao vậy? Vì
sắc đến tam muội môn vốn chẳng thọ nhận. Vì chẳng thọ nhận nên sắc
chẳng phải sắc, đến tam muội môn chẳng phải tam muội môn, vì là
tánh không. Bát-Nhã ba la mật cũng chẳng thọ nhận, thế nên chẳng
phải Bát-Nhã ba la mật, vì là tánh không.
Vì thế nên muốn
thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát phải quán các pháp tánh
không, quán tâm không hành xứ. Ðây gọi là đại Bồ-Tát chẳng thọ nhận,
công dụng tam muội quảng đại này chẳng cùng chung với hàng Thanh Văn
Bích Chi Phật:
Nhứt thiết chủng
trí đây cũng chẳng thọ nhận, vì là nội không, vì là ngoại không, nội
ngoại không, không không, đại không, đệ nhứt nghĩa không, hữu vi
không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh
không, tự tướng không, chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp
không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không.
Tại sao vậy? Vì
nhứt thiết chủng trí chẳng thể dùng tướng và hành mà có thể được
tướng hành. Vì tướng hành là cấu tướng.
Những gì là cấu
tướng? Sắc tướng đến tam-muội-môn-tướng gọi là tướng cấu uế.
Nếu nhẫn thọ nếu
tu tập cấu tướng này mà có thể được nhứt thiết chủng trí thời
phạm-chí Tiên-Ni tất chẳng phát tín tâm.
Tin thế nào? Tin
Bát-Nhã ba la mật. Suy gẫm phân biệt rõ biết chẳng do pháp hữu
tướng, chẳng do pháp vô tướng. Như thế, phạm-chí Tiên-Ni chẳng chấp
lấy tướng mà an trụ. Trong tín hành phạm chí Tiên-Ni dùng t
ín-không-trí nhập trong pháp tướng, chẳng nhẫn thọ sắc thọ tưởng
hành thức, vì các pháp vốn tự tướng không nên chẳng thể nhẫn thọ.
Phạm chí Tiên-Ni
này do chẳng phải nội quán, ngoại quán và nội ngoại quán mà được trí
huệ này. Cũng do chẳng phải là không trí huệ quán nên được trí huệ
này.
Tại sao vậy?
Phạm chí này chẳng thấy có pháp, vì người trí biết pháp biết xứ vậy.
Chẳng phải ở
trong sắc thọ tưởng hành thức cũng chẳng phải ở ngoài sắc thọ
tưởng hành thức mà phạm chí này được trí huệ, cũng chẳng phải ở
trong nội ngoại sắc thọ tưởng hành thức mà được trí huệ này, cũng
chẳng phải rời ngoài sắc thọ tưởng hành thức mà được trí huệ này,
vì nội ngoại không vậy.
Ở trong đây phạm
chí Tiên-Ni tâm được tín giải nơi nhứt thiết trí. Thế nên phạm chí
tin thiệt tướng của các pháp, vì tất cả pháp bất khả đắc. Tín giải
như vậy rồi thời không có pháp để có thể nhẫn thọ, vì các pháp
không tướng không ức niệm.
Nơi các pháp,
phạm chí Tiên-Ni cũng vô sở đắc không thủ không xả, vì thủ xả đều
bất khả đắc vậy.
Phạm chí Tiên-Ni
cũng chẳng niệm trí huệ, vì các pháp tướng vốn vô niệm vậy.
Ðây gọi là
Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát vì Bát-Nhã ba la mật chẳng phải
Bát-Nhã ba la mật vậy.
Ðại Bồ-Tát chẳng
nhẫn thọ sắc thọ tưởng hành thức, vì tất cả pháp chẳng nhẫn thọ vậy.
Nhẫn đến chẳng thọ tam muội môn, vì tất cả pháp chẳng thọ vậy.
Ở trong đây,
Bồ-Tát này cũng chẳng lấy Niết-Bàn, vì chưa đầy đủ tứ niệm xứ nhẫn
đến chưa đầy đủ mười tám pháp bất cộng. Tứ niệm xứ này chẳng phải tứ
niệm xứ, nhẫn đến mười tám pháp bất cộng chẳng phải pháp bất cộng.
Những pháp này chẳng phải pháp cũng không chẳng phải pháp.
Ðây gọi là
Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát chẳng thọ sắc, nhẫn đến chẳng thọ
pháp bất cộng.
Bạch đức
Thế-Tôn! Muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát phải tư duy
như vầy: gì là Bát-Nhã ba la mật? Tại sao gọi là Bát-Nhã ba la mật?
Bát-Nhã ba la mật của ai?
Nếu thật hành
Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát nên nghĩ nhớ rằng nếu các pháp vô sở
hữu bất khả đắc thời là Bát-Nhã ba la mật.
Ngài Xá-Lợi-Phất
hỏi: Những pháp gì vô sở hữu bất khả đắc?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Bát-Nhã ba la mật là pháp vô sở hữu bất khả đắc, thiền-na
tỳ-lê-gia sằn-đề thi-la đàn-na ba la mật là pháp vô sở hữu bất khả
đắc. Tại sao vậy? Vì là nội không, ngoại không, nội ngoại không,
không không, đại không, đệ nhứt nghĩa không, hữu vi không, vô vi
không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, tự tướng
không, chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp
không, vô pháp hữu pháp không.
Này ngài
Xá-Lợi-Phất! Sắc thọ tưởng hành thức là pháp vô sở hữu bất khả đắc,
nhẫn đến vô pháp hữu pháp không là pháp vô sở hữu bất khả đắc. Tứ
niệm xứ đến bất cộng pháp là pháp vô sở hữu bất khả đắc. Các môn
thần thông cùng như như pháp tánh pháp tướng pháp vị pháp trụ và
thiệt tế đều là pháp vô sở hữu bất khả đắc.
Này ngài
Xá-Lợi-Phất! Phật cùng nhứt thiết trí, nhứt thiết chủng trí là pháp
vô sở hữu bất khả đắc. Vì là nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp
không vậy.
Này ngài
Xá-Lợi-Phất! Nếu lúc tư duy như vậy quán sát như vậy, đại Bồ-Tát tâm
chẳng trầm một chẳng hối tiếc chẳng kinh chẳng sợ. Phải biết đại
Bồ-Tát này chẳng rời hạnh Bát-Nhã ba la mật.
Ngài Xá-Lợi-Phất
hỏi: "Do nhơn duyên gì mà biết Bồ-Tát chẳng rời hạnh Bát-Nhã ba la
mật?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Sắc rời sắc tánh, nhẫn đến thức rời thức tánh. Sáu ba la mật
rời sáu ba la mật tánh, nhẫn đến thiệt tế rời thiệt tế tánh.
Ngài Xá-Lợi-Phất
hỏi: "Thế nào là sắc tánh đến thiệt tế tánh?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Vô sở hữu là sắc tánh, nhẫn đến vô sở hữu là thiệt tế tánh. Vì
duyên cớ này nên biết rằng sắc rời sắc tánh, nhẫn đến thiệt tế rời
thiệt tế tánh.
Này ngài
Xá-Lợi-Phất! Sắc cũng rời sắc tướng, nhẫn đến thiệt tế cũng rời
thiệt tế tướng. Tướng cũng rời tướng, tánh cũng rời tánh.
Ngài Xá-Lợi-Phất
hỏi: "Nếu học như vậy, đại Bồ-Tát được thành tựu nhứt thiết chủng
trí chăng?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Ðúng như vậy. Nếu đại Bồ-Tát học như vậy thời thành tựu nhứt
thiết chủng trí. Tại sao vậy? Vì các pháp chẳng sanh khởi chẳng
thành tựu vậy.
Ngài Xá-Lợi-Phất
hỏi: "Duyên cớ gì các pháp chẳng sanh chẳng thành?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Vì sắc tức là sắc không nhẫn đến vì thiệt tế là thiệt tế không
nên sắc sanh thành bất khả đắc, nhẫn đến thiệt tế sanh thành bất khả
đắc".
Này ngài
Xá-Lợi-Phất! Học như vậy, đại Bồ-Tát lần lần gần nhứt thiết chủng
trí, lần lần được thân thanh tịnh tâm thanh tịnh và tướng thanh
tịnh. Vì được thân và tâm cùng tướng thanh tịnh nên đại Bồ-Tát này
chẳng phát sanh tâm phiền não tham sân si mạn xan tà kiến. Vì chẳng
phát sanh tâm phiền não nên Bồ-Tát này chẳng sanh từ bụng người mẹ
mà thường hóa sanh từ một Phật quốc đến một Phật quốc để thành tựu
chúng sanh thanh tịnh Phật độ, mãi đến khi thành vô thượng bồ đề
trọn chẳng lúc nào rời chư Phật.
Ðại Bồ-Tát phải
học và hành Bát-Nhã ba la mật như vậy.
|
|