Kinh
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
HAI MƯƠI BA
-
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
-
PHẨM TAM HUỆ THỨ BẢY MƯƠI
-
-
Ngài Tu Bồ Ðề thưa:
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la
mật thế nào? Sanh Bát-Nhã ba la mật thế nào? Tu Bát-Nhã ba
la mật thế nào?
-
Ðức Phật phán dạy:
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì sắc tịch diệt, vì sắc không, vì
sắc hư dối, vì sắc chẳng cứng chắc nên phải hành Bát-Nhã ba
la mật.
-
Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
-
Như lời ngươi hỏi sanh Bát-Nhã ba la mật thế
nào?
-
Vì như hư không sanh, nên sanh Bát-Nhã ba la
mật.
-
Như lời ngươi hỏi tu Bát-Nhã ba la mật thế nào?
-
Vì tu các pháp phá hoại, nên tu Bát-Nhã ba la
mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Hành Bát-Nhã ba la mật, sanh
Bát-Nhã ba la mật, tu Bát-Nhã ba la mật phải bao nhiêu thời
gian?
-
Này Tu Bồ Ðề! Tu lúc mới phát tâm đến lúc ngồi
đạo tràng nên hành nên sanh nên tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tâm niệm nào nên hành Bát-Nhã
ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Thường chẳng bỏ tâm Nhứt thiết
chủng trí chẳng cho tâm niệm khác xen vào được, đó là hành
Bát-Nhã ba la mật, là sanh Bát-Nhã ba la mật, là tu Bát-Nhã
ba la mật. Nếu tâm và tâm sở chẳng hiện hành, đó là hành là
sanh là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát tu Bát-Nhã ba la
mật sẽ được Nhứt thiết chủng trí chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Chẳng tu Bát-Nhã ba la mật
được Nhứt thiết chủng trí chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Cũng tu cũng chẳng tu được
Nhứt thiết chủng trí chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Chẳng phải tu, chẳng phải
chẳng tu được Nhứt thiết chủng trí chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu không như vậy thì làm thế
nào sẽ được Nhứt thiết chủng trí?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát được Nhứt thiết chủng
trí như như tướng.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là như như tướng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Như thiệt tế.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là như thiệt tế?
-
Này Tu Bồ Ðề! Như pháp tánh
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là như pháp tánh?
-
Này Tu Bồ Ðề! Như ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ
mạng tánh.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là ngã tánh, chúng
sanh tánh, thọ mạng tánh?
-
Này Tu Bồ Ðề! Theo ý ngươi thế nào. Pháp ngã,
chúng sanh thọ mạng có thể được chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Chẳng thể được.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu ngã, chúng sanh, thọ mạng
chẳng thể được thì sao lại nói là có ngã tánh chúng sanh
tánh thọ mạng tánh.
-
Nếu trong Bát-Nhã ba la mật chẳng nói có tất cả
pháp thì sẽ được Nhứt thiết chủng trí.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Chỉ Bát-Nhã ba la mật là chẳng
thể nói, còn Thiền ba la mật đến Ðàn na ba la mật cũng
chẳng thể nói chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Bát-Nhã ba la mật chẳng thể nói,
Ðàn ba la mật đến tất cả pháp hoặc hữu vi vô vi, hoặc Thanh
Văn pháp, Bích Chi Phật pháp, Bồ-Tát pháp, Phật pháp cũng
đều chẳng thể nói.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp chẳng thể nói,
sao lại nói là địa ngục, là ngạ quỷ, là súc sanh, là nhơn,
là thiên, là Tu Ðà Hoàn, là Tư Ðà Hàm, là A Na Hàm, là A La
Hán, là Bích Chi Phật, là Bồ-Tát, là chư Phật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Theo ý ngươi thế nào? Danh tự của
chúng sanh thiệt có thể được chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không thể được.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu chúng sanh đã là không thể
được thì làm sao lại nói là có địa ngục nhẫn đến chư Phật?
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát lúc hành
Bát-Nhã ba la mật phải nên học tất cả pháp không nói được.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát lúc hành Bát-Nhã ba
la mật phải học sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến phải
học Nhứt thiết chủng trí.
-
Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại
Bồ-Tát phải học sắc chẳng tăng chẳng giảm, nhẫn đến phải học
Nhứt thiết chủng trí chẳng tăng chẳng giảm.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là sắc bất tăng bất
giảm học, nhẫn đến thế nào là Nhứt thiết chủng trí bất tăng
bất giảm học?
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì bất sanh bất diệt nên học.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là bất sanh bất diệt
học?
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì chẳng khởi chẳng tác các hành
nghiệp, hoặc có hoặc không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào gọi là chẳng khởi
chẳng tác các hành nghiệp hoặc có hoặc không?
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì quán các pháp tự tánh không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Phải quán các pháptự tánh
không thế nào?
-
Này Tu Bồ Ðề! Phải quán sắc sắc tướng không.
Phải quán thọ, tưởng, hành, thức, tướng không. Phải quán
nhãn nhãn tướng không. Nhẫn đến phải quán ý thức giới, ý
thức giới tướng không. Phải quán nội không nội không tướng
không. Nhẫn đến phải quán vô pháp hữu pháp không vô pháp hữu
pháp không tướng không. Phải quán tứ thiền, tứ thiền tướng
không. Nhẫn đến phải quán diệt thọ tưởng định, diệt thọ
tưởng định, diệt thọ tưởng định tướng không. Phải quán tứ
niệm xứ, tứ niệm xứ tướng không. Nhẫn đến phải quán vô
thượng bồ đề, vô thượng bồ đề tướng không.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la
mật, Bồ-Tát phải quán các pháp tự tướng không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu sắc sắc tướng không, nhẫn
đến vô thượng bồ đề, vô thượng bồ đề tướng không, thì đại
Bồ-Tát sao lại phải hành Bát-Nhã ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Chẳng hành, đó gọi là hành Bát-Nhã
ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là chẳng hành mà gọi
là hành Bát-Nhã ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì Bát-Nhã ba la mật bất khả đắc
nên Bồ-Tát bất khả đắc, hành cũng bất khả đắc, vì người
hành, pháp hành, chỗ hành đều bất khả đắc vậy. Ðây gọi là
đại Bồ-Tát hành, chẳng hành ba la mật, vì tất cả các hí luận
đều bất khả đắc vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu chẳng lành là đại Bồ-Tát
hành Bát-Nhã ba la mật, thì Bồ-Tát mới phát tâm hành Bát-Nhã
ba la mật thế nào?
-
Này Tu Bồ Ðề! Từ lúc mới phát tâm trở lại,
Bồ-Tát phải học pháp không vô sở đắc.
-
Vì Bồ-Tát này dùng pháp vô sở đắc mà bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ nhẫn đến dùng
pháp vô sở đắc tu Nhứt thiết chủng trí..
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào gọi là hữu sở đắc? Thế
nào gọi là vô sở đắc?
-
Này Tu Bồ Ðề! Những pháp có hai là có sở đắc.
Không có hai là không sở đắc.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là hai là có sở đắc,
những gì không hai là không sở đắc?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nhãn và sắc là hai, ý và pháp là
hai, nhẫn đến vô thượng bồ đề và Phật là hai. Ðó gọi là hai.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Từ trong hữu sở đắc mà không
sở đắc, hay là từ tong vô sở đắc mà không sở đắc?
-
Này Tu Bồ Ðề! Chẳng từ trong hữu sở đắc mà không
sở đắc, chẳng từ trong vô sở đắc mà không sở đắc.
-
Này Tu Bồ Ðề! Hữu sở đắc và vô sở đắc bình đẳng,
đây gọi là không sở đắc.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát ở trong pháp
hữu sở đắc và vô sở đắc bình đẳng cần phải học.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát học Bát-Nhã ba la mật
như vậy thì gọi là người vô sở đắc, người không lầm lỗi.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba
la mật mà chẳng hành hữu sở đắc chẳng hành vô sở đắc thì tại
sao từ một bực lên một bực đến được Nhứt thiết chủng trí?
-
Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại
Bồ-Tát chẳng ở trong hữu sở đắc để từ một bực lên một bực.
-
Tại sao vậy? Vì trong hữu sở đắc thì khôn gthể
từ một bực lên được một bực.
-
Tại sao vậy? Này Tu Bồ-Ðề! Vô sở đắc là tướng
của Bát-Nhã ba la mật, vô sở đắc là tướng của vô thượng bồ
đề, vô sở đắc cũng là tướng của người hành Bát-Nhã ba la
mật.
-
Ðại Bồ-Tát phải hành Bát-Nhã ba la mật như vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu Bát-Nhã ba la mật bất khả
đắc, vô thượng bồ đề bất khả đắc, người hành Bát-Nhã ba la
mật bất khả đắc, thì làm sao chư đại Bồ-Tát phân biệt các
pháp tướng: là sắc, là thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến là
vô thượng bồ đề?
-
Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại
Bồ-Tát chẳng thấy có sắc, nhẫn đến chẳng thấy có vô thượng
bồ đề.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu lúc hành Bát-Nhã ba la
mật, đại Bồ-Tát chẳng thấy có sắc, nhẫn đến chẳng thấy có vô
thượng bồ đề, làm sao đầy đủ được sáu ba la mật vào trong
Bồ-Tát vị. Vào xong, tịnh Phật quốc độ thành tựu chúng sanh
được Nhứt thiết chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng trí xong,
chuyển pháp luân làm Phật sự độ chúng sanh thoát tử.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát chẳng vì sắc mà hành
Bát-Nhã ba la mật, nhẫn đến chẳng vì vô thượng bồ đề mà hành
Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát vì sự gì mà hành
Bát-Nhã ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì không chỗ làlm mà đại Bồ-Tát
hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Tại sao vậy? Vì tất cả pháp không chỗ làm, không
chỗ tác, Bát-Nhã ba la mật cũng không chỗ làm không chỗ tác,
vô thượng bồ đề cũng không chỗ làm không chỗ tác, đại Bồ-Tát
cũng không chỗ làm không chỗ tác.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải hành
Bát-Nhã ba la mật không chỗ làm không chỗ tác.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu các pháp không chỗ làm
không chỗ tác thì chẳng nên phân biệt có ba thừa: Thanh Văn
thừa, Bích chi Phật thừa, Phật thừa?
-
Này Tu Bồ Ðề! Trong các pháp không chỗ làm không
chỗ tác thì không có phân biệt. Trong có chỗ làm có chỗ tác
thì có phân biệt.
-
Tại sao vậy? Vì phàm phu ngu nhơn chẳng nghe
thánh pháp chấp trước năm ấm: sắc,, thọ, tưởng, hành, và
thức. Họ chấp trước đàn ba la mật đến vô thượng bồ đề. Ngu
nhơn này quan niệm có sắc và được sắc đó, nhẫn đến có vô
thượng bồ đề và được vô thượng bồ đề đó.
-
Bồ-Tát nghĩ rằng tôi sẽ được vô thượng bồ đề,
tôi sẽ độ chúng sanh thoát sanh tử.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ta dùng ngũ nhãn quan sát còn
chẳng thấy có sắc nhẫn đến vô thượng bồ đề, huống là ngu
nhơn không có con mắt mà muốn được vô thượng bồ đề để độ
chúng sanh thoát tử.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đức Phật dùng ngũ nhãn
quan sát chẳng thấy kẻ được độ trong những chúng sanh bị
sanh tử, tại sao ngày nay đức Thế-Tôn được vô thượng bồ đề,
phân biệt chúng sanh có ba tụ: chánh định, tà định và bất
định.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ta được vô thượng bồ đề, vốn
chẳng thấy có chúng sanh ba tụ: chánh định, tà định, bất
định.
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì chúng sanh ở nơi không pháp mà
tưởng có pháp. Ðể trừ sự hư vọng chấp trước pháp thế tục của
họ nên ta nói có được, chớ chẳng phải là đệ nhứt nghĩa.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Chẳng phải ở nơi đệ nhứt nghĩa
mà được vô thượng bồ đề ư?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ở nơi điên đảo mà được vô
thượng bồ đề ư?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu chẳng ở nơi đệ nhứt nghĩa
được vô thượng bồ đề cũng chẳng ở nơi điên đảo được vô
thượng bồ đề; phải chăng là không có Thế-Tôn được vô thượng
bồ đề?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không phải như vậy. Ta thiệt được
vô thượng bồ đề không trụ nơi tướng hữu vi nơi tướng vô vi.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như hóa nhơn của Phật biến hóa ra
đó, chẳng trụ nơi tướng hữu vi vô vi, mà hóa nhơn cũng có
đến đi ngồi đứng.
-
Này Tu Bồ Ðề! Hóa nhơn đó hoặc hành sáu ba la
mật, hành tứ thiền, tứ vô lượng tâm, hành vô sắc định, ngũ
thần thông, hành tứ niệm xứ đếnbát thánh đạo, nhập không tam
muội, vô tướng tam muội, vô tác tam muội, hành nội không
nhẫn đến vô pháp hữu pháp không, hành bát bội xả, cửu thứ đệ
định, hành mười trí lực, bốn vô úy, bốn vô ngại, đại từ đại
bi, được vô thượng bồ đề, chuyển pháp luân. Hóa nhơn đó biến
hóa vô lượng chúng sanh có ba tụ.
-
Này Tu Bồ Ðề! Theo ý ngươi nghĩ thế nào? Hóa
nhơn đó có hành Ðàn na ba la mật nhẫn đến có ba tụ chúng
sanh chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðức Phật cũng như vậy. Ðức Phật
biết các pháp như hóa. Như hóa nhơn độ chúng sanh. Không có
chúng sanh thiệt để độ.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã
ba la mật, hành như hóa nhơn hành như vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp đều như hóa,
thì Phật cũng hoá nhơn có gì khác?
-
Này Tu Bồ Ðề! Phật cùng hóa nhơn không khác. Tại
sao? Vì Phật hay làm sự việc; hóa nhơn cũng hay làm sự việc.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu không Phật, riêng hóa nhơn
hay làm sự việc chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Riêng hóa nhơn hay làm sự việc.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tại sao không Phật, hóa nhơn
lại hay làm sự việc?
-
Này Tu Bồ Ðề! Như thuở quá khứ có Phật hiệu Tu
Phiến Ða, vì muốn độ hàng Bồ-Tát mà hiện hóa Phật, rồi tự
diệt độ. Hóa Phật đó trụ thế nửa kiếp làm Phật sự, thọ ký
cho chư Bồ-Tát xong rối diệt độ. Tất cả chúng sanh thế gian
đều cho là Phật thiệt diệt độ. Nhưng này Tu Bồ Ðề! Hóa nhơn
thiệt không sanh không diệt.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la
mật, phải tin và biết rằng tất cả pháp như hóa.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đức Phật cũng hóa nhơn do
đức Phật biến hóa ra đó không sai khác nhau, thì làm sao
khiến người bố thí thanh tịnh?
-
Như có người cúng dường đức Phật. Người này nhẫn
đến lúc vô dư Niết-Bàn được phước đức chẳng cùng tận.
-
Nếu có người cúng dường hóa Phật, cũng được
phước đức chẳng cùng tận như vậy chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðức Phật dùng thiệt tướng của các
pháp mà làm phước điền cho Trời, người và tất cả chúng sanh.
Hóa Phật cũng dùng thiệt tướng của các pháp mà làm phước
điền cho Trời, người và tất cả chúng sanh.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðể Hóa Phật và gieo phước đức đức
chỗ hóa Phật đó lại, nếu có thiện nam thiện nữ thành tâm
cung kính niệm Phật. Nhơn duyên căn lành này mãi đến giải
thoát, phước đức của thiện nam thiện nữ ấy vẫn chẳng cùng
tận.
-
Ðể sự thành tâm cung kính niệm Phật đó lại, nếu
có thiện nam thiện nữ đem một bông hoa rải trên hư không mà
niệm Phật, người này mãi đến lúc giải thoát, phước đức đó
chẳng cùng tận.
-
Ðể sự thành tâm cung kính niệm Phật và rải hoa
niệm Phật đó lại, nếu có người chỉ một lần xưng niệm Nam Mô
Phật, người này mãi đến lúc giải thoát, phước đức ấy vẫn
chẳng cùng tận.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Gieo căn lành trong phước
điền Phật, được phước vô lượng.
-
Vì thế nên biết rằng đức Phật cùng hóa Phật
không sai khác. Vì pháp tướng của các pháp không sai khác
vậy.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải hành Bát-Nhã ba la
mật, nhập trong thiệt tướng các pháp như vậy. Thiệt tướng
các pháp đó chẳng hư hoại, đó gọi là tướng Bát-Nhã ba la mật
nhẫn đến là tướng vô thượng bồ đề chẳng hư hoại.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu thiệt tướng của các pháp
chẳng hư hoại, tại sao đức Phật lại hoại, các pháp tướng mà
dạy rằng đây là sắc, là thọ, tưởng, hành và thức, là nội
pháp, là ngoại pháp, là thiện pháp, là bất thiện pháp, là
hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu
tánh pháp, là vô tánh pháp, là hữu vi pháp, là vi pháp, là
vô vi pháp v.v....
-
Bạch đức Thế-Tôn! Chừng không hoại các pháp
chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không. Vì dùng tướng danh tự để
chỉ bày các pháp muốn cho chúng sanh được hiểu. Ðức Phật
chẳng hoại pháp tướng các pháp.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu vì dùng tướng danh t ự để
chúng sanh được hiểu mà nói pháp.
-
Nếu các pháp không danh không tướng thì làm sao
dùng danh tướng hiển bày muốn chúng sanh được hiểu?
-
Này Tu Bồ Ðề! Theo pháp thế tục có danh tướng
chứ thiệt thì không chỗ chấp trước.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như người phàm nghe nói khổ liền
chấp danh lấy tướng. Còn chư Phật và các thánh đệ tử thì
chẳng chấp danh lấy tướng.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu danh chấp danh, tướng chấp
tướng thì lẽ ra hư không cũng chấp hư không, vô tướng cũng
chấp vô tướng, vô tác cũng chấp vô tác, thiệt tế cũng chấp
thiệt tế, pháp tánh cũng chấp pháp tánh, vô vi tánh cũng
chấp vô vi tánh.
-
Này Tu Bồ Ðề! Tất cả pháp đó chỉ có danh tướng,
pháp đó chẳng ở trong danh tướng.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát chỉ ở trong
danh tướng phải hành Bát-Nhã ba la mật, trong danh tướng đó
cũng chẳng nên chấp.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp hữu vi chỉ có
danh tướng, thì đại Bồ-Tát vì ai mà phát tâm vô thượng bồ đề
thọ nhiều sự cần khổ? Lúc Bồ-Tát hành đạo, Bồ-Tát bố thí,
trì giới, hành nhẫn nhục, siêng tinh tấn, nhập thiền định,
tu trí huệ, hành tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định,
tứ niệm xứ đến bát thánh đạo, hành không, vô tướng vô tác,
hành mười trí lực đến đại từ đại bi?
-
Này Tu Bồ Ðề! Như lời Tu Bồ Ðề vừa nói nếu tất
cả pháp hữu vi chỉ có danh tướng thì đại Bồ-Tát vì ai mà
hành Bồ-Tát đạo?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu hữu vi pháp chỉ có danh tướng,
bằng đồng danh tướng đó, danh tướng cũng không. Vì thế nên
đại Bồ-Tát hành Bồ-Tát đạo được Nhứt thiết chủng trí,
chuyển pháp luân dùng pháp ba thừa độ thoát chúng sanh.
-
Danh tướng đó cũng không sanh không diệt không
trụ không dị.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðức Thế-Tôn nói Nhứt thiết
chủng trí?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ta nói Nhứt thiết chủng trí.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðức Phật nói Nhứt thiết chủng
trí, nói đạo chủng trí, nói Nhứt thiết chủng trí. Ba trí đó
khác nhau thế nào?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nhứt thiết trí là trí của tất cả
Thanh Văn và Bích Chi Phật, đạo chủng trí là trí của đại
Bồ-Tát, Nhứt thiết chủng trí là trí của chư Phật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Duyên cớ gì mà Nhứt thiết trí
là trí của Thanh Văn và Bích Chi Phật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Danh từ Nhứt thiết là nói pháp nội
pháp ngoại, là pháp mà hàng Thanh Văn,, Bích Chi Phật biết
được mà chẳng dùng được Nhứt thiết đạo và Nhứt thiết chủng
trí.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Duyên cớ gì đạo chủng trí là
trí của chư đại Bồ-Tát?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nhứt thiết đạo: hoặc Thanh Văn
đạo, Bích Chi Phật đạo, Bồ-Tát đạo, đại Bô-Tát phải biết đầy
đủ. Cũng phải dùng đạo này độ chúng sanh, cũng chẳng làm
thiệt tế để chứng. Tại sao vậy? Bạch đức Thế-Tôn!
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát này chưa tịnh Phật độ, chưa
thành tựu chúng sanh, lúc này chẳng nên chứng lấy thiệt tế.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Bồ-Tát trụ trong đạo nên chứng
thiệt tế chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Trụ trong phi đạo có nên chứng
thiệt tế chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Trụ trong đạo và phi đạo có
nên chứng thiệt tế chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Trụ trong chẳng phải đạo
chẳng phải phi đạo có nên chứng thiệt tế chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát trụ chỗ nào nên
chứng thiệt tế?
-
Này Tu Bồ Ðề! Theo ý ngươi thế nào? Người trụ
trong đạo, vì chẳng thọ các pháp nên được lậu tận tâm được
giải thoát phải chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ Ðề! Người trụ phi đạo mà lậu tận tâm
được giải thoát chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không
-
Này Tu Bồ Ðề! Người trụ trong đạo và phi đạo mà
lậu tận tâm giải thoát chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ Ðề! Người trụ trong chẳng phải đạo
chẳng phải phi đạo mà lậu tận tâm giải thoát chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không. Tôi không chỗ trụ,
chẳng thọ các pháp, lậu tận tâm được giải thoát vậy.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát cũng như vậy, không chỗ
trụ chứng thiệt tế.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là tướng Nhứt thiết
chủng trí?
-
Này Tu Bồ-Ðề! Vì tướng duy nhứt mà gọi là Nhứt
thiết chủng trí, đó là tất cả pháp tịch diệt tướng.
-
Lại những hành loại, tướng mạo, danh tự hiển
bày ngôn thuyết đức Phật đều biết đúng như thiệt, vì thế
nên gọi là Nhứt thiết chủng trí.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nhứt thiết trí, đạo chủng trí
và Nhứt thiết chủng trí, ba trí đó kiết sử đoạn có hết hẳng
và còn thừa sai khác chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Phiền não đoạn không sai khác. Tập
khí phiền não, chư Phật đều đoạn hẳn tất cả, Thanh Văn và
Bích Chi Phật chẳng đoạn hết hẳn.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Những người đó chẳng được pháp
vô vi có đoạn được phiền não chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Trong pháp vô vi có được sai
khác chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu trong pháp vô vi không thể
được sai khác, cớ sao nói người này phiền não tập khí đoạn
hẳn, người này chẳng đoạn hẳn?
-
Này Tu Bồ-Ðề! Tập khí chẳng phải phiền não.
Người Thanh Văn, Bích Chi Phật đó, thân và khẩu có những
tướng dạng tương tự dâm dục, sân khuể và ngu si mà kẻ phàm
phu vì đó mắc phải tội, đó là tập khí của tam độc vậy. Chư
Phật không có như vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đạo không pháp, Niết Bàn
cũng không pháp, tại sao lại phân biệt nói là Tu Ðà Hoàn,
là Tư Ðà Hàm, là A Na Hàm, là A La Hán, là Bích Chi Phật,
là Bồ-Tát, là Phật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðó đều do vô vi pháp mà có phân
biệt sai khác như vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thiệt vì do pháp vô vi mà phân
biệt có Tu Ðà Hoàn đến Phật chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Do thế gian ngôn thuyết mà có sai
biệt như vậy chớ chẳng phải là đệ nhứt nghĩa. Trong đệ nhứt
nghĩa không có phân biệt ngôn thuyết. Tại sao? Vì trong đệ
nhứt nghĩa không có ngôn thuyết. Vì kiết sử đoạn dứt mà nói
hậu tế.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Trong các pháp tự tướng
không,, tiền tế còn bất khả đắc, huống là nói có hậu tế.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Trong các pháp tự
tướng không còn chẳng có tiền tế, huống là có hậu tế.
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì chúng snah chẳng biết các
pháptự tướng không nên nói là tiền tế, nói là hậu tế. Trong
các pháp tự tướng không, tiền tế hậu tế đều bất khả đắc.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải ở trong
các pháp tự tướng không mà hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Nếu đại Bồ-Tát hành pháp tự tướng không, thì
không chỗ chấp, hoặc nội pháp hoặc ngoại pháp, hoặc hữu vi
pháp, hoặc vô vi pháp, hoặc pháp Thanh Văn, pháp Bích Chi
Phật, hoặc Phật pháp.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thường nói Bát-Nhã ba la mật.
Do nghĩa gì mà Bát-Nhã ba la mật gọi là Bát-Nhã ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðược đệ nhứt nghĩa độ tất cả pháp
đến bờ kia, do nghĩa trên đây mà gọi Bát-Nhã ba la mật.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Chư Phật, Bồ-Tát, Bích Chi
Phật và A La Hán dùng Bát-Nhã ba la mật này để đến bờ kia,
do nghĩa này mà gọi Bát-Nhã ba la mật.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Phân biệt tính lường phá hoại
tất cả pháp đến vi trần, trong đó chẳng được cứng chắc, do
nghĩa này mà gọi Bát-Nhã ba la mật.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Các pháp như pháp tánh và
thiệt tế đều vào trong Bát-Nhã ba la mật, do nghĩa này mà
gọi Bát-Nhã ba la mật.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bát-Nhã ba la mật này không có
pháp hoặc hiệp, hoặc tan, hoặc có sắc, hoặc không sắc, hoặc
thấy được, hoặcc hẳng thấy đươc, hoặc có đối, hoặc không
đối, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi hoặc vô vi. Tại
sao? Vì Bát-Nhã ba la mật này không sắc không hình không
đối,, một tướng duy nhứt đó là vô tướng.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bát-Nhã ba la mật này hay sanh
tất cả pháp, tất cả biện tài, tất cả chiếu minh.
-
Này Tu Bồ Ðề! Bát-Nhã ba la mật này, tất cả ma
hoặc thiên ma, hoặc người cầu Thanh Văn, Bích Chi Phật, cùng
các ngoại đạo phạm chí kẻ óan thù người ác chẳng phá hoại
được Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Tại sao? Vì những hạng người đó ở trong Bát-Nhã
ba la mật đều bất khả đắc.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải hành đúng nghĩa
Bát-Nhã ba la mật như vậy.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát muốn hành nghĩa
Bát-Nhã ba la mật, phải hành nghĩa vô thường, nghĩa khổ,
nghĩa không, nghĩa vô ngã. Cũng phải hành nghĩa khổ trí,
nghĩa tập trí, nghĩa diệt trí, nghĩa đạo trí, nghĩa pháp
trí, nghĩa tỉ trí, nghĩa thế trí, nghĩa tha tâm trí, nghĩa
tận trí, nghĩa vô sanh trí, nghĩa như thiệt trí.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát vì nghĩa
Bát-Nhã ba la mật mà phải hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Trong Bát-Nhã ba la mật sâu xa
này, nghĩa cùng phi nghĩa đều bất khả đắc, tại sao đại
Bồ-Tát lại vì nghĩa Bát-Nhã ba la mật sâu xa mà phải hành
Bát-Nhã ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát vì nghĩa Bát-Nhã ba la
mật sâu xa nên nghĩ rằng: tham dục là phi, nghĩa như vậy
chẳng nên hành, sân khuể và ngu si là phi nghĩa, nghĩa như
vậy chẳng nên hành, tất cả tà kiến là phi nghĩa, nghĩa như
vậy chẳng nên hành. Tại sao? Vì tướng của ba độc không có
nghĩa không có phi nghĩa, tướng như của tất cả tà kiến không
có nghĩa không có phi nghĩa.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải nghĩ rằng: sắc
chẳng phải nghĩa, chẳng phải phi nghĩa, nhẫn đến thức chẳng
phải nghĩa chẳng phải phi nghĩa, đàn na ba la mật nhẫn đến
vô thượng bồ đề chẳng phải nghĩa chẳng phải phi nghĩa.
-
Tại sao vậy? Này Tu Bồ Ðề! Ðức Phật lúc được vô
thượng bồ đề không có pháp để được, hoặc nghĩa hoặc phi
nghĩa.
-
Này Tu Bồ Ðề! Có Phật hay không Phật, có pháp,
pháp tướng thường trụ, không có nghĩa, không có nghĩa, không
có phi nghĩa.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã
ba la mật phải rời nghĩa và phi nghĩa.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tại sao Bát-Nhã ba la mật
chẳng phải nghĩa, chẳng phải phi nghĩa?
-
Này Tu Bồ Ðề! Tất cả pháp hữu vi không tướng vi
tác, vì lẽ đó mà Bát-Nhã ba la mật chẳng phải nghĩa chẳng
phải phi nghĩa.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tất cả Thánh Hiền như Phật và
đệ tử Phật đều lấy vô vi làm nghĩa, tại sao đức Phật nói
Bát-Nhã ba la mật không có nghĩa và phi nghĩa?
-
Này Tu Bồ Ðề! Dầu tất cả Thánh Hiềnđều lấy vô vi
làm nghĩa, cũng chẳng vì thế mà tăng, cũng chẳng vì thế mà
tổn.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ví như hư không như, chẳng hay
lợi ích cho chúng sanh, cũng chẳng làm tổn hại chúng sanh.
Cũng vậy, Bát-Nhã ba la mật của Bồ-Tát cũng không tăng không
tổn.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát chẳng học vô vi
Bát-Nhã ba la mật được Nhứt thiết chủng trí chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát học vô vi Bát-Nhã ba la
mật này sẽ được Nhứt thiết chủng trí, vì chẳng lấy hai pháp
vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Chẳng hai pháp có thể được
chẳng hai pháp chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Hai pháp có thể được chẳng
hai pháp chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát không lấy hai pháp,
không lấy chẳng hai pháp thì làm sao sẽ được Nhứt thiết
chủng trí?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không chỗ được tức là được. Bỡi
được này là không chỗ được.
-
|