|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
HAI MƯƠI
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM MỘNG TRUNG BẤT CHỨNG THỨ NĂM MƯƠI MỐT
-
Ðức Phật bảo ngài Tu Bồ Ðề:
-
- Nếu đại Bồ-Tát nhẫn đến trong chiêm bao chẳng tham
muốn bực Thanh Văn Bích Chi Phật, cũng chẳng tham muốn ba cõi.
Quán các pháp như mộng, như ảo, như hưởng, như diệm, như hóa,
cũng chẳng chứng lấy.
-
Này Tu Bồ Ðề! Phải biết đó là tướng bất thối chuyển
của đại Bồ-Tát bất thối chuyển.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát trong chiêm bao thấy Phật
cùng vô số tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, Thiên,
long, quỷ, thần. Thấy đức Phật thuyết pháp cho đại chúng. Bồ-Tát
này theo Phật nghe pháp liền hiểu nghĩa trong đó rồi thật hành
theo pháp.
-
Phải biết đó là tướng bất thối chuyển của đại Bồ-Tát
bất thối chuyển.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Trong chiêm bao đại Bồ-Tát thấy đức
Phật đủ ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo, phóng ánh sáng
lớn vọt lên không trung thuyết pháp cho chúng đại tỳ kheo, rồi
hiện đại thần lực biến làm hóa nhơn đến Phật độ khác mà làm Phật
sự.
-
Phải biết đó là tướng bất thối chuyển của đại Bồ-Tát
bất thối chuyển.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Nếu trong chiêm bao, đại Bồ-Tát thấy
giặc nổi dậy đánh phá xóm làng thành thị, hoặc phóng hỏa, hoặc
thấy những ác thú cọp sói sư tử, hoặc thấy những kẻ muốn đến
chặt đầu mình, hoặc thấy cha mẹ anh chị bạn hữu chết. Dầu thấy
bao nhiêu sự dữ hung khổ sầu như vậy mà chẳng kinh dợ buồn lo.
Sau khi thức giấc liền suy gẫm ba cõi hư vọng đều như cảnh chiêm
bao thôi. Lúc tôi được vô thượng bồ đề, sẽ vì chúng sanh mà
giảng nói ba cõi như chiêm bao.
-
Phải biết đó là tướng bất thối chuyển của đại Bồ-Tát
bất thối chuyển.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Thế nào mà biết là đại Bồ-Tát bất
thôi chuyển lúc được vô thượng bồ đề trong nước không có ba ác
đạo?
-
Trong chiêm bao, nếu đại Bồ-Tát thấy các súc sanh ngạ
quỷ địa ngục liền nghĩ rằng tôi phải siêng năng tinh tấn, lúc
được vô thượng bồ đề trong cõi nước tôi không có ba ác đạo. Tại
sao vậy? Vì cảnh chiêm bao cùng các pháp không hai không sai
khác.
-
Phải biết đó là tướng bất thối chuyển của đại Bồ-Tát
bất thối chuyển.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Trong chiêm bao đại Bồ-Tát thấy lửa
địa ngục đốt nấu chúng sanh liền phát thệ: nếu tôi thiệt là bực
bất thối chuyển nguyện lửa này liền tắt.
-
Nếu lửa địa ngục liền tắt theo lời nguyện, phải biết
đó là tướng bất thối chuyển.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Ban ngày đại Bồ-Tát thấy thành thị
bị hỏa hoạn liền nghĩ rằng: Trong chiêm bao tôi thấy hạnh loại
tướng mạo bất thối chuyển, nay tôi thiệt có như vậy. Tự lập thệ
rằng: xin cho lửa này liền tắt.
-
Sau khi lập thệ, nếu lửa liền tắt thì phải biết đó là
đại Bồ-Tát được thọ ký vô thượng bồ đề trụ bực bất thối chuyển.
-
Nếu lửa đó chẳng liền tắt đốt cháy từ nhà này đến nhà
khác, từ xóm này đến xóm khác, này Tu Bồ Ðề! Phải biết những nhà
bị cháy là do đời trước nghiệp nhơn phá pháp sâu dầy nên đời nay
mang tai họa thừa ấy.
-
Do nhơn duyên đó, phải biết là tướng bất thối chuyển
của đại Bồ-Tát bất thối chuyển.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Nay đức Phật lại vì ngươi mà nói
hạnh loại tướng mạo của đại Bồ-Tát bất thối chuyển.
-
Nếu có nam tử hay nữ nhơn bị quỷ thần dựa. Khi đó
Bồ-Tát tự nghĩ nếu tôi được chư Phật quá khứ thọ ký, tâm tôi
thanh tịnh cầu vô thượng bồ đề hành chánh đạo thanh tịnh, xa rời
tâm cầu Thanh Văn, Bích Chi Phật. Xa rời tâm Thanh Văn Bích Chi
Phật đáng được vô thượng bồ đề. Tôi quyết chắc sẽ được vô thượng
bồ đề chẳng phải là không được. Hiện tại vô lượng chư Phật ở
mười phương quốc độ không gì chẳng biết chẳng thấy chẳng hiểu
chẳng chứng. Chư Phật biết thâm tâm tôi định chắc quyết sẽ được
vô thượng bồ đề. Do lòng chí thành phátt hệ ấy, nam tử hay nữ
nhơn bị quỷ thần dựa não hại đây sẽ được khỏi khổ nạn, quỷ thần
sẽ rời xa.
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát phát thệ như vậy, nếu qủy thần
chẳng rời đi, thì phải biết Bồ-Tát đó chưa được chư Phật quá khứ
thọ ký vô thượng bồ đề. Nếu quỷ thầnrời đi, thì phải biết đã
được chư Phật quá khứ thọ ký vô thượng bồ đề.
-
Do những hạnh loại tướng mạo đó mà biết là đại Bồ-Tát
bất thối chuyển.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát xa rời sáu ba la mật và
sức phương tiện, tu hành tứ niệm xứ nhẫn đến ba môn tam muội
chưa lâu, chưa nhập địa vị Bồ-Tát. Bồ-Tát đó bị ác ma nhiễu hại
bèn phát thệ rằng nếu tôi thiệt được chư Phật thọ ký thì quỷ
thần này phải rời đi. Lúc đó ác ma liền bảo quỷ thần rơì đi. Ác
ma có oai lực hơn quỷ thần nên quỷ thần liền rời đi. Bồ-Tát này
nghĩ rằng do sức thệ nguyện của tôi mà quỷ thần phải rời đi, chớ
chẳng biết là sức của ác ma. Vì cậy chỗ chứng đắc đó nên khinh
dễ các Bồ-Tát khác: Tôi đã được chư Phât thọ ký còn các ngài
thì chưa. Sanh lòng tăng thượng mạn. Do đây mà xa lìa nhứt thiết
chủng trí, xa rời vô thượng bồ đề.
-
Này Tu Bồ Ðề! Phải biết người đó sa vào hai bực: hoặc
bực Thanh Văn, hoặc bực Bích Chi Phật.
-
Do nhơn duyên luống thệ như trên, không có sức phương
tiện nên ma sự phát khởi. Người đó vì chẳng thân cận y chỉ thiện
tri thức, chẳng hỏi rành tướng mạo bất thối chuyển nên bị ma
trói buộc càng thêm kiên cố.
-
Tại sao vậy? Vì Bồ-Tát đó hành sáu ba la mật chẳng
được lâu nên không có sức phương tiện.
-
Phải biết đó là ma sự của Bồ-Tát.
-
Này Tu Bồ Ðề! Thế nào là Bồ-Tát hành sáu ba la mật
chẳng được lâu, nhẫn đến chưa nhập địa vị Bồ-Tát bị ác ma nhiễu
hại?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ác ma hóa hiện các thứ thân hình đến bảo
Bồ-Tát rằng: ở chỗ chư Phật, ngài được thọ ký vô thượng bồ đề,
ngài tên ấy, cha tên ấy mẹ tên ấy, anh chị em tên ấy, bảy đời
cha mẹ của ngài tên họ như vậy, ngài sanh trong ấp ấy làng ấy
thành ấy nước ấy tại địa phương ấy. Nếu thấy Bồ-Tát tánh hạnh
hòa nhu, ác ma nói: đời trước ngài cũng hòa nhu. Nếu thấy Bồ-Tát
tánh nóng gấp, ác ma nói: đời trước ngài cũng như vậy. Nếu thấy
Bồ-Tát tu hạnh tịch tịnh, ác ma nói: đời trước ngài cũng tu như
vậy. Nếu thấy Bồ-Tát khất thực, nạp y, chiều chẳng uống tương,
một lần ngồi ăn, ăn một bát, ở nơi gò mả, ở chỗ trống, ở dưới
cây, ngồi luôn chẳng nằm, ngồi kiết già, chỉ thọ ba y, hoặc
thiểu dục, hoặc tri túc, hoặc tu hạnh xa lìa, hoặc chẳng thoa
chưn, hoặc ít nói chuyện, ác ma bèn nói: đời trước ngài cũng có
hạnh như vậy đời nay ngài có công đức đầu đà này, đời trước ngài
cũng có công đức như vậy.
-
Bồ-Tát
đó nghe nói việc đời trước và họ tên, lại nghe khen ngợi công
đức đầu đà liền vui mừng sanh lòng kiêu mạn.
-
Bấy giờ ác ma nói: Ngài có công đức như vậy, có tướng
như vậy, ngài thiệt đã được chư Phật thọ ký vô thượng bồ đề.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ác ma hoặc hiện làm tỳ kheo vấn y, hoặc
hiện làm cư sĩ, hoặc hiện hình cha mẹ đến bảo Bồ-Tát: ngài đã
được thọ ký vô thượng bồ đề. Tại sao? Vì bao nhiêu tướng bất
thối chuyển ngài đều có đủ.
-
Này Tu Bồ Ðề! Thiệt ra những tướng mạo bất thối chuyển
chơn thiệt của đức Phật nói người này hoàn toàn không có.
-
Phải biết Bồ-Tát đó bị ma nhiễu hại. Tại sao vậy? Vì
Bồ-Tát đó hoàn toàn không có tướng mạo bất thối chuyển. Nhơn
nghe khen tặng mà sanh lòng kiêu mạn khinh miệt người khác.
-
Phải biết đó là ma sự của Bồ-Tát.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát hành sáu ba la mật chẳng được
lâu, chẳng biết tướng danh tự, chẳng biết tướng sắc, tướng thọ
tưởng hành thức. Ác ma đến nói: đời sau, lúc ngài được vô thượng
bồ đề sẽ có những danh hiệu như vầy. Rồi ác ma theo chỗ tưởng
niệm của Bồ-Tát đó mà nói danh hiệu. Bồ-Tát vô trí không có
phương tiện đó nghĩ rằng tôi đã trước có danh hiệu thành Phật
như người này nói hiệp đúng với bổn ý của tôi. Chắc là tôi đã
được chư Phật thọ ký.
-
Này Tu Bồ Ðề! Tướng mạo bất thối chuyển của đức Phật
nói, người này hoàn toàn không có. Chỉ theo danh hiệu trống rỗng
ấy rồi kiêu mạng khinh miệt người khác. Vì thế mà xa lìa vô
thượng bồ đề. Bồ-Tát này xa lìa Bát-Nhã ba la mật, không có sức
phương tiện, xa lìa thiện tri thức, theo ác tri thức nên sa vào
hai bực Thanh Văn, Bích Chi Phật. Nếu được liền tại thân đời này
ăn năn sám hối, lâu lâu qua lại trong sanh tử rồi sau mới trở
lại y chỉ Bát-Nhã ba la mật. Nếu gặp thiện tri thức rồi gần gũi
thì sẽ được vô thượng bồ đề. Còn nếu tại thân này chẳng liền sám
hối sẽ phải sa vào hai bực Thanh Văn, hoặc Bích Chi Phật.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nơi tứ trọng giới, nếu tỳ kheo phạm một
giới thì chẳng phải là sa môn, chẳng phải là Thích tử, hiện đời
chẳng được bốn quả sa môn.
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát đó ham danh tự giả có tâm kiêu
mạn khinh miệt người khác, phải biết tội này nặng hơn tội phạm
giới trọng của tỳ kheo. Này Tu Bồ Ðề! Chẳng những nặng hơn bốn
trọng giới mà còn hơn cả tội ngũ nghịch. Bỡi ham nhận danh hiệu
giả mà sanh lòng cao ngạo khinh miệt người khác, phải biết là
tội rất nặng. Như về những danh hiệu, còn các ma sự nhỏ nhặt
khác, Bồ-Tát phải cảnh giác biết rõ.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát ở chỗ vắng vẻ núi đầm trống
xa. Ma đến khen ngợi rằng: hạnh ngài là làm pháp viễn ly của
Phật ca ngợi.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðức Phật chẳng ca ngợi sự viễn ly như
vậy, nghĩa là chỉ ở nơi vắng vẻ núi đầm trống xa mà gọi là viễn
ly.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu ở chỗ vắng vẻ núi đầm trống xa
như vậy mà chẳng phải là pháp viễn ly thì có pháp viễn ly khác
thế nào?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu Bồ-Tát xa rời tâm Thanh Văn Bích Chi
Phật ở chỗ vắng vẻ núi đầm trống xa, đây là pháp viễn ly mà đức
Phật hứa khả. Pháp viễn ly này Bồ-Tát phải tu hành. Ngày đêm
hành pháp viễn ly này thì gọi là Bồ-Tát viễn ly hạnh.
-
Này Tu BồÐề! Nếu pháp viễn ly của ác ma nói, ở chỗ
vắng vẻ núi đầm trống xa mà tâm Bồ-Tát này ở tại nơi ồn náo: Đó
là chẳng xa rời tâm niệm Thanh Văn BíchChi Phật, chẳng siêng tu
Bát-Nhã ba la mật Bồ-Tát này chẳng đầy đủ được nhứt thiết chủng
trí. Bồ-Tát này hành pháp viễn ly của ác ma nói, lòng chẳng
thanh tịnh mà đi khinh khi các Bồ-Tát ở gần thành thị tâm thanh
tịnh, không có tâm niệm ồn náo, Thanh Văn Bích Chi Phật, cũng
không có tâm tạp ác khác, đầy đủ thiền định giải thoát trí huệ
thần thông.
-
Bồ-Tát xa rời Bát-Nhã ba la mật không có sức phương
tiện đó dầu ở chỗ tuyệt trống vắng ngoài trăm do tuần, chỗ
cầmthú quỷ thần la sát ở, hoặc một năm cho đến trăm ngàn vạn ức
năm, hoặc lâu hơn thời gian trên, mà chẳng biết pháp viễn ly
chơn thiệt của Bồ-Tát: đó là thâm tâm phát vô thượng bồ đề chẳng
có tâm tạp ác ồn náo. Chỗ làm của Bồ-Tát này đức Phật không hứa
khả.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðức Phật nói pháp viễn ly chơn thiệt.
Bồ-Tát này chẳng ở trong đó cũng chẳng thấy tướng viễn ly đó.
Tại sao? Vì Bồ-Tát này chỉ hành theo pháp viễn ly hư giả. Bấy
giờ ác ma đến đứng trong hư không khen rằng: lành thay lành
thay! Này thiện nam! Ðó là pháp viễn ly chơn thiệt của Phật nói.
Ngài hành pháp viễn ly ấy sẽ mau được vô thượng bồ đề. Nghe lời
khen ấy, Bồ-Tát này có tâm niệm ham pháp viễn ly ấy tất sẽ khinh
dễ các người cầu Phật đạo khác mà cho là ồn náo.
-
Ðó là lấy ồn náo làm chẳng ồn náo; lấy chẳng ồn náo
làm ồn náo, đáng cung kính mà chẳng cung kính, chẳng đáng cung
kính mà cung kính. Bồ-Tát này nnói: chư quỷ thần nhớ tưởng đến
khen ngợi tôi. Chỗ tôi hành trì đúng là hạnh viễn ly, không ai
khen tặng những người ở gần thành thị. Do cớ đó mà Bồ-Tát này
khinh khi các Bồ-Tát khác.
-
Này Tu Bồ Ðề! Phải biết Bồ-Tát này gọi là Bồ-Tát chiên
đà la làm ô nhiễm chư Bồ-Tát. Người này giống hình Bồ-Tát mà
thiệt là kẻ đại tặc trong nhơn gian và trên trời, cũng là kẻ
giặc vấn y trong hàng sa môn. Với người như vậy, những người cầu
Phật đạo chẳng nên gần gũi cúng dường cung kính. Tại sao vậy?
-
Này Tu Bồ Ðề! Phải biết người này sa vào hàng tăng
thượng mạn.
-
Thế nên nếu đại Bồ-Tát muốn chẳng rời bỏ nhứt thiết
trí, muốn được vô thượng bồ đề, nhứt tâm muốn cầu vô thượng bồ
đề, muốn lợi ích tất cả chúng sanh thì chẳng nên gần gũi hạng
người như vậy để cung kính cúng dường.
-
Theo pháp của đại Bồ-Tát phải thường xuyên cầu tự lợi
nhàm sợ thế gian tâm luôn xa rời ba cõi, đối với hạng người ấy
phải có lòng từ bi hỉ xả. Tôi hành Bồ-Tát đạo chẳng nên sanh tội
lỗi như vậy. Nếu có lỗi như vậy phải mau dứt trừ.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-tát phải khéo cảnh giác ma sự ấy.
Ở trong ma sự ấy phải khéo cố gắng ra khỏi.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-tát thâm tâm muốn được vô
thượng bồ đề phải gần gũi cung kính cúng dường thiện tri thức.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Những ai là thiện tri thức của đại
Bồ-Tát?
-
Này Tu Bồ Ðề! Chư Phật là thiện tri thức của đại
Bồ-Tát. Chư Bồ-Tát cũng là thiện tri thức của Bồ-Tát. A La Hán
cũng là thiện tri thức của Bồ-Tát.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Sáu ba la mật là thiện tri thức của
Bồ-Tát. Tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng cũng là thiện
tri thức của Bồ-Tát. Như, thiệt tế, pháp tánh cũng là thiện tri
thức của Bồ-Tát.
-
Này Tu Bồ Ðề! Sáu ba la mật là Thế-Tôn, sáu ba la mật
là đạo, là rất sáng, là đuốc, là trí, là huệ, là cứu, là quy, là
cồn đảo, là đường rốt ráo, là cha, là mẹ. Tứ niệm xứ nhẫn đến
nhứt thiết chủng trí cũng như vậy.
-
Tại sao? Vì sáu ba la mật và ba mươi bảy phẩm trợ đạo
là cha là mẹ của mười phương chư Phật quá khứ chư Phật vị lai
chư Phật hiện tại. tại sao? Vì sáu ba la mật và ba mươi bảy phẩm
trợ đạo hay sanh mười phương chư Phật qúa khứ vị lai hiện tại
vậy.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát muốn được vô thượng bồ đề
tịnh Phật quốc độ thành tựu chúng sanh thì phải học sáu ba la
mật ba mươi bảy phẩm trợ đạo và bốn nhiếp pháp để nhiếp lấy
chúng sanh. Ðây là bốn nhiếp pháp: Bố thí, ái ngữ, lợi ích và
đồng sự.
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì có công năng lợi ích như vậy nên ta
nói sáu ba la mật và ba mươi bảy phẩm trợ đạo là đại Bồ-Tát là
Thế-Tôn, là đạo, là rất sáng, là đuốc, là trí, là huệ, là cứu,
là quy, là cồn đảo, là đường rốt ráo, là cha, là mẹ.
-
Thế nên đại Bồ-Tát muốn an trụ chẳng theo lời người
khác, muốn dứt nghi cho tất cả chúng sanh, muốn tịnh Phật quốc
độ muốn thành tựu chúng sanh, thì phải học Bát-Nhã ba la mật
này.
-
Tại sao? Vì trong Bát-Nhã ba la mật nói rộng các pháp
mà chư đại Bồ-Tát cần phải học.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là tướng của Bát-Nhã ba la
mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Như tướng hư không là tướng của Bát-Nhã
ba la mật. Bát-Nhã ba la mật không có tướng.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Chừng có duyên cớ mà tướng các pháp
cũng như tướng của Bát-Nhã ba la mật chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Tướng các pháp cũng như
tướng Bát-Nhã ba la mật. Vì tất cả pháp tướng ly, tướng không.
Do nhơn duyên ấy nên tướng các pháp cũng như tướng Bát-Nhã ba la
mật. Ðó là tướng ly, tướng không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp là tất cả pháp ly,
tất cả pháp là tất cả pháp không, thì làm sao biết chúng sanh là
cấu hoặc tịnh?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Pháp ly tướng không cấu không tịnh.
Pháp không tướng không cấu không tịnh. Pháp ly tướng không tướng
chẳng thể được vô thượng bồ đề. Ly tướng và không tướng chẳng có
pháp để được.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Trong ly tướng trong không tướng
không có Bồ-Tát được vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Như vậy thì tôi làm sao có thể biết
được nghĩa của đức Phật tuyên nói?
-
Này Tu Bồ Ðề! Chúng sanh có mãi mãi hiện hành tâm ngã
ngã sở chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Có. Chúng sanh mãi mãi hiện tâm ngã
ngã sở.
-
Này Tu Bồ Ðề! Tâm ngã ngã sở đó có ly tướng chăng? Có
không tướng chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tâm ngã ngã sở ly tướng không tướng.
-
Này Tu Bồ Ðề! Do tâm ngã ngã sở đó, chúng sanh có qua
lại trong sanh tử chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Do tâm ngã ngã sở đó chúng sanh qua
lại trong sanh tử.
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì chúng sanh qua lại trong sanh tử nên
biết là có cấu có não.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu chúng sanh không tâm ngã ngã sở, tâm
không chấp trước, thì chẳng còn qua lại trong sanh tử. Nếu chẳng
qua lại trong sanh tử thì không có cấu não. Thế là chúng sanh có
tịnh.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát hành như vậy, đó là
chẳng hành sắc thọ tưởng hành thức, là chẳng hành tứ niệm xứ đến
bát thánh đạo, là chẳng hành nội không đến vô pháp hữu pháp
không, là chẳng hành mười trí lực đến nhứt thiết chủng trí.
-
Tại sao vậy? Vì pháp ấy chẳng thể được, cũng không
người hành, cũng không chỗ hành, cũng không phép hành.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát hành như vậy, tất cả
Thiên nhơn A Tu La ở thế gian chẳng thể hàng phục được đại
Bồ-Tát này. Tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật chẳng bằng được
Bồ-Tát này.
-
Tại sao vậy? Vì chỗ an trụ của Bồ-tát này không ai
bằng được, đó là địa vị Bồ-Tát.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Chỗ hành của Bồ-Tát này đúng với tâm
nhứt thiết chủng trí không ai bằng được.
-
Này Tu Bồ-Ðề! Ðại Bồ-Tát hành như vậy mau gần với nhứt
thiết chủng trí.
-
Này Tu Bồ Ðề! Cứ theo ý ngươi thế nào? Nếu như tất cả
mọi loài chúng sanh ở Diêm Phù Ðề đều hành nghiệp người, đều
được thân người và đều được vô thượng bồ đề cả. Nếu có thiện
nam thiện nữ trọn đời cung kính cúng dường ngợi khen tất cả chư
Phật đó, rồi đem tất cả thiện căn hồi hướng vô thượng bồ đề. Do
cớ ấy được phước nhiều chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Rất nhiều.
-
Này Tu Bồ Ðề! Phước không nhiều bằng thiện nam thiện
nữ ở giữa đại chúng tuyên nói Bát-Nhã ba la mật, chỉ dạy rành
rẽ, khai diễn rõ ràng đúng với Bát-Nhã ba la mật và cũng chánh
ức niệm. Nhẫn đến chúng sanh trong cõi Ðại Thiên cũng vậy.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như tất cả chúng sanh trong Diêm Phù Ðề
đồng thời đều được thân người. Có thiện nam thiện nữ dạy họ hành
thập thiện, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, dạy họ
được quả Tu Ðà Hoàn đến quả Bích Chi Phật, dạy họ được vô thượng
bồ đề. Ðem thiện căn dạy bảo đó hồi hướng vô thượng bồ đề. Thiện
nam thiện nữ đó được phước nhiều chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Rất nhiều.
-
Này Tu Bồ Ðề! Phước nhiều không bằng thiện nam thiện
nữ đem bát-Nhã ba la mật này diễn nói chỉ dạy rõ ràng rành rẽ
cho chúng sanh, cũng chẳng xa rời nhứt thiết chủng trí.
-
Như Diêm Phù Ðề, nhẫn đến cõi Ðại Thiên cũng vậy.
-
Ðại Bồ-Tát này chẳng xa rời tâm nhứt thiết chủng rtí
thì đến tột cùng bờ tất cả phước điền. Trừ chư Phật, không có
pháp nào bằng thế lực của đại Bồ-Tát.
-
Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát lúc hành Bát-Nhã ba la mật
đối với tất cả chúng sanh phát khởi lòng đại từ, vì thấy các
chúng sanh hướng đến chỗ chết nên sanh lòng đại bi. Lúc hành
đạo, Bồ-Tát vi thích nên sanh lòng đại hỉ. Vì chẳng cùng chung
với tưởng niệm nên được đại xả.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðó là đại Bồ-Tát được ánh sáng đại trí.
Ánh sáng đại trí dây tức là sáu ba la mật.
-
Này Tu Bồ Ðề! Thiện nam thiện nữ đó dầu chưa làm Phật
mà có thể làm phước điền lớn cho tất cả chúng sanh, chẳng thối
chuyển nơi vô thượng bồ đề. Hưởng thọ bốn sự cúng dường hành
đúng tâm Bát-Nhã ba la mật, quyết định báo được ơn thí chủ, mau
gần nhứt thiết chủng trí.
-
Thế nên đại Bồ-Tát muốn chẳng luống hưởng tọ bốn sự
thí cúng của người, muốn dạy đạo tam thừa cho chúng snah, muốn
làm ánh sáng lớn cho chúng sanh, muốn cứu vớt lao ngục tam giới,
muốn ban con mắt sáng cho tất cả chúng sanh, thì phải thường
hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát muốn nói thì
chỉ nói Bát-Nhã ba la mật. Nói Bát-Nhã ba la mật rồi thường ghi
nhớ Bát-Nhã ba la mật.
-
Thường ghi nhớ Bát-Nhã ba la mật rồi thường hành
Bát-Nhã ba la mật, chẳng cho tâm niệm khác phát sanh được, ngày
đêm siêng hành Bát-Nhã ba la mật, tâm niệm tương ưng chẳng thôi
chẳng nghỉ.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ví như có ngưòi chưa từng được châu ma
ni, lúc sau được, được rồi vui mừng hớn hở. Về sau lại đánh mất
bèn rất lo rầu thường nhớ tưởng châu ma ni đó, tự nghĩ sao tôi
lại đánh mất châu ma ni.
-
Cũng vậy, đại Bồ-Tát luôn nghĩ nhớ Bát-Nhã ba la mật
chẳng rời tâm nhứt thiết chủng trí.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tất cả niệm tưởng, tánh của nó tự
ly, tánh của nó tự không, tại sao đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la
mật lại chẳng rời lìa tâm nhứt thiết chủng trí.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát biết tất cả pháp như vậy,
tánh nó tự ly, tánh nó tự không, chẳng phải do Thanh Văn Bích
Chi Phật làm ra, cũng chẳng phải do Phật làm ra. Các pháp tướng
thường trụ, pháp tướng, pháp trụ, pháp vị, như, thiệt tế, đây
gọi là Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật chẳng rời lìa tâm nhứt
thiết chủng trí. Tại sao? Vì Bát-Nhã ba la mật tánh tự ly, tánh
tự không, chẳng tăng chẳng giảm vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu Bát-Nhã ba la mật, tánh nó tự
ly, tánh nó tự không thì thế nào đại Bồ-Tát bằng với Bát-Nhã ba
la mật được vô thượng bồ đề?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát bằng với với Bát-Nhã ba la
mật chẳng tăng chẳng giảm. Tại sao? Vì Bát-Nhã ba la mật chẳng
phải một chẳng phải khác.
-
Nếu đại Bồ-Tát nghe tướng Bát-Nhã ba la mật như vậy mà
chẳng kinh sợ nghi ngờ. Phải biết đại Bồ-Tát này hành Bát-Nhã ba
la mật, phải biết đại Bồ-Tát này an trụ bực bất thối chuyển.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không, chẳng chỗ có, là hành Bát-Nhã
ba la mật chăng?
-
Không phải.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Rời không còn có pháp hành Bát-Nhã
ba la mật chăng?
-
Không có.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật đó hàn Bát-Nhã ba
la mật chăng?
-
Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Rời Bát-Nhã ba la mật hành Bát-Nhã
ba la mật chăng?
-
Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Sắc thọ tưởng hành thức hành Bát-Nhã
ba la mật chăng?
-
Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Sáu ba la mật là hành Bát-Nhã ba la
mật chăng?
-
Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tứ niệm xứ đến pháp bất cộng là hành
Bát-Nhã ba la mật chăng?
-
Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Sắc thọ tưởng hành thức tướng
khônog, hư dối chẳng thiệt, không chỗ có, tướng chẳng kiên cố,
tướng như, pháp tướng, pháp trụ, pháp vị, thiệt tế, là hành
Bát-Nhã ba la mật chăng?
-
Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tứ niệm xứ đến pháp bất cộng tướng
không hư dối chẳng thiệt nhẫn đến thiệt tế, là hành Bát-Nhã ba
la mật chăng?
-
Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu các pháp đó đều chẳng hành, thì
hành Bát-Nhã ba la mật thế nào mà gọi là đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã
ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ngươi có thấy pháp nào hành Bát-Nhã ba
la mật chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ngươi có thấy chỗ hành Bát-Nhã ba la mật
của đại Bồ-Tát chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ Ðề! Pháp mà ông chẳng thấy đó, pháp ấy có
thể được chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ Ðề! Pháp ấy chẳng thể được, pháp ấy sẽ sanh
chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðó gọi là vô sanh pháp nhẫn của đại
Bồ-Tát. Bồ-Tát thành tựu nhẫn này được thọ ký vô thượng bồ đề.
Ðây gọi là vô sở úy vô ngại trí của Phật. Ðại Bồ-Tát hành pháp
đó siêng cần tinh tấn thì chẳng mất đại trí nhứt thiết chủng
trí, đó là trí vô thượng bồ đề. Không bao giờ chẳng được. Tại
sao? Vì đại Bồ-Tát được vô sanh pháp nhẫn, nhẫn đến vô thượng bồ
đề chẳng lui sụt chẳng giảm bớt.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Các pháp tướng vô sanh, trong đó
được thọ ký vô thượng bồ đề chăng?
-
Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Các pháp tướng sanh, trong đó được
thọ ký vô thượng bồ đề chăng?
-
Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Các pháp tướng sanh vô sanh, trong
đó được thọ ký vô thượng bồ đề chăng?
-
Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Các pháp chẳng sanh chẳng vô sanh,
trong đó được thọ ký vô thượng bồ đề chăng?
-
Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát làm sao biết là các pháp
đã được thọ ký vô thượng bồ đề?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ngươi thấycó pháp được thọ ký vô thượng
bồ đề chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không. Yôi chẳng thấy có pháp được
thọ ký vô thượng bồ đề. Tôi cũng chẳng thấy có người được chỗ
được.
-
Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Nếu lúc đại Bồ-Tát ở nơi
tất cả pháp vô sở đắc, chẳng nghĩ rằng tôi sẽ được vô thượng bồ
đề, cũng chẳng nghĩ dùng sự đó được vô thượng bồ đề, đây gọi là
chỗ vô thượng bồ đề.
-
Tại sao? Vì chư đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật
không có tưởng nhớ phân biệt.
-
Tại sao? Vì trong Bát-Nhã ba la mật không có tưởng nhớ
phân biệt vậy.
-
- --o0o--
|
|