|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
LỜI VÀNG
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Trí Nghiêm
Tác Giả: Dương Tú Hạc
- --o0o--
PHẦN III – NHƠN QUẢ
CHƯƠNG II
CHÚNG SANH
- A
– VÔ THƯỜNG
- Đức Phật dạy: Phật xuất
hiện quí như hoa Đàm, gặp Phật sanh lòng tin là rất khó; Phật lâm Niết bàn,
cúng dường đầy đủ pháp bố thí lại càng khó hơn. Bài kệ rằng:
- Tất cả các thế gian, vật
sống đều phải chết, thọ mạng tuy rất nhiều, rốt cuộc quyết phải hết. Lúc thịnh
dần đến suy, hội hợp quyết biệt ly, hoa niên được bao lâu, thinh sắc bị bệnh
cướp. Các khổ chạy vòng tròn, trôi lăn không chút nghỉ, ba cõi đều vô thường.
Các cõi đâu có vui!
- Kinh Niết Bàn
-
- Ba cõi không yên, in như
nhà lửa, các khổ đây nhẫy rất là đáng sợ.
- Kinh Pháp Hoa
-
- Ba cõi đều là khổ, thì quốc
độ nương nhờ đâu mà còn.
- Kinh Nhơn Vương
-
- Có năm vị Quốc Vương, quốc
gia gần nhau việc bang giao qua lại rất là thân mật, chẳng hề gây hấn với
nhau.
- Vị quốc vương đàn anh tên
là Phổ An. Việc trị nước của vua Phổ An rất là minh chánh, mà bốn vị kia lại
theo tà đạo.
- Có một hôm, năm vị mở một
yến hội bảy ngày, ca hát, đàn nhạc đủ thứ vui thú dục lạc. Khi mãn hội, ai sắp
về nước nấy. Bấy giờ vua Phổ An đích thân tiễn chân bốn vị kia ra trước hoàng
môn và hỏi rằng: "các bạn ưa thích những lạc thú gì, nói cho ta nghe thử?" Các
vua tuần tự trình bày:
- Vua thứ nhứt đáp: Tôi thích
mùa xuân ba tháng, cỏ hoa tươi thắm, đạo mà thưởng thức, thích thú biết bao.
- Vua thứ hai đáp: Tôi thích
được làm vua lâu dài, mỗi khi lâm triều, mặc triều phục cho oai, ngư giữa điện
rồng lầu các; bá quan thần đân hầu hạ hai bên; tiếng chuông trống ngân rền, cờ
xí đôi hàng rực rỡ.
- Vua thứ ba đáp: Tôi thích
vợ đẹp vô song, con xinh như ngọc, cùng nhau mà hưởng cảnh vui thú sang giàu.
- Ông vua thứ tư đáp: Tôi
muốn cha mệ tôi được trường thọ bách niên, vợ con sum họp, anh em đông nhiều;
mặc những áo đẹp, ăn những vật ngon, và cùng nhau chung hưởng vui đời cho
khoái.
- Đoạn bốn vua đồng thanh bảo
lại: "Chúng tôi đã trình bày xong, thì Đại Vương cũng nên tỏ sở thích của mình
cho anh em tôi nghe với chớ?" Phổ An thong thả góp: Những sở thích mà các bạn
vừa trình bày đều chẳng phải thú vui vĩnh viễn. Riêng tôi, tôi chỉ thích cái
vui: chẳng sanh, chẳng tử, chẳng khổ, chẳng não, chẳng lạnh, chẳng nóng.
- Bốn vua kia lấy làm quái lạ
đồng thanh khen và hỏi dồn: Hay quá. Vậy chớ ai dạy những điều ấy cho Đại
vương và vị ấy hiện ở đâu?
- Phổ An đáp: Đức Thế Tôn: Hiện giờ Ngài đang
ngự tại Tịnh xá Kỳ Viên.
- Bốn vua kia nói: Vậy chúng
tôi có thể yết kiến Ngài được không?
- Phổ An đáp: Được chớ, quí
lắm đấy. Thế là năm nhà vua đồng đi đến Tịnh xá Kỳ Viên để ra mắt đức Phật.
- Sau hồi năm vua hành lễ và
thưa thính xong, lui về chỗ ngồi an tọa, đức Phật mới bắt đầu thuyết:
- Này các Đại Vương lắng
nghe! Vì người đời ngu ám không có chánh trí nên nhiều kẻ say mê vui đời mà
chẳng hề biết tội phước là gì cả, cho nên bị khổ. Những khổ của đời quá nhiều,
mà gọn lại chỉ còn 8 thứ: 1. Sanh, 2. Già, 3. Đau, 4. Chết, 5. Tình yêu ly
biệt, 6. Cầu mong chẳng đặng, 7. Gặp kẻ oán ghét, 8. Rầu lo khổ não:
- Những khổ về sanh: người
chết rồi thần thức chẳng biết đi về hướng nào. Sống cái thân trung ấm với thời
gian 21 ngày, gặp khi cha mẹ giao cấu liền chạy vào thai; bảy ngày ban đầu
hình trạng như chất bơ lỏng; bảy ngày thứ hai như bơ đông đặc; bảy ngày thứ ba
như bơ đông cứng; bảy ngày thứ tư như lát thịt mỏng. Đến bảy ngày thứ năm mới
bắt đầu thành bào thai; như gió vào trong bụng mẹ mà thổi nơi thân thể, thời
sáu căn mới mở khai. Nếu mẹ ăn phải một bát đồ ăn nóng, thì bào thai như bị
nằm trong chảo nước sôi, hoặc uống phải một ly nước lạnh thì như nằm trong hàn
băng, và lấn ép thân thể của mẹ, mẹ rất đau khổ. Đầy đủ tháng ngày, đứa con
mới quay đầu xuống nơi sản môn của mẹ, như hai viên đá ép, mạng mẹ nguy hiểm,
lòng cha lo sợ. Ra khỏi cửa mẹ, da thân mỏng tăng, bị phải lá cỏ đụng vào
thân, như bị dao cắt hoảng hốt mà thất thanh khóc lớn.
- Những khổ về gìa: chịu nhờ
ơn nuôi nấng của cha mẹ, lớn to mạnh mẽ, nhưng lần lữa đã già đầu bạc, răng
rụng, mắt mờ, tai điếc, và sức mạnh lui dần nhường cho suy yếu thay thế. Da
dùn mặt nhăn, trăm đốt xương đau nhức, bước đi cực khổ, ngồi đứng rên hừ hừ,
lòng dạ lo buồn và tinh thần dần dần tiêu giảm.
- Những khổ về đau: Thân
người do bốn đại là: đất, nước, gió, và lửa hiệp lại mà thành. Nếu một món
chẳng điều hòa, thời phát sanh 101 bịnh, mà bốn đại đều không điều hòa thì 404
bịnh sanh khởi. Như địa đại chẳng điều hòa thì thân thể nặng nề; thủy đại
chẳng điều hòa, thân thể phù thủng; hỏa đại chẳng điều hòa, thân thể nóng nảy;
phong đại chẳng điều hòa, thân thể động chuyển. Cảm giác trăm đốt đau khổ: nên
tay chân chẳng cử động theo ý muốn, khí lực mòn dần, ngồi mà đứng dậy phải nhờ
người phò trợ. Miệng khô lưỡi thụt, mũi nghẹt; mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe,
những đồ nhơ nhớp tuôn trào, rồi ngồi nằm trên ấy! Tâm thần khổ não giọng nói
bi ai, buồn thảm. Bà con đến thăm nuôi ngày đêm chăm sóc chẳng chút nghỉ ngơi;
món ngon vật quí ngọt thơm, khi đưa vào miệng đều biến thành vị đắng.
- Những khổ về chết: Thân người đến lúc sắp
chết, thời 404 bịnh nhứt tề phát khởi, bốn đại phân tán thần thức chẳng an,
gió thổi tới như dao cắt, đau nhức toàn thân; toát mồ hôi trắng, hai tay buông
xuôi. Phong đại tản đi là hết hơi thở; Hỏa đại đi theo là tấm thân lạnh ngắt
như đồng!
- Những khổ về tình yêu ly
biệt: Trong ngoài gia đình: cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cháu giòng họ yêu
mến lẫn nhau; một khi bị phá hoại lưu vong, mỗi người mỗi ngã: cha đông con
tây, vợ nam chồng bắc, hoặc làm tôi tớ cho người, tuyệt vọng những ngày đoàn
tụ!
- Những khổ về cầu mong chẳng
đặng: Của mất lại cầu. Muốn quí cầu quan, muốn sang cầu giàu, khổ cực tìm cầu
đủ cách. Phỏng như cầu được quan sang rô? cũng bị mất vì lòng tham của dân
cướp lấy, lại mong cầu nữa mà nào dễ được đâu!
- Những khổ về gặp kẻ oán ghét: Con người ở
trong cảnh ái dục, một việc chút xíu, cũng vẫn tranh giành, rồi do đó mà giết
hại lẫn nhau, gây thành oan lớn; tuy cố tình lánh mặt nhưng không nơi tránh
thoát, chỉ còn nước mạnh ai nấy mài dao, chuốt tên, giương cung, nắm gậy gặp
nhau giữa đường hai bên xáp lại, dao gậy đối địch, cuối cùng tất nhiên đôi bên
đều bị tổn hại, chẳng ai hơn gì.
- Những khổ về lo rầu khổ
não: Người sanh ra đời, có sống lâu lắm cũng chừng trăm năm là cùng; lắm kẻ
mới vào lòng mẹ vừa bị trụt thai. Nay cứ người sống đủ trăm tuổi mà luận: hết
50 năm thuộc về ban đêm, 5 năm say rượu, hoặc tật bệnh là những năm bất trí
nhơn sự; 15 năm thơ ấu chẳng biết việc gì. Và qua 80 tuổi thời già ngu hết trí
huệ: tai điếc mắt mù không còn biết lễ độ phép tắc gì nữa. Và giảm kiếp 20 năm
nữa, cho nên chỉ còn 10 năm mà thôi.
- Trong khoảng 10 năm ấy, chỉ
có lo rầu là chiếm hết phần nhiều: lo rầu thời cuộc biến loạn; lo rầu thiên
thời nắng hạn, lụt bão, mưa đá, mùa màng hư mất; bà con nội ngoại đau ốm nghèo
khổ. Lại còn những nỗi này nữa: lo sợ của cải mất mát, người nhà và giòng họ
bị bắt giam vào ngục, chẳng biết ngày nào ra khỏi, anh em vợ con đi xa... Như
vậy người sống ở cõi nhơn gian chỉ có lo buồn mà phải bị già chết!
- Kinh Pháp Cú Thí Dụ
-
- Vua chết nuốt chúng sanh,
suy già uống tuổi trẻ, bệnh đến mạnh khỏe tiêu, người thế gian không biết.
- Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ
-
- Tại thành Xá Vệ có ông
trưởng giả giàu có vô song, nhưng nhà chưa có con trai. Ông lo sau khi ông qua
đời của bị quan thu theo quốc pháp, nên mới phát tâm quy y Tam Bảo, thành tâm
tinh tấn khẩn nguyện cầu tự. Quả nhiên toại nguyện; bà phu nhơn mang thai,
sanh hạ một con trai tướng mạo tuấn tú, tuổi vừa khôn lớn sớm lo cưới vợ.
- Đôi bạn tân hôn yêu quí dắt
nhau dạo rừng du ngoạn thưởng vui. Trong rừng có cây vô ưu trên cánh hoa nở
từng đóa, phô bày cành nhụy màu sắc trắng hồng rất đẹp. Nàng thích quá tỏ ý
với chồng muốn được thứ hoa quí ấy. Chàng liền trèo lên cây để hái hoa thì
không may nhánh cây tức thì bị gãy vì dòn yếu, anh sa xuống chết ngay.
- Cha mẹ hay tin, tức tốc
chạy đến ôm lấy xác con mà khóc ngất đi hồi lâu mới tỉnh lại; rồi than khóc
liên miên tổn thương tinh thần; tình cảm như thế, ai hay mà chẳng thương lòng!
- Bấy giờ vừa lúc Đức Phật và
ngài A Nan vào thành khất thực, thấy việc người sa cây bị chết, Ngài bảo với
trưởng giả rằng: "người có sống, chết, vật có thành, bại; thời đến mạnh tận
không thể tránh được. Thế nên ngươi đừng buồn rầu thương khóc chi nữa." Và
Ngài tiếp: "Đứa con này từ trên trời sanh xuống nhà mgươi, rồi mạng nó tận
cũng từ nhà ngươi mà lên trời. Thế thì nó chẳng phải con trời, mà cũng chẳng
phải con ngươi. Nó cứ tùy theo nghiệp nhơn của nó mà sống chết, giống như kẻ
lữ hành qua đường; chết không thể tránh khỏi, đi không thể bắt lại được."
- Kinh Trưởng Giả Tử Áo
Não Tam Xứ
-
- Đức Phật đang ngự tại tịnh
xá Kỳ Viên, vì các đệ tử nói pháp. Khi ấy có con gái của Phạm Chí tuổi mới độ
mười lăm nhan sắc đẹp đẽ, bản tính thông minh, cha mẹ rất yêu mến; bỗng bị đau
nặng và chết luôn. In như lúa chín khô trong ruộng bị lửa đồng đốt cháy. Phạm
Chí buồn rầu đến nỗi thất ý, hoảng hốt như kẻ điên cuồng, tự không giải được.
- Ông nghe đồn có Đức Phật là
vị Đại thánh làm thầy cả trời người, nên ông đến lễ bái và thưa đức Phật rằng:
"Tôi vốn hiếm hoi ít con chỉ có chút cháu gái, nó an ủi cho gia đình tôi,
nhưng chẳng may nó bị đau và chết mất; tôi thương nhớ quá đỗi, thật chẳng biết
làm sao được, cúi xin đức Thế Tôn dũ lòng thương xót mà dạy cho tôi bớt nỗi
rầu rĩ."
- Đức Phật bảo Phạm Chí rằng:
Này Phạm Chí! Đời có 4 việc không thể vĩnh cửu được:
- Hữu thường phải vô thường
- Phú quí phải bần tiện
- Hội hiệp phải biệt ly
- Mạnh bạo quyết già chết
- Rồi Ngài tóm tắt: Thường
phải hết, cao phải thấp, hội phải ly, sống phải chết. Phạm Chí nghe xong, tâm
liền khai mở, tức thì phát nguyện xin Phật làm Tỳ kheo, tự cạo râu tóc thành
vị Tỳ kheo, chuyên tu pháp vô thường chứng A La Hán.
- Kinh Pháp Cú Thí Dụ
-
- Xưa có một bà già, chỉ có
một cậu con trai, chẳng may bị bịnh rồi chết luôn. Bà con đem thấy chôn vào
mả. Bà già thương buồn quá đỗi! Và tủi phận: Ta chỉ có một mình con để nhờ lúc
tuổi già, mà con nay bỏ mẹ chết đi sao! Rồi bà nằm luôn tại mả con tính chết
theo con bằng cách tuyệt thực đã bốn năm ngày rồi.
- Đức Phật quán biết động
lòng thương, liền đến gò mả hỏi bà già kia rằng: "Người nằm chi đây, sao buồn
thảm thế." Bà già kể lể: "Thưa Ngài, đời tôi chỉ có một chút con trai, đã lớn
khôn, nay nó bỏ tôi mà chết; tôi thương nó quá, muốn chết một chỗ với nó cho
rồi cái đời bất hạnh này." Đức Phật hỏi: "Người có muốn con ngươi sống lại
không?" "Thưa Ngài muốn lắm."
- Đức Phật nói: muốn là phải.
Ta vẽ cho ngươi làm như vậy: Ngươi đến nhà nào, từ xưa nay chẳng có người
chết, xin chút lửa nhang đem về đây Ta sẽ làm phép nó sống lại cho. Bà già
nghe lời làm theo. Đi đến đâu, hễ gặp nhà người thì liền hỏi trước: nhà của
ngươi từ trước đến nay đã có người nào chết chưa? Thì người ta đều đáp rằng:
từ trước đến nay tổ tiên tôi đã chết nhiều lớp rồi. Bà cứ như thế đi qua vài
mươi nhà mà chẳng được lửa nhang.
- Bà trở về chỗ Phật thưa:
Tôi đi đã khắp nơi mà xin không được lửa, vì không có nhà nào mà không có
người đã chết, cho nên tôi đành về không.
- Đức Phật nói: Từ ngày có
trời đất đến nay ai sống lại chẳng bị chết, sao ngươi mê muội lắm vậy. Lại còn
muốn chết theo con là nghĩa làm sao? Bà lão nghe nói mới tỉnh ngộ lý vô thường
mà liền được vào Đạo.
- Kinh Tạp Thí Dụ
-
- Người đời hèn kém, tranh
giành nhau những việc chẳng phải gấp, rồi đối với những việc kịch liệt khổ ác
này mà đem thân kinh doanh mọi việc để mưu cầu tự cấp tế cho mình. Do đó mà
không còn có kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, lớn nhỏ trai gái đua lo
tiền của; rốt cuộc kẻ có người không cùng nhau là khổ mà thôi. Qua cơn suy
nghĩ, đến việc kinh doanh, khổ nhọc lo lắng quá nhiều, sai khiến thân tâm rông
chạy không lúc nào yên: kẻ có ruộng lo ruộng, người có nhà lo nhà, trâu ngựa
lục súc, tôi tớ tiền tài, áo mặc cơm ăn vật này vật nọ, lo rồi lo nữa. Chấp
chứa nghĩ lo, buồn rầu sợ hãi những tai biến phi thường: nước lửa giặc cướp,
oan gai trái chủ: cháy, trôi, cướp đoạt tiêu tan. Lo khổ rộn ràng, không giờ
nào rảnh, bó buộc trong lòng chẳng rời lo khổ, tâm ý bền chắc không chút nới
bỏ.
- Hoặc bị mạng chết thân
tiêu, bỏ đó mà đi chứ đem gì theo được! Cao sang giàu mạnh cũng vẫn bị thứ khổ
này, lo sợ muôn bề, cần khổ như thế, kết nhiều nỗi lạnh nóng, rồi cùng với sự
đau khổ ấy mà chung ở.
- Còn hạng nghèo cùng hạ
liệt, thường bị quẫn bách thiếu thốn; kẻ không ruộng lo muốn có ruộng, người
không nhà lo muốn có nhà, không có trâu ngựa lục súc, tôi tớ tiền của, áo cơm,
vật kia vật nọ cũng đều lo muốn cho có đầy đủ; vừa được một món, lại thiếu
thêm một món, có món này thiếu món kia, rồi nghĩ lo cho có đủ. Mới vừa đủ có,
đã bị tiêu tan; như vậy lo tìm cầu lại nữa, hoặc khi chẳng đặng, thời lo nghĩ
vô ích, thân tâm đều nhọc, ngồi đứng chẳng yên, lo rầu nối tiếp, cần khổ như
thế kết nhiều nóng lạnh, ở chung với khổ, hay ngồi trên đống khổ, mà trọn đời
chẳng biết làm lành, tu đạo tiến đức. Đến khi mạng chung thân chết, một mình
đi xa, đi không chỗ đến, vì đường thiện ác nào ai biết trước!
- Kinh Vô Lượng Thọ
-
- Nước chảy luôn chẳng đầy,
lửa chứa lâu chẳng cháy, mặt trời mọc rồi lặn, trăng tròn rồi lại khuyết, kẻ
tôn vinh hào quí, tránh sao khỏi vô thường.
- Kinh Tội Nghiệp Báo Ứng
-
- Giả sử thọ mạng đủ một trăm
năm, bảy vật báu đầy đủ, hưởng các khoái lạc, thần chết nó đến khó tránh vô
thường.
- Kinh Tâm Điạ Quán
-
- Xưa có bốn anh em giòng đại
Phạm Chí đều có thần thông biết sẽ chết, cùng bàn với nhau rằng: cái chết nó
đến, người ta khó tránh; nhưng bọn ta tránh được bằng cách đi trốn.
- Rồi một bay cao lên không
trung, một vào trong biển cả, một nữa vào trong giữa núi Tu di, và ông thứ tư
chạy vào trong giữa đám rất đông người tại chợ lớn mà trốn. Nhưng đến ngày
chết thời bốn người đều chết cả. Vì lẽ tất cả là: Vô thường, khổ, không, vô
ngã. Nếu ai biết suy nghĩ đạo lý này, thời sẽ khỏi sanh lão bệnh tử, và ưu bi
khổ não mà đạt đến đạo quả Niết bàn vậy.
- Kinh Xuất Diệu
-
- Khi Đức Phật ngự tại nước
Xá Vệ, trong thành có một ông già giòng Bà la môn đã 80 tuổi, nhà giàu của cải
vô số. Nhưng thuộc hạng người nan hóa, chẳng biết gì đạo đức, chẳng biết lo
cơn vô thường mà chỉ biết lo làm nhà cho đẹp: nào là nhà trước nhà sau, nào là
lầu mát nhà ấm, nào là nhà đông nhà tây, hai hàng dài có chừng vài chục nóc.
Nhưng chỉ có cái nhà tiền đường và hậu tẩm còn cách nhau chưa liền mỗi khi đi
lên xuống thường bị mưa nắng bất tiện, nên ông đích thân ra kinh doanh và chỉ
huy cho chúng bạn làm.
- Bấy giờ đức Phật dùng đạo
nhãn xem thấy ông già này, không còn mấy hôm nữa sẽ bị tận mạng; thế mà ông có
tự biết đâu, nên cứ loay hoay nhọc sức, không ích gì cho đời sau, thật là đáng
thương!
- Đức Phật với A Nan hai thầy
trò cùng đi đến tận nhà, vui vẻ hỏi ông rằng: "Ông lão làm gì đó, có nhọc mỏi
không? Và nay còn cất nhà này nữa chi thế?"
- Ông đáp và giải thích: "Nhà
trước để tiếp khách, nhà sau để tự ở, hai dãy đông tây thì con cháu tôi tớ ở,
và để của cải. Mùa hè nóng bức thượng lên lầu cao cho mát; mùa đông lạnh lẽo,
trụt xuống nhà kín cho ấm. Ngài đã hiểu hết chưa?"
- Đức Phật bảo: "Tôi nghe
danh ông lão đã lâu, muốn gặp nhan để đàm luận cho vui, nên tôi sẵn có một bài
kệ khẩn yếu; kệ này có ích cho những lúc an lành hay bất hạnh, giờ đây muốn
tặng, ông lão nên nghỉ tay cùng ngồi, tôi đọc nghe chừng được không?" Ông đáp:
"Tôi đang bận việc lắm, nên không thể ngồi mà đàm luận được; mai mốt nếu Ngài
đến thời hay biết bao. Mà bài kệ khẩn yếu thì Ngài cứ việc đọc, tôi vừa làm
vừa nghe cũng được."
- Đức Phật phải chìu lòng đọc
kệ:
- "Có con có của, ngu lo bận
rộn,
- Ta chẳng phải ta, con của
đâu có.
- Nóng sẽ hết nóng, lạnh sẽ
hết lạnh,
- Lắm ngu lo trước, chẳng
biết tai đến.
- Ngu mờ ngu mịt, tự cho là
trí,
- Ngu mà xưng trí, ấy là rất
ngu."
- Ông già bạc phước ấy khen;
Ngài thuyết kệ hay thật nhưng nay bận quá, ngày mai Ngài đến, chúng ta sẽ cùng
bàn luận thì hơn.
- Thế là đức Phật thương hại
cho ông ta rồi đi.
- Đức Phật vừa đi không xa,
ông già tự tay đưa cây lên cho thợ làm, chẳng may bị sẩy tay cây rơi xuống
đánh vỡ đầu chết ngay tức thì! Người nhà la khóc, động cả xóm làng. Đức Phật
đi chưa bao xa, thì xảy ra ta biến này.
- Ngài đi đến một làng khác,
vừa gặp mười người Phạm Chí họ hỏi Ngài đi đâu vậy, thì Phật đáp: Ta đi đến
nhà ông già ở làng kia, với mục đích để thuyết pháp, nhưng ông không tin lời
Phật, và cũng không biết tai biến vô thường, Ta vừa đi thì ông đã chết vì cây
rơi đánh. Rồi Phật lại vì các ông Phạm Chí thuật lại ý nghĩa bài kệ mà Ngài
vừa mới đọc cho ông già nghe khi nãy. Nghe xong các Phạm Chí vui mừng hớn hở,
đều được thấy dấu vết của Đạo.
- Liền đó đức Phật thuyết một
bài kệ khác cho mấy ông nghe:
- Ngu ám gần trí, như bầu
chứa vị,
- Chứa đựng tuy lâu, mà chẳng
biết mùi.
- Sáng suốt gần trí, như lưỡi
nếm vị,
- Đưa đến chót lưỡi, liền
biết vị gì.
- Người ngu tạo tác, vì thân
chuốc họa.
- Cam lòng làm ác, tự gây tội
nặng.
- Gây điều bất thiện, khi
biết ăn năn,
- Khóc rơi nước mắt, trả báo
do nhơn.
- Các ông Phạm Chí được hân
hạnh nghe bài kệ này nữa, lòng tin càng bền vững, vui mừng làm lễ phụng hành.
- Kinh Pháp Cú Thí Dụ
-
- Giòng sanh mạng chảy không
ngừng, mau hơn nước núi chảy xuống, ngày nay tuy tồn tại, ngày mai khó bảo
đảm. Thế mà cứ buông lòng làm ác. Sức mạnh chẳng ngừng như ngựa bôn chạy, làm
sao ỷ lại mà sanh khinh mạn. Giống như ác quỷ, rình mò bắt người, bốn đại ác
quỷ, thường rình bắt ta, làm sanh khởi ác ý. Ví như nhà mục sẽ sập nay mai,
mạng ta cũng y như thế.
- Kinh Niết Bàn
-
- Biển Nam Hải, vụt nổ một
cơn sóng dữ dội kinh khủng, đẩy ba con cá lớn vào trong chỗ nước cạn. Cá cùng
bảo nhau rằng: "Chúng ta bị nguy tai đây rồi! Nhưng hiện giờ nước chưa cạn,
còn chảy ra vào, cần nên ngược dòng trở về biển cả." Nhưng không may lại vừa
có con thuyền chận ngang thủy khẩu, nên cá không thể tự do chạy ra. Con thứ
nhứt đem tận lực vượt qua khỏi thuyền, con thứ hai may nhờ đám cỏ cũng lủi qua
được. Duy con thứ ba bởi sức yếu nên bị ngư ông bắt được! Đức Phật xem thấy
việc này liền nói bài kệ rằng:
- Ngày nay đã qua mạng ta
giảm đi
- Như cá ít nước, đâu có vui
gì!
- Bởi vì cá lấy nước làm nhà
sống, mà nước hết thời chết. Người nương mạng căn mà còn, mạng giảm thời tiêu.
Mạng căn theo đêm ngày mà giảm, thân thể bởi tám khổ mà mòn; vô thường già
bệnh chẳng cho người hẹn. Kìa như cá khô nước đâu có vui gì!
- Kinh Xuất Diệu
-
- Mạng người sống in như dắt
trâu đến lò thịt: trâu đi một bước, thì một bước đến gần chỗ chết, cũng như
thế người sống qua một ngày hệt như trâu nọ từng bước một đi đến lò chết, mạng
sống chảy theo sau vậy.
- Kinh Lục Độ Tập
-
- Xưa có người hàng thịt nuôi
một ngàn con trâu, con nào cũng béo mập to lớn. Cứ mỗi ngày giết một con đem
thịt bán. Giết đã hết năm trăm con, còn lại năm trăm con; mà nó vẫn cùng nhau
húc báng, nhảy nhót, kêu rống vui giỡn.
- Bấy giờ Đức Thế Tôn vào làng thấy những con
trâu vô tình như vậy, Ngài động lòng từ, mà ngoảnh lại sau bảo với các đệ tử
rằng: Trâu này ngu si quá, bè bạn sắp phải tận mạng, mà nó vẫn cứ vui giỡn!
Người cũng như vậy chứ gì? Qua một ngày rồi, mạng người giảm dần; cho nên Đạo
độ thế chẳng khá chẳng suy nghĩ mà siêng năng cầu vậy.
- Kinh A Dục Vương Thí Dụ
-
- Đức Phật hỏi một vị Sa môn
rằng: Mạng người sống chừng bao lâu?
- Đáp: Chừng trong vài ngày. Phật nói: Ngươi
chưa biết Đạo. Ngài lại hỏi một vị khác, thời vị này đáp: Chùng trong một bữa
ăn. Ngài cũng quở nữa: Ngươi cũng chưa biết Đạo. Phật hỏi đến Vị thứ ba, Vị
này đáp: Mạng sống của con người ở trong chừng một hơi thở ra vào. Đức Phật
khen: Hay thay, người là kẻ biết Đạo vậy.
- Kinh Tứ Thập Nhị Chương
-
- Tất cả chúng sanh tham đắm
vui đời mà chẳng lo vô thường. Ví như có người ở giữa đồng nội, bị con voi
điên đuổi sợ mà chạy hoảng, thấy một giếng khô cạnh có rễ cây, người ấy nương
rễ mà vào lần xuống giếng, nhưng ở dưới giếng sẵn có con độc long rất to, nó
vừa hả miệng trông lên, bốn phía giếng lại có thêm bốn con rắn độc dữ tợn
không thể nói. Người ấy tuy chăm lòng nắm lấy rễ cây, lại còn có hai con chuột
trắng đen cắn phá rễ cây.
- Bấy giờ con voi điên đã đến
miệng giếng, người ấy hoảng sợ không còn chỗ tránh. Nhưng trên cây đứng bên
giếng có một tổ ong, cứ mỗi lát rơi xuống một giọt mật trúng ngay miệng anh,
nên anh chỉ nhớ mật mà quên hết sự nguy hiểm đang xảy ra đến cho mình; và nguy
hơn nữa lại còn chẳng muốn ra khỏi cái giếng nguy hiểm này.
- Con voi điên là dụ vô
thường của cảnh đời, giếng là dụ nhà của chúng sanh, độc long là dụ địa ngục;
bốn rắn độc là dụ cho thân bốn đại; rễ cây dụ cho mạng căn người, hai con
chuột đen trắng, dụ cho ngày và đêm. Mạng người ngày càng mòn dần mà chẳng
chút ngừng nghỉ, kẻ tu hành phải quan sát cơn vô thường để xa lìa các nỗi khổ
lụy.
- Kinh Thí Dụ
-
- Xưa có ba người tu Đạo cũng
hỏi nhau rằng: Các anh nhờ đâu mà được Đạo? Một người đáp: Khi tôi còn ở trong
nước tôi, một buổi mai tôi thấy giàn nho trái rất đẹp, quá trưa người ta đến
hái hết trái và làm cho cành là hư hao tàn tạ. Tôi nhận thấy vậy, mới giác ngộ
lẽ vô thường. Đó là duyên cớ tôi đắc Đạo.
- Người kế đáp tiếp: Khi tôi ngồi bên bìa nước,
thấy có người đàn bà đang quậy tay rửa bát, hai chiếc hoàn nơi cánh tay chạm
vào nhau, do nhơn duyên hội hợp mà phát ra thành tiếng, tôi do đó mà đắc Đạo.
- Người thứ ba đáp: Lúc tôi
đang ngồi bên hồ sen, thấy hoa sen rất đẹp, khi quá trưa có vài chục chiếc xe
đến, rồi nào là người ngựa lội xuống tắm bơi, làm hư nát tan tành bao nhiêu
những đóa hoa tuyệt hảo. Tôi mới giác ngộ các pháp vô thường là như thế. Do đó
tôi đắc Đạo.
- Kinh Tạp Thí Dụ
-
- Xưa có Vị Quốc vương, bỏ
nước không làm vua, mà làm Sa môn, vào trong núi tinh cầu tu niệm; lấy tranh
cỏ làm nhà, lấy lá cây chất đống làm giường nằm, coi bộ đắc ý lắm, nên bỗng
nhiên cười to la lớn lên rằng: khoái thay, khoái thay.
- Gần bên có kẻ Đạo nhân hỏi rằng: Ngồi một mình
tu trong núi, đâu có sướng gì mà la như thế?
- Sa môn đáp: Khi ta còn làm
vua lo sợ trăm bề; nào lo sợ các vua ở gần tới cướp nước; nào lo sợ kẻ cướp
tới lấy của cải; nào lo sợ người tham lam của công; nào lo sợ bọn hạ thần
đương triều lợi dụng của cải của ta mà làm phản; thì còn ai mà trị. Chớ như
nay ta làm một sa môn thời còn ai tham gì với ta nữa. Thật sướng chẳng thể
nói, mà chẳng nói sướng. Còn nói gì nữa.
- Kinh Tạp Thí Dụ
-
- Vua A Dục có người em ruột
tên là Thiện Dung, một hôm vào trong núi săn bắn chơi, nhận thấy các ông Phạm
Chí ở trần truồng tu khổ hạnh, mà chẳng được quả vị gì. Thiện Dung suy nghĩ:
Các Phạm Chí này ăn sương uống gió, khí lực mòn mỏi mà hãy còn dâm dục, tội
lỗi chẳng trừ, huống chi các ông Sa môn họ Thích, ăn sang mặc đẹp, ấm lạnh
theo mùa, ở nhà cao, nằm giường kỹ còn thêm hương hoa thơm tho thì làm gì vô
dục được.
- Bấy giờ vua A Dục nghe em
bàn luận như thế, ôm lòng lo lắng: Ta chỉ có một đứa em mà nó vừa sanh lòng tà
kiến e sẽ đọa đày nhiều kiếp, ta nên tìm cách trừ ác niệm cho chú nó mới xong.
- Vua liền vào cung, bảo các
kỹ nữ mỗi đứa tự trang điểm tử tế cùng đến chỗ Thiện Dung mà đàn hát cho hay.
Và vua mật bàn trước với một đại thần rằng: Trẫm có lập chút mưu, nếu khi trẫm
sắc cho người giết Thiện Dung thì ngươi liền can rằng: Xin cho qua bảy ngày
rồi sẽ giết.
- Phần các kỹ nữ tuân lệnh
vua đến chỗ Thiện Dung đàn hát chưa được bao lâu thì nhà vua giả bất ngờ đi
đến mà nộ Thiện Dung rằng: Sao ngươi cả gan dám cùng với kỹ nữ và thê thiếp
của ta chơi bời như thế này là sao? Rồi vua liền triệu tập các Đại thần mà
phán rằng: Trẫm chưa già yếu gì; cũng chẳng có giặc giã chi xâm lấn biên cảnh,
Trẫm từng nghe lời ngạn ngữ các bực cổ hiền nói rằng: Hễ người có phước bốn
biển quy phục; mà phước đức mỏng manh thì kẻ vây cánh phản loạn, nhưng nay ta
tự xét ta chưa đến nỗi thế. Vậy mà Thiện Dung em ta dám dỗ những kẻ kỹ nữ và
vợ hầu của ta mà lung chơi như thế là nghĩa làm sao?
- Ta ra lệnh các ngươi đem nó
ra ngoài chợ mà giết đi cho thiên hạ biết. Có vị Đại thần đồng can rằng: Cúi
xin Đại Vương tha lỗi cho lời nói mọn của kẻ hạ thần, xin Đại Vương hoãn cho
sau bảy ngày rồi sẽ thi hành việc ấy cũng chẳng muộn. Nhà vua giả vờ lặng lẽ
nghe theo lời can, và lại còn khoan ân bảo các Đại Thần: Đem đồ phục sức của
Trẫm mà mặc cho chú nó và dẫn chú nó vào trong cung kín của Trẫm, khiến bọn kỹ
nữ ca hát, đàn địch cho chú nó thỏa mãn một lúc rồi sẽ hay. Rồi vua còn sắc
với một Đại thần rằng: Ngươi mặc áo giáp cho oai và cầm chiếc gươm thiệt bén
và đến chỗ chú nó mà bảo rằng: Tâu Vương Tử mãn hạn bảy ngày bắt đầu từ nay
thì Vương tử phải bị giết vì theo lệnh của Hoàng Thượng đã phán quyết, vậy nên
Vương Tử nỗ lực mở tung năm căn mà hưởng năm món dục lạc cho khoái thích kẻo
uổng, bằng nay chẳng tận hưởng cho khoái để đến khi sắp chết có ăn năn cũng vô
ích.
- Qua một ngày vua sai kẻ Tôi
ấy đến bảo cho Thiện Dung biết chỉ còn sáu ngày nữa là hết hạn. Cứ tuần tự như
vậy cho đến còn một ngày là mãn hạn. Vị Đại thần ấy đến bảo: Thưa Vương Tử đã
hết sáu ngày rồi, sáng mai đây Ngài phải đến pháp trường mà chịu chết, vậy
phải ráng sức mà hưởng cho khoái kẻo uổng.
- Sáng ngày thứ bảy, vua đích
thân đến chỗ Thiện Dung giả lời hỏi: Sao? Mấy hôm qua tâm ý của Hiền đệ được
tự do hưởng khoái lạc có sung sướng không?
- Đáp: Tâu Vương huynh, thật
em chẳng thấy chẳng nghe gì cả, thì có đâu mà sung sướng. Vua lại hỏi nữa: Em
mặc đồ sức phục của anh vào ở trong cung điện của anh, và cùng với bọn kỹ nữ
của anh mà hưởng vui, và lại ăn những món ăn hảo hạng. Mà nói chẳng thấy chẳng
nghe, chẳng vui sướng gì hết; sao dám nói khi với anh như thế?
- Đáp: Người đáng chết tuy là
mạng căn chưa dứt, nhưng với người đã chết chẳng khác mấy, thì còn lòng dạ nào
mà hưởng vui sướng gì nữa.
- Nhà vua mới nói rõ dụng ý:
Theo thiển ý của anh thì Hiền đệ chỉ lo rầu cho cái thân một đời, mà hãy còn
khổ đến như thế. Khi nghe thân sắp chết, hiện đang ở trong cảnh ngũ dục mà
chẳng vui, huống chi các vị Sa Môn lo nghĩ nỗi khổ não trong ba đời: một khi
thân này chết rồi lại thụ một thân khác, cứ như thế trải qua ngàn vạn ức kiếp
nhiều thân chịu khổ, thật là cái khổ vô lượng không sao nói cùng. Vì các Ngài
nghĩ việc cay đắng này, mới xuất gia tu đạo đễ tìm phương pháp vô vi độ thế;
nếu các Ngài chẳng tinh tiến tu trì thì sẽ chịu khổ trải qua nhiều kiếp, nhiều
đời. Hiền đệ có hiểu không?
- Bấy giờ Thiện Dung Vương tử
mới sáng mắt, đến trước vua mà thưa rằng: Em nghe những lời Vương Huynh dạy
mới được tỉnh ngộ: sanh, già, đau, chết thật là đáng sợ; lo buồn khổ não trôi
lăn chẳng dừng. Cúi xin Đại Vương, cho tôi xuất gia cầu đạo cẩn thận mà tu
trì. Nhà vua hoan hỷ: Phải lắm, nhằm lúc, nhằm lúc.
- Thế là Thiện Dung từ giã
vương cung xuất gia mà làm Sa Môn tinh tấn tu Đạo, chứng quả A La Hán.
- Đức Phật bảo các đệ tử: Các
Đức Phật chỉ nói nửa bài kệ rằng:
- Các hạnh vô thường
- Là pháp sanh diệt
- Dứt xong sanh diệt
- Yên lặng là vui.
- Kinh Cầu Ly Lao ngục
-
- B.
THÂN NGƯỜI
- Đức Phật kể chuyện với các
Tỳ kheo rằng: Ngày xưa xa có một vị Ngũ thông Tỳ kheo tên là Tinh Tấn Lực,
ngồi dưới gốc cây trong núi yên lặng mà tu Đạo, cũng chính nơi đây và lúc này
có bốn con cầm thú, nương ở xung quanh là: chim cáp, chim quạ, con rắn và con
nai. Có một đêm chúng nó tự hỏi với nhau rằng cái khổ trong đời, thứ nào nặng
hơn?
- Chim quạ nhọn mồm có ý kiến
trước: Đói khát là khổ hơn hết: những khi đói khát, thân ốm, mắt mờ, lòng dạ
chẳng yên, cũng vì thế lắm khi thân sa vào cạm lưới, chẳng tránh mũi nhọn.
Chúng ta tán thân thất mạng đâu chẳng bởi vì đói khát.
- Chim cáp: Dâm dục là khổ hơn hết: mỗi khi sắc
dục bức bách thì không chỗ nào là không nghĩ tới. Cũng nhơn đó rồi bị nguy
thân thiệt mạng. Nó báo hại hơn cả, theo ý tôi.
- Đến lượt rắn độc: Riêng tôi
thì giận dữ là khổ hơn hết: một khi nổi giận là chẳng kể gì kẻ thân người sơ,
và lắm khi làm hại mình, hại người nữa là khác.
- Cuối cùng là con nai: Tôi
cho sự kinh hãi là khổ hơn hết: tôi ở trong rừng lòng thường lo hồi hộp run
sợ, những kẻ thợ săn, chó săn, lang sói, chợt nghe có tiếng đô?g phảng phất,
thôi thì tuông chạy, bán sống bán chết, ruột gan run sợ, bỏ cả mẹ con, lắm khi
bị sa hầm sụp hố, nguy hiểm đến tính mạng nữa là khác. Sau khi nghe chúng bàn
luận, Tỳ kheo đính chánh rằng: Những điều các ngươi vừa nói đó là chỉ là thứ
khổ ngọn ngành chứ chưa xét đến cái khổ cội gốc. Nỗi khổ trong thiên hạ không
gì bằng cái thân. Thân là cái món đồ để đựng mọi thứ khổ, cho nên ta bỏ tục
xuất gia tu Đạo, chính vì muốn tiêu diệt ý tưởng xằng xiên, chẳng tham đắm
thân tứ đại giả dối, mục đích là dứt nguồn đau khổ vậy.
- Kinh Pháp Cú
-
- Cho rằng thứ khổ cũ là thật
khổ, mà thứ khổ mới là vui, như người gánh nặng trở vai.
- Kinh Tọa Thiền Tam Muội
-
- Quan sát tấm thân do cha mẹ
sanh giống như thổi một mảy bụi trần vào giữa thái hư không mười phương hoặc
còn hoặc mất; lại cũng như biển cả đại dương yên lặng, chợt nổi lên một bong
bóng trôi nổi lênh đênh sanh hay diệt cũng chẳng từ đâu mà có.
- Kinh Lăng Nghiêm
-
- Thân này như bọt, chẳng
đặng còn lâu; thân này như huyễn do điên đảo khởi; thân này như mộng từ vọng
thấy sanh; thân này như bóng bởi nghiệp duyên hiện.
- Kinh Duy Ma
-
- Ngày xưa có một người con
ông Trưởng giả, vợ chồng mới cưới rất yêu kính nhau. Chồng bảo vợ: Em vào
trong nhà bếp lấy rượu ra đây cùng uống cho vui. Người vợ vào vừa giở nắp lu,
chợt thấy bống mình hiện ở trong lu, liền cho là người khác đã ẩn tự bao giờ,
nổi tam bành lục tặc, trở ra sân si với chồng rằng: Anh đã chứa dấu đàn bà
trong lu còn cưới tôi về làm chi nữa?
- Chồng tức quá vào xem lại
thấy bống mình, nổi sân chạy ra nạt vợ rằng: Mày dấu trai trong đó mà đổ thừa
cho tao dấu gái? Thế là hai đứa sân si ẩu đả kịch liệt, thôi thì đánh nhau dữ
dội la khóc om sòm, đàng nào cũng cho mình là phải. Giây lát có Thầy Tỳ kheo
đi ngang qua nghe được nguyên do việc xảy ra đám đánh, đến mà xem thử mới biết
là đánh lộn bóng, mà bùi ngùi tự than rằng: Người đời quá ngu cho cái giả là
thật. Rồi tự đấm ngực xung phong mà rằng: Ta sẽ vì các ngươi mà bắt người
trong lu ra cho; rồi Ngài lấy một cục đá to đập lu vỡ, rượu chảy linh láng,
con người bóng trong lu cũng mất biến. Giải quyết cái bóng xong, đôi vợ chồng
ôm lòng hổ trẽn.
- Bấy giờ Thầy Tỳ kheo vì nói
pháp, khiến cho đắc Đạo. Đức Phật lấy thí dụ: thấy bóng đánh lộn là bởi người
đời chẳng biết cái "khổ không" của năm uẩn và bốn đại mà phải bị khổ sanh tử
chẳng lúc nào dứt vậy.
- Kinh Tạp Thí Dụ
-
- Xưa có ngôi nhà hoang tương
truyền nhà ấy thường có con ác quỉ, mọi người đều chẳng ai dám đến ở hay ngủ.
- Bây giờ có một thanh niên
tự xưng mình to gan và bảo với người ta rằng: "Tôi dám vào trong nhà hoang ấy
mà ngủ một đêm cho bà con biết mặt." Tức thì anh vào ngủ thật.
- Lát sau lại có một chàng
nữa ở xóm khác, thường ngày tự cho mình là gan dạ và mạnh bạo hơn ai hết, cũng
nghe người ta nói trong nhà hoang có quỉ, anh liền vác dùi đến và xô cửa vào
mà đánh.
- Thì anh chàng vào trước
tưởng là quỉ thật ở ngoài đánh vào mình, nên anh giữ cửa rất chặt, phòng thủ
cẩn thận, chẳng cho quỉ ngoài tiến vào. Thì anh ở ngoài lại quả quyết trong
nhà đã sẵn có quỉ thật, nên dùng tận lực đánh vào...
- Thế là trong đánh ra, ngoài
đánh vào rất là kịch liệt, cho đến khi trời sáng mới nhìn nhau biết chẳng có
quỉ quái gì cả.
- Mọi người trong đời cũng
như vậy. Do nhơn duyên mà tạm gặp nhau, thật chẳng có cái ta, nhưng các chúng
sanh nào có biết! Rồi ngang chấp có ta, mới cưỡng sanh ra trang tụng.
- Kinh Bách Dụ
-
- Vua Di Lan hỏi ngài Na Tiên
Tỳ Kheo rằng: Sa môn có tự yêu tấm thân mình không?
- Na Tiên đáp: Là Sa môn
chẳng còn tự yêu thân nữa.
- Vua nói: Nếu chẳng tự yêu
thân sao còn ở nhà ấm, ăn thức ngon, và tự muốn bảo vệ lấy nó?
- Na Tiên gạn lại: Nhà vua đã
từng vào trận chiến chứ?
- Vua đáp: Có. Tôi đã có vào
trận chiến.
- Na Tiên hỏi: Khi vào trận
đã có bị thương chưa?
- Vua đáp: Đã có bị thương,
vì mũi dao và tên nó chọt.
- Na Tiên hỏi: Rồi làm sao
cho vết thương?
- Vua đáp: Tôi liền lấy thuốc
và vải băng bó.
- Na Tiên hỏi: Vì yêu vết
thương mà băng bó hay sao?
- Vua đáp: Chẳng phải yêu vết
thương.
- Na Tiên hỏi: Chẳng phải yêu
mà chăm sóc làm chi?
- Vua đáp: Muốn nó mau lành.
- Ngài Na Tiên thuyết: Các vị
Sa môn cũng thế. Các Ngài chẳng phải yêu vì cái thân, nên việc ăn mặc cũng
chẳng phải vì ăn sang mặc đẹp, mà chỉ dùng để chi độ cho thân thể đặng phụng
hành đạo pháp của đức Phật mà thôi, cho nên trong kinh nói: thân người có 9 lỗ
là 9 chỗ thúi hôi bất tịnh.
- Vua Di lan khen: Hay quá,
Ngài nói hay quá!
- Kinh Na Tiên Tỳ Kheo
-
- Đức Phật dạy các đệ tử: Mọi
kẻ phàm phu ăn cơm mặc áo, dùng đồ nằm là muốn cho thân tâm vui sướng. Bồ tát,
nếu khi phải dùng áo chẳng vì thân, mà chỉ vì pháp, cho nên chẳng kiêu mạn, mà
phải thấp xuống; chẳng vì trang sức, chẳng vì xấu hổ, mà chỉ vì che lạnh nóng,
gió độc mà thôi. Với việc ăn cũng thế, tâm chẳng tham đắm, chẳng vì kiêu mạn,
chẳng vì thân lực... ăn với mặc như nhau.
- Kinh Niết Bàn
-
- Đức Phật dạy ngài Văn Thù
rằng: Vì chúng sanh không có sức từ bi, ôm lòng sát hại, cho nên phải cấm dứt
ăn thịt; nếu chẳng ôm lòng sát hại, có lòng đại từ bi, vì muốn giáo hóa tất cả
chúng sanh, thì không có tội lỗi.
- Kinh Văn Thù Sư Lợi Vấn
-
- Đức Phật bảo các Tỳ kheo
rằng: Chốn đại địa này biến thành biển cả; bấy giờ có con rùa mù sống lâu vô
lượng qua trăm ngàn năm nó mới ngóc đầu lên một lần. Tại biển cả có một cây
nổi lênh đênh, khi đong khi tây, vì bị sóng dập gió dồi liên tiếp; mà trong
thân cây chỉ có một cái lỗ. Thế thì khi rùa mù ngóc đầu tìm cây và chui đầu
vào cây chừng có dễ gặp không?
- Ngài A Nan trả lời rằng:
Bạch Đức Thế Tôn! Khó mà gặp được, bởi lẽ rùa thì rùa mù, biển đông hải mênh
mông, cây lại cây nổi, trôi theo chiều sóng gió đẩy đưa, đông tây bốn hướng
nào có đình đậu nơi nào. Cho nên chắc chắn khó mà gặp được.
- Phật dạy: Rùa mù, cây trôi
tuy khó gặp, nhưng còn có hy vọng; chớ đến như kẻ phàm phu ngu si trôi nổi
trong năm thú mà tái sanh được thân người, mới thật là khó hơn rùa gặp cây gấp
mấy. Vậy nên các ngươi chính ngày nay phải tinh tiến tìm mọi phương tiện phát
khởi tâm muốn học đạo càng tăng cao mới được.
- Kinh Tạp A Hàm
-
- C.
TÂM NGƯỜI
- Tâm và vật bị có của tâm,
bản tính vắng lặng, chẳng thấy nghe gì được cả. Tâm như trò huyển, do chúng
sanh so đo chấp trước nên khởi ra vọng tưởng mà chịu mọi nỗi khổ vui. Công
dụng của tâm như nước chảy, sanh diệt từng niệm một mà chẳng chút dừng. Tâm
như gió mạnh trong một giây lát rất ngắn, hoa khắp mọi nơi. Nó cũng như đèn
đuốc khi các duyên hòa hợp thời phát ra công dụng; như chớp sáng diện khí,
chẳng đúng giây lát; nó xáu láu như con khỉ đột chuyền trên cây ngũ dục.
- Lại cái tâm khéo léo như
chàng họa sĩ, vẽ đủ màu sắc, đủ hình tượng. Và ngược lại nó vụng về mộc mạc
như những kẻ đầy tớ, bị bọn phiền não sai sử như chong chóng.
- Rồi nó cũng hung dữ như kẻ
giặc cướp mà cướp hết các của công đức. Nó nhơ nhớp như bầy heo nái, ưa ăn các
thứ tạp uế thậm tệ; và nó say đăm cũng như bầy ong mật trít trát trên những
đóa hoa có khí vị.
- Nhưng bản tính nó vẫn là
phi khứ phi lai, nó giống như hư không chẳng hạn. Và bản tánh nó tuyệt nhiên
không có những tướng sai biệt như: lớn nhỏ, khổ, vui hay là thượng, trung, hạ
gì cả. Nhưng nó là thường trụ bất biến rất là thù thắng vậy.
- Kinh Tâm Địa Quán
-
- Tâm trôi theo cảnh giới,
như đá nam châm hút sắt vậy.
- Kinh Lăng Nghiêm
-
- Các vị Bồ tát có đức tin
tưởng phi thường: tin các pháp do nhơn duyên hòa hiệp mà sanh; tin không có
tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng kẻ trường thọ; tin không có kẻ
tạo tác, kẻ lãnh lấy; tin không có cái ta và những vật bị có của cái ta. Với
thế gian chẳng sợ hãi, chăm tu tinh tiến chỉ mong cầu thấu rõ cái tâm. Tâm là
thế nào? Tham dục, sân nhuế, ngu si chăng? Hay hiện tại, quá khứ, vị lai
chăng? Xét ra vị lai chưa đến, quá khứ đã khứ đã qua mất rồi, hiện tại chuyển
biến luôn chẳng đứng yên. Tâm này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài và cũng chẳng ở
chặn giữa. Nó không sắc không hình cho đến không thể thấy nghe được; nó chỉ là
nương nhơn duyên điên đảo và vọng tưởng mà sanh ra các tướng sai biệt ấy thôi.
- Nầy Thiên nam tử! Vọng tâm
ấy như trò huyển, do nhớ tưởng phân biệt mà sanh khởi các món nghiệp nhơn; nó
cũng giống như dòng nước chảy, sanh diệt chẳng chút ngừng; như lửa trên đèn có
các duyên hòa hiệp mới phát hiện; như điện khí một sát na cũng chẳng dừng; như
hư không chỉ vì bị khách trần phiền não làm ngăn ngại; như con vượn chuyền
nhảy mọi cảnh giới; như họa sĩ tự do vẽ vời mà không nhất định; như kẻ oan gia
gây mọi điều khổ não; như con voi cuồng phá hoại tất cả căn lành. Nó còn như
cá tham mồi nuốt câu; với nguy mà tưởng là an; như trong cảnh chiêm bảo, với
trong cảnh không "ta" mà sanh lòng tưởng có cái ta; như con ruồi xanh, với món
nhơ nhớp mà cho là thơm ngon.
- Kinh Bảo Vũ
-
- Trong cảnh chiêm bao, thật
không có việc lành mà cho là lành, việc không đáng giận dữ mà giận dữ nổi lên,
việc không đáng sợ mà run sợ. Chúng sanh ở trong ba cõi cũng như thế ấy. Vì
cái mê vô minh nó còn ngủ trong lòng, cho nên chẳng đáng sân mà sân, chẳng
đáng buồn mà buồn.
- Phải biết rằng ngoài tâm
chẳng có cảnh chi sai khác, chỉ có chút mê tĩnh mà vọng thấy nhiễm cảnh mà
thôi. Cho đến ngoài tâm không có tướng địa ngục, khi mà ác nghiệp thành tựu
thời mới thấy có chịu khổ vậy thôi.
- Luận Trí Độ
-
- Đức Phật dạy đại chúng:
Cảnh chẳng phải khổ mà cho là khổ, ngược lại cảnh khổ mà cho là vui. Lạc là
cảnh giới Như Lai mà kẻ nào chẳng biết là điên đảo số một.
- Trong vô thường mà cho là
thường, ngược lại thường cho là vô thường. Thường là cảnh giới Như Lai mà kẻ
nào chẳng biết là điên đảo số hai.
- Trong chơn ngã mà cho là vô ngã, ngược lại
trong vô ngã cho là ngã. Ngã là Phật tính mà kẻ nào hiểu trái lẽ là điên đảo
số ba.
- Trong bất tịnh mà cho là
tịnh, ngược lại trong tịnh cho là bất tịnh. Tịnh cũng là Phật tính, vậy là
điên đảo số bốn.
- Kinh Niết Bàn
-
- Có một người mê, chỉ đông
là tây, chỉ tây là đông, nam bắc cũng thế, người đời mê muội cũng giống như
thế. Đời có ba hạng người: một cuồng, hai si, ba bị bệnh gió. Những người này,
tay cầm chiếc gươm, ý muốn chém đông mà lại chém tây, muốn chém nam mà lại
chém bắc.
- Người bài báng chánh pháp
cũng giống như vậy: cho chánh pháp là tà pháp, ngược lại cho tà pháp là chánh
pháp; cho pháp thường trú là vô thường, mà cho pháp vô thường là thường trú;
cho lạc pháp là khổ, mà cho khổ pháp là lạc; cho bất tịnh là tịnh, mà cho tịnh
là bất tịnh. Cho bậy như thế là kẻ đã bị mất tánh bình thường. Cho nên ta dùng
mọi phương tiện: với chỗ tối tăm soi ánh sáng rực rỡ; vì muốn đắt dẫn ra, nên
mở thông cửa ngỏ; vì kẻ ngu si mở ánh sáng trí huệ; vì kẻ lạc đường, chỉ cho
biết nẻo chánh đạo; vì muốn độ cho qua, ban cho cầu, thuyền.
- Muốn khiến cho tất cả chúng
sanh đem lòng từ bi mà đối đãi lẫn nhau, như cha mẹ anh em chị em vậy.
- Kinh Thập Trụ
-
- Ngài Văn Thù Bồ tát thưa
với đức Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, vì sao gọi là tâm địa? Xin Thế Tôn vì các
chúng sanh diễn nói để: với kẻ chưa lìa khổ khiến lìa; chưa phát tâm Bồ đề
khiến phát, và chưa chứng được quả Bồ đề khiến chứng.
- Đức Phật khen: Văn Thù!
Ngươi là mẹ đẻ trí huệ thật, vì muốn dắt dẫn những kẻ mới phát tâm Bồ đề mà
hỏi nghĩa này, Ta sẽ vì chúng sanh mà nói: Tâm địa là Pháp rất thù thắng của
mười phương Như Lai; là pháp đốn ngộ của tất cả phàm phu; là nơi điện ngọc để
hưởng vui pháp lạc; là kho tàng bảo ngọc tặng vật lợi ích cho chúng sanh; là
nguồn gốc sanh công đức của chư Phật. Và còn công năng tiêu trừ ác nghiệp cho
tất cả chúng sanh; độ qua hiểm nạn sanh tử, làm im sóng mòi nơi biển khổ; làm
cạn khô biển lão bệnh tử; đem đuốc đại trí soi sáng trên con đường dài sanh tử
tối tăm. Mà nó cũng là pháp vô thượng, và ngọn cờ thù thắng nhất của chư Phật
vậy; giống như bậc Đại thánh quốc vương tùy thời trị nước mới được đại thái
bình an vui, tất nhiên kẻ nào trái lệnh là bị giết.
- Ba cõi đều lấy tâm làm chủ.
Kẻ nào hay quán sát tâm là có thể chứng được cứu cánh Niết bàn, mà chẳng quán
được bị trầm luân khổ ải.
- Tâm như chốn đại địa hay
sanh trưởng ngũ cốc, nghĩa là hay sanh quả vị Bồ tát và Phật, cho nên gọi là
tam giới duy tâm. Do đó nên gọi tâm là địa. Hễ ai gần gũi bạn lành nghe Pháp
môn tâm địa, đúng như lý mà quán sát, đúng như pháp mà tu hành là có thể chứng
được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác vậy.
- Kinh Tâm Địa Quán
-
- Ta thấy chúng sanh đều ở
trong cảnh phiền não tham dục, sân nhuế và ngu si v.v… đầy đủ Phật trí, Phật
nhãn, Phật thân đồ sộ chẳng lay động. Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh tuy ở
trong phiền não mà thường đâu có ô nhiễm Như Lai tạng, đức tướng đầy đủ như Ta
không khác. Ví như Chơn kim sa vào trong bất tịnh, chìm ngấm chẳng nổi, trải
qua nhiều năm chẳng ai hay biết mà chất chơn kim kia không hề hư hoại, duy
người có thiên nhãn mới thấy biết nơi ấy có hòn chơn kim báu quý vô giá.
- Chúng sanh vốn sẵn có Phật
tánh chứ chẳng phải từ nơi nào khác đem đến. Thí như có người trong chiếc áo
đang mặc sẵn có viên ngọc như ý mà tự chẳng hay biết gì cả. Lại như bảo vật
nă? sẵn trong kho tàng của mình mà chẳng tự biết để đến nổi phải bôn tẩu tìm
cầu từng miếng ăn nuôi sống hằng ngày.
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm
-
- Tất cả chúng sanh quyết
định sẽ được tâm Đại trí, cho nên Ta nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
- Kinh Niết Bàn
-
- Tâm tánh của tất cả chúng
sanh vốn thanh tịnh, các phiền não không thể làm ô uế được, in như hư không,
không khi nào bị thứ gì làm nhơ bẩn.
- Kinh Đại Tập
-
- Cái thanh tịnh của tâm tánh
giống như mặt trăng nằm dưới đáy nước.
- Kinh Bảo Tích
-
- Tâm mà xa lìa được những
đục vẩn, thời ta nói tâm ấy là Phật đó.
- Kinh Nhập Lăng Già
-
- Bồ tát ngoài việc giác ngộ
tự tâm thì chẳng còn ngộ gì nữa. Tại sao thế? Vì giác ngộ tự tâm tức là đã
giác ngộ tâm của tất cả chúng sanh vậy. Nếu tâm mình được thanh tịnh thì tất
cả tâm của chúng sanh cũng đều được thanh tịnh; vì thể tánh của tâm mình tức
là thể tánh của tâm tất cả chúng sanh vậy. Cho nên tự tâm mình xa lìa nhơ bẩn:
tham, sân, si thời tâm của tất cả chúng sanh cũng đều được xa lìa nhơ bẩn:
tham, sân, si vậy. Được như thế mới gọi là kẻ nhất thế trí giác.
- Kinh Đại Trang Nghiêm
Pháp Môn
-
- Này Bảo Tích: "Vì Bồ tát
muốn nhiêu ích chúng sanh nên mới nói tịnh pháp, vì nói tịnh pháp nên trí huệ
tịnh, trí huệ tịnh nên tâm mới tịnh; vì tâm tịnh nên tất cả công đức được
tịnh, vì công đức tịnh nên cõi nước mới được thanh tịnh vậy."
- Cho nên muốn được cõi nước thanh tịnh, thời
trước phải tịnh tâm; do tâm tịnh nên Phật độ cũng thanh tịnh theo.
- Bấy giờ ngài Xá Lợi Phất
sanh lòng nghi thưa với Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu Bồ tát tâm tịnh thời
cõi Phật cũng tịnh như lời Thế Tôn vừa dạy. Thế thì khi Thế Tôn còn là địa vị
Bồ tát tâm ý chẳng tịnh hay sao mà cõi Ta bà đây bất tịnh như thế này?
- Đức Phật dạy: Này Xá Lợi
Phất! Kìa mặt trời mặt trăng có thanh tịnh sáng chói không? Mà sao những kẻ mù
chẳng thấy; vậy thì lỗi do mặt trời trăng hay lỗi bởi kẻ mù?
- Xá Lợi Phất thưa: Chẳng
phải mặt trời trăng chẳng cho người thấy, mà lỗi do người mù không thể thấy
được.
- Phật kết: Thế thì cõi Ta bà này tuy là thanh
tịnh mà bọn các ngươi chẳng thấy đó thôi, là vì con mắt trí tuệ của các ngươi
chưa mở được.
- Kinh Duy Ma
-
- D.
TỘI ÁC
- Tâm là nguồn tội ác, hình
là rừng ác tội.
- Kinh Bát Đại Nhân Giác
-
- Cái tâm nó lanh lẹ nhẹ
nhàng động chuyển, khó nắm bắt, khó điều phục; nó rông chạy lung tung như con
voi đại ác; nó thoạt qua mau chóng từng mỗi niệm như chớp sáng điện khí; nó
nhảy vọt rộn ràng chẳng đứng yên như con vượn khỉ. A? là cội gốc của tất cả
các điều tội ác vậy.
- Kinh Niết Bàn
-
- Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và ý là mụ làm mai mối cho kẻ giặc vào cướp đoạt của báu nhà mình.
- Kinh Lăng Nghiêm
-
- Nước hay hiện bóng, nếu đem
đổ vào vò, rồi lấy vải bịt miệng vò lại, mới lấy lửa đốt cho thật nóng, nước
trong vò sôi vọt. Chúng sanh đem mặt đến soi vào, chắc chẳng thấy bóng hình gì
cả. Cũng giống như thế, nơi tâm vốn sẵn có ba món độc, nó sôi vọt ở trong, rồi
năm món ngăn che là: tham dục, giận dữ, ngủ nghỉ, loạn động và nghi ngờ, nó
bịt che bên ngoài thì làm sao mà thấy được Đạo.
- Kinh Tứ Thập Nhị Chương
-
- Nữ sắc là cùm xiềng gông
tròng của thế gian, với kẻ phàm phu say sưa đắm đuối, không thể tự thoát
được.
- Kinh Nhựt Minh Bồ Tát
-
- Phật dạy: Người mà chạy
theo tình dục, tìm cầu thanh danh, khi thanh danh vừa ló mùi, thời cái thân đã
chết mất rồi vậy. Lo tham thanh danh thế gian mà chẳng học Đạo, uổng công nhọc
sức như trầm hương đốt lửa, thiên hạ chưa kịp nghe ngửi mùi thơm, mà nén hương
đã tiêu thành tro mất rồi, là vì lửa làm nguy hiểm cho thân ở sát một bên sau
lưng vậy.
- Kinh Tứ Thập Nhị Chương
-
- Bị các nỗi khổ là bởi lòng
tham dục làm gốc, nếu dứt tham dục, thời khổ không nương vào đâu mà tồn tại.
- Kinh Pháp Hoa
-
- Giận dữ là cội gốc làm mất
các pháp lành, là nhơn đọa ác đạo, là kẻ oan gia của pháp vui, là đứa giặc
cướp của lòng lành vậy.
- Luận Trí Độ
-
- Tấm thân như đất, lòng lành
như lúa, lòng ác như cỏ. Cỏ bẩn chẳng trừ, lúa chẳng thành gạo. Người chẳng
trừ ác, thời chẳng đặng Đạo. Người mạ giận dữ, là đất sanh cỏ. Lòng lành như
điện, nó đến thì sáng, nó đi thì tối. Tà niệm như mây che chẳng thấy trời; đã
khởi lòng ác làm gì thấy Đạo.
- Kinh Tam Huệ
-
- Tội lỗi rất lớn đối với đạo
pháp chính là giận dữ. Các Bồ tát đến với các Bồ tát khác, nêu khởi lòng giận
dữ, tức là đã mở xong trăm vạn cửa ngăn che. Đã có chỗ gọi: ngăn che chẳng cho
thấy đạo Bồ đề, ngăn che chẳng cho nghe chánh pháp, ngăn che cho sanh về thế
giới bất tịnh, ngăn che cho sanh về các ác thú, ngăn che bị nhiều tật bịnh,
ngăn che bị nhiều hủy báng, ngăn che ôm lòng mất chánh niệm, ngăn che thiếu
khuyết trí huệ, ngăn che gần ác tri thức, ngăn che ưa học tiểu thừa pháp, ngăn
che chẳng đặng tin kính kẻ đại oai đức, ngăn che chẳng muốn cùng ở với người
chánh kiến, và ngăn che chẳng đặng trừ sạch các nghiệp tội lỗi.
- Kinh Hoa Nghiêm
-
- Lòng giận dữ độc hại hơn
lửa dữ, thường phải đề phòng chớ cho nổi lên. Kẻ giặc cướp của công đức, chẳng
ai bằng giận dữ.
- Kinh Di Giáo
-
- Một niệm khởi lửa giận, có
thể đốt cháy gốc lành nhiều vô lượng kiếp.
- Kinh Đại Nhựt
-
- Thà sanh khởi trăm ngàn
lòng tham, chớ khởi một cơn giận dữ; vì cái mà làm tổn hại lòng đại từ chẳng
gì hơn bằng giận dữ.
- Kinh Quyết Định Tì Ni
-
- Kẻ phàm phu bị trăm món dục
trói buộc, nghĩa là thân lẫn tâm bị ma ba tuần tự do dẫn đi như bọn thợ săn
bắt được con khỉ, rồi trói lại thay nhau gánh đem về nhà.
- Kinh Niết Bàn
-
- Xưa có con rắn, đầu đuôi
tranh hơn với nhau. Cái đầu bảo: ta có tai nghe, mắt thấy, miệng ăn, khi đi
tất nhiên ta đi trước, còn ngươi đâu có những tài ấy mà hơn ta được, cho nên
ta chắc chắn hơn ngươi vậy. Đuôi cãi lại: tuy vậy mà nếu ta chẳng cho ngươi đi
thời ngươi không thể đi được. Rồi nó đem đuôi quấn vào cây ba vòng, nằm luôn
ba ngày chẳng buông thả, cái đầu muốn đi kiếm ăn mà chẳng đi được, đói gần hụt
hơi. Tính bề không xong, bắt đắc dĩ mà bảo rằng: thôi ta thua, ngươi hơn ta
nên thả thân ra.
- Cái đuôi mới chịu thả thân.
Đầu bảo: ngươi đã hơn ta, ngươi phải đi trước. Cái đuôi thắng trận sung sướng
vút vắt đi trước, thì chẳng bao lâu bị sa xuống hầm lửa mà chết thui mất.
- Đức Phật dạy: cái thí dụ
này, ví cho những chúng sanh ngu muội, tranh chấp nhơn ngã rồi đôi bên đều
sanh giận dữ mà cùng nhau đọa vào tam đồ ác đạo vậy.
- Kinh Tạp Thí Dụ
-
- Những chúng sanh tự buông
lung tham năm món dục nên mới hiện thành cảnh giới bất tịnh. Tại sao? Vì chúng
sanh ngu si mê hoặc, bị nữ sắc làm mờ ám tâm trí mà phải chìm đắm, như chiếc
áo trắng dễ ăn màu nhuộm. Như con trùng nằm trong đống phẩn, cho phẩn là ngon;
như kẻ phạm tội bị nhiều hình ngục xiềng trói; như đứa mù dắt đứa đui dễ bị sa
hầm sụp hố. Tổn hại căn lành, mất các pháp bảo, xa lìa giới hương, thương hại
huệ mạng. Những chúng sanh như thế là vì ngu si, nên bị tham dục làm mù quáng
mê mờ, còn bị nó sai khiến đủ thứ như đứa đầy tớ là khác.
- Kinh Hoa Nghiêm
-
- Thí như con sư tử khi bị
đánh bắn, thì nó tìm kẻ ác hại mà trả thù. Lại như con chó đại cũng bị đánh
đập mà chẳng biết tìm trả thù. Sư tử dụ cho người trí, biết tìm gốc mà diệt
trừ phiền não. Chó dại dụ cho ngoại đạo lấy năm thứ lửa mà đốt thân, chẳng
biết bản tâm vậy.
- Những kẻ phàm phu phần
nhiều mê mờ chơn đạo, chẳng biết quan sát thân tâm vô ngã, chỉ chuyên tập khổ
hạnh cho là Đạo, rồi cũng vọng hành như ngoại đạo tà pháp lầm chấp trái với
chơn đạo, chỉ gây nên ác pháp mà thôi.
- Luận Đại Trang Nghiêm
Kinh
-
- Kẻ ngủ không được cho đêm
là dài, người biếng nhác cho đạo là xa. Đứa ngu ở trong sanh tử mới lâu dài
thật.
- Kinh Pháp Cú
-
- Người ngu si luống uổng đêm
dài, giống như gỗ đá chạm trổ thành tượng, hình tuy giống người mà đâu có hiểu
biết.
- Kinh Bảo Tích
-
- Phật dạy: Người ngu trong
đời, chỉ thấy người ta ác mà chẳng biết mình ác, rồi cũng chỉ thấy cái lành
của mình, mà chẳng thấy điều lành của người. Còn thêm nữa: tự cho mình là trí
mà thiên hạ đều ngu; mình ở trong chỗ sáng, thiên hạ ở chỗ tối. Như thế thật
quá ư mê muội mà chẳng tự biết.
- Những kẻ ngu si chỉ thấy kiêu ngạo của người,
mà chẳng tự biết cái kiêu ngạo nơi mình. Hễ kẻ nào tự biết mình lỗi là kẻ ấy
có thể cùng bàn luận điều lành với họ được. Mà kẻ nào chỉ thấy cái hay của
mình, thời không thể nói chuyện phải với họ được.
- Kinh Pháp Luật Tam Muội
-
- Nếu học hỏi được chút ít mà
đã đem khoe khoan với người, ấy là kẻ mù cầm đuốc soi đường cho người ta mà tự
mình chẳng thấy gì cả.
- Kinh Pháp Cú
-
- Đứa ngu phụng sự kẻ minh
trí trọn đời, mà tự mình chẳng biết được chút chơn chánh đạo pháp gì cả. In
như ăn rồi uống rượu cả ngày mà chẳng biết mặn lạt gì hết.
- Kẻ trí phụng sự bậc Thánh
hiền trong giây lát thì liền nhận rõ được chơn pháp. In như chót lưỡi chạm đến
vật ăn liền biết cay ngọt.
- Người trí tìm được một câu
diễn ra thành trăm ý nghĩa. Mà đứa ngu tụng một ngàn bài chẳng hiểu nghĩa một
câu. Tự biết mình là người ngu trong giới người ngu thì sẽ được điều lành. Mà
người ngu tự xưng mình là kẻ trí, ấy là đứa ngu chánh tông trong bọn người ngu
vậy.
- Kinh Xuất Diệu
-
- E.
NGHIỆP BÁO
- Tất cả chúng sanh đồng
nương bốn đại mà thành, cho nên không có cái ta, và những vật sở hữu của cái
ta. Nhưng, thảng hoặc có kẻ chịu khổ, có kẻ hưởng vui, và có tốt xấu, có quả
báo hiện tại, quả báo hậu lai là tại sao?
- Thời mới đáp như sau: tùy
theo hành nghiệp của mỗi một chúng sanh mà cảm quả báo sai khác như thế. Chớ
chẳng phải ai tạo tác cho, in như một hột giống nằm dưới ruộng mọc lên những
cây lúa; như nhà huyển thuật hiện ra các hình sắc, như loài chim nở ra khỏi vỏ
là có tiếng kêu.
- Kinh Hoa Nghiêm
-
- Ví như cát trong biển cả,
nhiều không thể tính biết được; cũng như người tạo tác thiện ác họa phước,
trước sau gây nên, nhiều không thể kể xiết. Nhưng đến khi mạng tận, thời làm
ác phải sanh về chỗ khổ, mà làm lành sẽ sanh về chỗ vui; vì lành hay dữ đã
điều có dự định nơi chỗ sẵn sàng trước vậy.
- Kinh Bột
-
- Vua Di Lan hỏi ngài Na
Tiên: Người trong đời ai cũng có tứ chi đầy đủ: đầu mặt mắt tai và thân thể...
nhưng sao có người sống lâu, có kẻ chết yểu, cho đến nhiều bệnh ít bệnh nghèo
giàu cao thấp đẹp đẽ xấu xí; lại có người được người ta tin cậy, có người bị
người ta nghi ngờ, có kẻ thông minh, có kẻ ngu muội. Tại sao có sự bất đồng
như thế, thưa ngài?
- Ngài Na Tiên đáp: ví như
trái cây của các thứ cây, thứ cay, chua, thứ đắng, ngọt. Ngài hỏi lại nhà vua
nó sai khác như thế, tại sao, tâu đại vương?
- Vua đáp: vì trồng nhiều thứ
cây khác nhau.
- Ngài nói: cũng giống như
người trồng cây kia. Bởi hành động tạo tác của mỗi người sai khác chẳng đồng,
chẳng ai giống ai, cho nên mới có quả báo sai biệt như Đại Vương vừa kể trên.
Và còn thêm nữa: ai cũng có cái miệng mà sao có kẻ nói ra tiếng, mà có người
lại câm! Cho nên kinh Phật dạy: giàu sang, nghèo hèn, xấu tốt là đều do sự tạo
tác của đời trước mà có, thời thiện ác tùy theo tự thân hình mà có được vậy.
- Kinh Na Tiên Tỳ Kheo
-
- Ta thường thấy: kẻ yêu
nghiệp mà được hưởng phước, còn người hiền lành lại bị tai họa, sở dĩ có trái
ngược như thế là vì quả báo thiện ác chưa đến ngày chín; chớ quả báo thiện ác
đến ngày chín, thời kẻ ác phải chịu khổ, mà người thiện được hưởng vui.
- Kia như đánh người bị người
đánh lại; gây oán với người bị người oán lại, cho đến mắng chửi hay sân nộ với
họ, thời bị họ phản ứng như thường.
- Vì người đời không nghe
biết Chánh pháp nên chưa hiểu lý nhân quả của ba đời ấy thôi. Mạng sống ta đây
có được là bao! Mà gây ác làm chi, đừng khinh thường ác nhỏ cho là ít lỗi;
giọt nước tuy ít chứa dồn đầy thùng; tội nhiều đầy nhẫy cũng do chứa từ ít mà
thành. Cũng chớ coi thường chút lành cho là không phước, một giọt nước tuy ít
mà chứa dồn đầy lu. Phước đức đến khi đầy đủ cũng nhờ chứa dồn từng mảy mún mà
thành.
- Kinh Pháp Cú
-
- Cha làm chẳng lành, con
chẳng thay chịu; con làm chẳng lành cha cũng chẳng chịu thay. Làm lành tự
hưởng phước, làm dữ tự chịu ươn.
- Kinh Nê Hoàn
-
- Người làm thiện ác có bốn
kẻ chứng biết: một trời, hai đất, ba người gần, bốn ý của ta.
- Kinh Mạ Ý
-
- Nếu ta làm nghiệp lành vì
sức mạnh tự nhiên mà được hưởng nghiệp báo tốt, dầu cho có sức mạnh của nhà
vua viện trợ đi nữa cũng chẳng bằng sức mạnh của nghiệp.
- Luận Đại Trang Nghiêm
Kinh
-
- Ngài Ma Ha Nam bạch Phật
rằng: Những lúc tôi gặp phải xe, ngựa, voi điên và người đánh lộn là khi ấy
tôi mất tâm niệm Phật, không may lâm nạn bị chết thì sẽ sanh về cõi nào?
- Đức Phật dạy: Lúc ấy không
may thời ngươi vẫn được sanh về cõi lành, chứ chẳng sanh về ác thú đâu, ngươi
đừng lo sợ. Ví như cái cây thường ngày nó nghiêng về hướng đông, nếu mà nó bị
gãy thì quyết định nó ngã vế hướng đông. Người lành cũng như thế, nếu khi thân
chết nhờ sức hun đúc ý thức lành đã nhiều ngày từ trước như kính tin trì giới,
học hỏi, bố thí và trí huệ chắc được lợi ích mà sanh lên trời.
- Luận Tà Trí
-
- Muốn biết nhơn đời trước,
cứ xem hưởng thọ quả ngày nay, muốn biết quả đời sau, cứ xem gây nhơn ngày
nay.
- Kinh Nhân Quả
-
- Đức Phật dạy các đệ tử
rằng: Đời có 4 hạng người:
- Trước khổ sau vui
- Trước vui sau khổ
- Trước sau đều khổ
- Trước sau đều vui
- Hạng người thứ nhất là sanh
vào trong gia tộc ti tiện sát nhơn mà biết thọ giáo tu pháp lành, ăn năn sám
hối cải ác tu thiện. Hạng người thứ hai là sanh vào trong giòng hào tộc, vua
chúa mà chẳng biết thụ giáo tu thiện gì cả, sẽ phải sanh vào ác thú. Hạng
người thứ ba là sanh vào trong nhà nghèo hèn mà cũng chẳng biết tu phước làm
thiện gì cả cũng sẽ sanh vào ác thú. Và hạng người thứ tư là sanh vào nhà giàu
sang mà biết tu thiện là hạng người sẽ được sanh lên trời.
- Kinh Tăng Nhứt A Hàm
-
- F.
LUÂN HỒI
- Một hôm Đức Phật ngự tại
vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc nước Xá Vệ, Ngài bảo các Tỳ kheo rằng: Nay Ta sẽ thuyết
minh pháp sanh tử nhơn duyên các ngươi hãy khéo nghe nghĩ nhớ mà tu trì. Các
Tỳ kheo thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con xin thọ giáo.
- Đức Phật nói: Pháp nhơn
duyên là: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc
duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ
duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão bệnh tử, ưu bi khổ não. Chẳng khá kể
xiết.
- Như vậy là thành tựu cái
thân năm ấm.
- Gọi cái chi là vô minh? Là
chẳng biết: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
- Gọi cái chi là hành? Ba món
hành vi của thân miệng và ý.
- Gọi cái chi là thức? Là tai
mắt mũi lưỡi thân ý sáu món.
- Gọi cái chi là danh sắc? Là
tư tưởng phân biệt gọi là danh; bốn đại nương nhau gọi là sắc. Danh sắc khác
nhau.
- Gọi các chi là sáu chỗ? Là
mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn.
- Gọi cái chi là xúc? Là thức
nương căn chạm biết cảnh, ba món này hòa hợp lại gọi là xúc.
- Gọi cái chi là thọ? Là đối
với cảnh cảm nhận khổ hay vui.
- Gọi cái chi là ái? Là khởi
dục ái, hữu ái, vô ái mà ưa đắm cái thân.
- Gọi cái chi là thủ? Là quá
ưa đắm, nắm lấy chặt chẳng buông nới.
- Gọi các chi là hữu? Lạ thọ
sanh về cõi dục, sắc, vô sắc ba cõi.
- Gọi các chi là sanh? Là cảm
nghiệp báo, sanh cái thân năm ấm.
- Gọi cái chi là lão? Là răng
rụng, đầu bạc, sức yếu, mạng giảm suy.
- Gọi cái chi là tử? Là biến
đổi vô thường, xa kẻ thân, mạng sống đoạn diệt.
- Các Tỳ kheo nên biết ấy là
pháp sanh tử nhơn duyên.
- Kinh Tăng Nhứt A Hàm
-
- Gọi là 12 nhơn duyên là:
phiền não, nghiệp và khổ, ba món này thay đổi mà làm nhơn làm duyên lẫn nhau
mãi mãi vậy.
- Bắt đầu là vô minh, ái, và
thủ là phiền não. Hành, hữu là nghiệp. Còn bảy món kia là thức, danh sắc, lục
xứ, xúc, thọ, sanh, lão tử là khổ. Do phiền não sanh nghiệp, nhơn nghiệp sanh
khổ, nhơn khổ sanh phiền não. Ba món phiền não, nghiệp và khổ này thay nhau
sanh luôn chẳng dừng như bánh xe chạy tròn.
- Luận Thập Nhị Nhơn Duyên
-
- Vua Lăng Già hỏi Phật rằng:
Thưa Đức Thế Tôn! Chúng sanh chết rồi, trong khi chưa sanh thân sau, thời thần
thức ở chỗ nào?
- Phật đáp: Đại Vương, như
hột giống sanh mộng, hột giống diệt trước, rồi sau sanh mộng, hay là mộng sanh
rồi mà sau hột giống mới diệt, hoặc là khi hột giống diệt mà mộng sanh?
- Nhà vua đáp: Khi hột giống
diệt là mộng mới sanh.
- Phật nói: Sanh diệt đồng thời không có cái nào
trước sau. Tức là khi thức trước diệt cũng tức là khi thức sau sanh.
- Kinh Lăng Già
-
- Có người Bà La môn tên là
Thân Giao nghe nói lý vô ngã, nghĩ rằng: Nếu mà vô ngã, vậy thì cái gì đến đời
sau?
- Ngài Kiều Thi Ca trả lời:
Tùy theo các hành nghiệp phiền não đời quá khứ mà được thân hiện tại này; với
đời hiện tại này lại gây nên các hành nghiệp nữa, mà được thân đời vị lai. Ví
như hột giống nhờ các trợ duyên hòa hợp mà mộng sanh; hột giống này nó sanh
mộng cần các trợ duyên, cái mộng nó thêm lớn hột giống cần phải diệt; vì hột
giống diệt nên vô thường, vì mộng sanh nên chẳng đoạn. Do đó nên Phật nói lãnh
thọ thân cũng giống như vậy. Tuy là vô ngã mà nghiệp báo chẳng sai mất.
- Bà La Môn lại hỏi: Tôi nghe
lý vô ngã được hiểu phần nào nhưng hãy còn chút nghi này nữa. Nếu là vô ngã
thời những việc làm đã qua mà sao nghĩ nhớ mà chẳng quên?
- Đáp: Vì có niệm giác nó
tương ưng với tâm, nhớ nghĩ những việc cả ba đời mà chẳng quên mất.
- Lại hỏi nữa: Nếu vô ngã
thời quá khứ đã diệt, hiện tại tâm sanh, sanh diệt đã khác; làm sao giữ nhớ
chẳng quên?
- Đáp: Mọi loài thọ sanh lấy
thức làm hột giống, cho nên khi vào trong đám ruộng mẫu thai, nhờ nước ái thủy
mà thấm nhuần, thân cây mới được sống; in như hột đào theo loài mà sanh. Thân
đời này gây nghiệp; có năng lực cảm thành thân đời sau; nhưng chẳng phải thân
đời này mà sanh ra thân đời sau được. Nó chỉ nương nghiệp nhơn duyên mà lãnh
chịu thân sau vậy thôi. Sanh diệt tuy khác mà nối nhau chẳng dứt.
- Nhơn đây, Ngài Kiều Thi Ca
thuyết thêm cho rõ: Vô minh duyên hành, hành duyên thức cho đến duyên sanh,
lão, tử ưu bi khổ não.
- Ngược lại: Vô minh diệt
thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, cho đến lão tử diệt rồi ưu bi khổ
não cũng diệt theo. Bởi vì nó theo các duyên mà có, chớ đâu có chủ tể!
- Kinh Đại Trang Nghiêm
-
- Vua Di Lan hỏi ngài Na
tiên: Thưa Tôn giả! Thân tâm hiện tại với thân tâm vị lai là đồng hay chăng?
- Ngài Na Tiên đáp: Chẳng
phải vậy, thân tâm hiện tại làm nghiệp lành dữ, vì nghiệp ấy mà sanh ra thân
tâm khác.
- Nhà vua nói: Vậy thời cái
thân tâm mới sanh chẳng cùng với ác nghiệp biệt ly sao?
- Ngài đáp: Nếu thân tâm
chẳng sanh thời không có. Nhưng thân tâm quyết định có sanh, nên ác nghiệp
không thể xa lìa được. Ví như có người cầm đèn lửa trèo lên nóc nhà mình, lợp
bằng rơm, đốm lửa rớt, nhà bị cháy, và ngọn lửa dữ lan dần cháy đến cả làng.
- Bấy giờ người làng mới bắt
được kẻ gây hỏa hoạn mà trách rằng: Sao ngươi đốt làng ta, vì cớ chi? Kẻ ấy
đáp: Ta chẳng phải đốt làng ngươi, không may đốm lửa rơi trên nóc nhà ta mà
thôi. Cái lửa ở trên cây đèn với lửa cháy nhà khác biệt vậy. Đó là lời đáp có
chắc đúng vậy chăng?
- Nhà vua đáp: Không phải,
lửa cháy làng mà có là bắt đầu từ lửa cây đèn.
- Ngài nói: Phải. Thật như vậy. Sanh thân tâm
đời trước cũng với thân tâm sanh sau là hai vật sai khác; nhưng thân tâm sẽ
sanh sau đây là cái kết quả của đời hiện tại vậy, cho nên cùng với ác nghiệp
chẳng rời nhau được.
- Kinh Na Tiên Tỳ Kheo
-
- Hết thảy chúng sanh từ hồi
nào đến giờ lắm nhiều điên đảo, lầm nhận bốn đại là tướng của tự thân, và sáu
món trần duyên ảnh là tướng của tự tâm; in như người bị bệnh mắt lầm thấy hoa
đốm giữa không trung, và mặt trăng thứ hai. Mà giữa không đâu có hoa, vì bệnh
mà lầm thấy vậy. Cho nên bị sanh tử trôi lăn gọi đó là vô minh.
- Kinh Viên Giác
-
- Vua nước Ma La Đà hỏi đức
Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn: Tất cả chúng sanh vì sao gây nghiệp?
- Đức Phật đáp: Vì nó nương
ngã kiến rồi sanh điên đảo phân biệt. Điên đảo phân biệt chính là mê lầm, bởi
mê nên gây nghiệp, rồi vì nghiệp mà chẳng được giải thoát.
- Vua hỏi: Vậy thời các ngã
kiến ấy do đâu mà có?
- Đức Phật đáp: Lấy vô minh
làm cội gốc mà có.
- Vua hỏi: Vô minh lấy cái gì
làm cô? gốc?
- Đức Phật đáp: Do ý nghĩ
trái lý làm gốc.
- Vua hỏi: Ý nghĩ trái lý lấy
gì làm gốc?
- Phật đáp: Do lòng bất bình
đẳng làm gốc.
- Vua hỏi: Lòng bất bình đẳng
là cái chi?
- Phật đáp: Từ hồi nào đến
giờ, thật chẳng biết đúng nghĩa "nhu" gọi là lòng bất bình đẳng.
- Nhà vua hỏi thêm: Kính bạch
Đức Thế Tôn! Cái nghĩa ấy như thế nào?
- Phật đáp: Nghĩa là "Thật
bất như tri" là với "không" chấp là "có". Nếu đối tất cả pháp ly trần ly kiến
mà nói đúng như thế, là lời nói chơn thật vậy.
- Kinh Pháp Tập
-
- Nghĩ nhớ thân ta nên sanh
khởi thân nghiệp, nghĩ nhớ lời ta nên khởi khẩu nghiệp; nghĩ nhớ ý ta nên sanh
ý nghiệp. Rồi sanh khởi nào là: tham lam, giận dữ, lười biếng, tán loạn, phạm
giới và ác tâm, phá hoại sáu món Ba la mật đa. Những người như thế chẳng gọi
là Bồ Tát được.
- Kinh Bát Nhã
-
- G.
CÔNG HẠNH VÀ TỪNG BỰC GIẢI THOÁT
- Căn lành có ba thứ: một căn
lành phước phần, hai căn lành giải thoát, ba căn lành đạt phần.
- Phước phần là người hay tu
nghiệp nhơn người, trời sanh về cõi người thì được giòng giàu sang hoặc vua
chúa, sanh về cõi trời thì làm vị Đế Thích, Phạm Vương.
- Giải thoát phần là hay tu
nhơn giải thoát, quyết định chẳng trở lui mà đến Niết Bàn.
- Đạt phần là hay tu nhơn, từ
noãn pháp đến thế đệ nhứt pháp.
- Người bố thí có một nắm cơm
mà có thể được món căn lành giải thoát phần, lại có người cứ giáp năm năm mở
một Đại hội bố thí mà chẳng được phần giải thoát. Hoặc có ngươi trì trai giới
trong một ngày, có thể được phần giải thoát, mà người trì trai giới trọn đời
chẳng được giải thoát. Hoặc có người tụng một bài kệ mà được phần giải thoát,
lại có người lảu thông văn nghĩa Tam Tạng mà chẳng được món căn lành của phần
giải thoát. Tại sao có sự trái ngược như thế? Nếu tu được các công hạnh như
trên mà đem tâm dũng mạnh hồi hướng về Niết Bàn giải thoát thì hẳng lìa sanh
tử, nếu chẳng đem hồi hướng như thế thời có bố thí trì giới và tu học cho đến
trọn đời cũng chẳng được giải thoát gì cả.
- Luận Bà Ta
-
- Giới, Định, Huệ, là con
đường giải thoát. Giới là nghĩa oai nghi. Định là nghĩa bất loạn. Huệ là nghĩa
trí giác, và giải thoát là nghĩa lìa trói buộc.
- Lại nữa giới: diệt trừ ác
nghiệp. Định: diệt trừ trói buộc. Huệ: diệt trừ kiến sử. Và còn ba món thiện
sai biệt nữa: Giới là sơ thiện. Định là trung thiện. Huệ là hậu thiện. Tại sao
giới là sơ thiện? Vì người có tinh tấn mới trì giới chẳng lui, bởi chẳng lui
nên mới được mừng vui, và nhờ tâm vui mới được định nên gọi là sơ thiện. Rồi
nhờ Định mà đối với tất cả pháp thấy biết đúng "Như thật" nên gọi là trung
thiện. Còn Huệ mà gọi là Hậu thiện là đã thấy biết đúng như thật. Thời chẳng
mê, do chẳng mê nên lìa dục; mà lìa dục là giải thoát chớ còn gì nữa.
- Luận Giải Thoát Đạo
-
- Giới là thềm bực của tất cả
pháp lành, mà cũng là cội gốc nữa. In như đất là chỗ sinh trưởng của tất cả cỏ
cây muôn loài.
- Kinh Niết Bàn
-
- Giới là gốc chánh thuận
giải thoát, nên gọi là giải thoát giới bổn. Nhờ giới mơi?được sanh các thiền
định và trí huệ diệt khổ, vậy nên các Tỳ kheo phải trì tịnh giới, đừng để
thiếu khuyết. Nếu ai năng trì tịnh giới thì được pháp lành; bằng không tịnh
giới, các thiện công đức không thể sanh được. Vậy nên phải biết giới là chỗ
yên ổn công đức thứ nhứt vậy.
- Kinh Di Giáo
-
- Năm giới là:
- Chẳng sát sanh
- Chẳng cho chẳng lấy
- Chẳng tà dâm
- Chẳng nói dối
- Chẳng uống rượu. Nếu ai
thường tu trì năm giới là được quả báo sanh về cõi người cõi trời.
- Kinh Trung A Hàm
- Tám giới là năm giới trước
và thêm ba giới nữa là:
- Ăn chẳng quá trưa
- Chẳng ngồi nằm tòa cao
giường rộng
- Chẳng nhảy múa, đánh nhạc
và thoa dầu thơm vào thân. Nên gọi là bát quan trai giới pháp của các Tỳ kheo
Hiền Thánh vậy.
- Kinh Tăng Nhứt A Hàm
-
- Mười pháp lành là: Thân có
3: chẳng sát, trộm, tà dâm. Khẩu có 4: chẳng nói dối, hai lưỡi, ác khẩu và nói
thêu dệt. Ý có 3: chẳng khởi tham dục, giận dữ và tà kiến.
- Kinh Hải Long Vương
-
- Mười món trọng cấm giới là:
- Chớ vì vui sát sanh
- Chớ cướp trộm của người
- Chớ cùng với đàn bà mà hành
dâm
- Chớ cố ý nói dối
- Chớ mua hay bán rượu
- Chớ nói lỗi của tứ chúng
- Chớ tự khen mình mà chê
người
- Chớ lẫn pháp với kẻ cầu
pháp mà còn hủy báng nữa
- Chớ chịu lời can rồi lại
giận dữ khước lui mà chẳng tự ăn năn
- Chớ bài báng Tam Bảo
- Tỳ kheo phạm phải 10 giới
này bị tội rất nặng.
- Kinh Phạm Võng
-
- Hỡi các Tỳ kheo: Nếu ai
nhiếp tâm thời tâm có định. Vì tâm có định mới có thể biết được pháp sanh diệt
của muôn vật. Vậy nên các ngươi thường phải tinh tấn tu tập cắc định. Nếu ai
được định thời tâm chẳng tán loạn; in như con nhà nông tiếc nước, khéo trị bờ
cõi. Các ngươi cũng nên tiếc nước trí huệ, khéo tu các thiền định, chớ để lọt
mất đi uổng lắm.
- Kinh Di Giao
-
- Nhập định tu hành tuy có
nhiều món, nhưng ai muốn vào chỉ có hai cửa này là dễ hơn, một là bất tịnh
quán, hai là trì tức niệm.
- Tu quán bất tịnh, chính vì
trừ lòng tham dục, mà đối trị tham dục có hai phương pháp: một quán thây mình;
hai quán thây người. Những kẻ sáng trí, quán thây mình từ dưới chân lên đầu
quan sát cùng khắp khiến tâm ớn nhàm. Còn kẻ tối trí, phiền não quá mạnh, khó
mà uốn dẹp được, phải nhờ sức bên ngoài mới đối trị nổi, thời cần quán thây kẻ
khác. Khi quán thây người, phải khởi lòng từ trước đã. Rồi đi đến chỗ thây
người chết nằm, do thấy tướng thây chết mà nghĩ đến tướng mình: nghĩ rằng
tướng kia đã vậy thì tướng mình cũng sẽ như thế.
- Tiếp theo cứ nương thây kia
mà làm 8 pháp quán tướng để đối trị 4 thứ tham dục: Vì trị mê tham dục hình
dung nhan sắc tướng người thời phải quán tướng xanh bầm và đen đỏ nơi thây
chết; vì trị mê tham dục tướng mạo nơi người, thời phải quán tướng thây năm
vóc rả rời và bị cầm thú giành ăn; vì trị mê về da láng, thời quán tướng thịt
xương tan nát; vì trị mê ăn mặc xinh đẹp thời quán tướng thây sình chương hôi
thúi. Rốt sau quán từng đốt xương nơi thây ấy. A? là tu bất tịnh quán vậy.
- Phương pháp trì tức niệm là
nghĩ nhớ hơi thở ra vào, chính vì để đối trị tư tưởng tán loạn. Chuyên tu pháp
nầy có 6 thứ là: đếm hơi, tùy ý, ngừng hơi, quán hơi, chuyển và định hơi vậy:
- Đếm hơi: Đếm hơi thở ra
vào, đề phòng tâm chớ cho tụ hoặc tán cảnh khác. Phàm đếm hơi, trước phải bắt
đầu từ hơi hít vào, vì con người khi mới sanh trước hít hơi thở vào; rồi khi
chết hơi thở cuối cùng là thở ra. Thở ra mà chẳng hít vào là chết. Dùng phương
pháp quan sát ngôi sanh tử như vậy, rồi tưởng đến cơn vô thường lần lần mới có
thể tu tập.
- Tùy ý: Theo dõi hơi thở ra
vào, chuyên tâm ghi nhớ nó ra vào dài hay ngắn.
- Chỉ tức: Theo dõi hơi thở
ra vào mà chuyên nhớ nó dùng đậu ở chỗ nào, khi nó dừng đậu ở chỗ nào, chẳng
hạn như ta muốn nó dừng đậu ở chỗ sống mũi, hoặc giữa chặng lông mày, hoặc
dưới ngón chân tùy ý mà an trụ thời tâm đắc các chỗ ấy.
- Quán tức: Quán hơi thở ở
trong thân như sợi dây chỉ luồng trong lòng hột chuỗi vậy.
- Chuyển tức: Quán cả vật
chất lẫn tinh thần nghĩa là bốn món đại chủng tạo sắc: "tức là đất, nước, gió,
lửa" và tâm vương cùng tâm sở đều quán cả.
- Tịnh tức: Từ địa vị thế đệ
nhứt thăng tiến mãi cho tới kiến đạo tận trí v.v… gọi là tịnh tức. Tu hai pháp
quán này là tâm được định.
- Luận Cu Xá
-
- Đức Phật dạy: Này các Tỳ
kheo! Kẻ giác ngộ là hiểu bốn đạo lý Tứ đế đúng như sự thật.
- Biết Khổ đế đúng như sự
thật, là biết 8 món khổ: sanh, già, đau, chết, xa lìa kẻ ân ái, gặp gỡ kẻ oán
thù, cầu muốn chẳng đặng và năm ấm bức bách.
- Biết Khổ Tập đế: đúng như
sự thật, là biết tâm ái trước hiện tại rồi phải chịu lấy thân và lòng tham dục
ở vị lai, là vì có thân và dục nên tìm lấy các món khổ quả.
- Biết Khổ Diệt đế là biết
ái, dục và các món khổ quả khiến dứt hẳn không còn gốc sanh tử nữa.
- Biết Khổ Đạo đế là biết tám
món Chánh đạo.
- Này các Tỳ kheo! Cần phải
biết 4 món Khổ, Tập, Diệt rồi mới tu 8 món Chánh đạo của Đạo đế là chứng được
Đạo quả vậy.
- Kinh Trung A Hàm
-
- Tám món Chánh đạo là:
- Thấy biết chơn chánh
- Suy nghĩ chơn chánh
- Nói lời chơn chánh
- Nghề nghiệp chơn chánh
- Lối sống chơn chánh
- Tinh tiến chơn chánh
- Nghĩ nhớ chơn chánh
- Thiền định chơn chánh
- Thấy biết chơn chánh là
tinh tu bố thí, lễ kính sa môn, đạo nhơn, cúng dường Phật, và hiếu thuận cha
mẹ, tu mọi pháp lành đời sau được phước.
- Suy nghĩ chơn chánh là nghĩ
nhớ đến Đạo, chẳng giận dữ, tu nhẫn nhục chẳng lấn nhau.
- Nói lời chơn chánh là chẳng
phạm lỗi nói dối thêu dệt, ác khẩu, hai lưỡi.
- Nghề nghiệp chánh, là chẳng
trộm cướp, chẳng sát sanh, chẳng mãi dâm.
- Lối sống chánh, là đối với
uống ăn giường nằm v.v… chẳng tham, xa lìa phi pháp.
- Tinh tiến chánh, là tu hạnh
tinh tiến.
- Nghĩ nhớ chánh là ý chẳng
nghĩ bậy.
- Thiền định chánh, là giữ
gìn ý thức đừng cho phạm lỗi vậy.
- Kinh Bát Chánh Đạo
-
- Dùng trí huệ quan sát
nguyên do của sanh tử: bởi "sanh" có già chết, sanh làm trợ duyên cho "già
chết"; sanh bởi "hữu" mà khởi, hữu làm trợ duyên cho sanh; hữu bởi "thủ" mà
khởi, thủ làm trợ duyên cho hữu; thủ bởi "ái" mà khởi, ái làm trợ duyên cho
thủ; ái bởi "thọ" mà khởi, thọ làm trợ duyên cho ái; thọ bởi "xúc" mà khởi,
xúc làm trợ duyên cho thọ; xúc bởi "lục xứ" mà khởi, lục xứ làm trợ duyên cho
xúc; lục xứ bởi "danh sắc" mà khởi, danh sắc làm trợ duyên cho lục xứ; danh
sắc bởi "thức" mà khởi, thức làm trợ duyên cho danh sắc; thức bởi "hành" mà
khởi, hành làm trợ duyên cho thức; hành bởi "si" mà khởi, si làm trợ duyên cho
hành.
- Bởi vì duyên "si" mới có
"hành" duyên hành mới có "thức" duyên thức mới có "danh sắc" duyên danh sắc
mới có "lục xứ", duyên lục xứ mới có "xúc" duyên xúc mới có "thọ" duyên thọ
mới có "ái" duyên ái mới có "thủ" duyên thủ mới có "hữu" duyên hữu mới có
"sanh", và duyên sanh mới có "lão bệnh tử", và "ưu bi khổ não" vậy.
- Lại cũng dùng trí huệ mà
quan sát: không có "sanh" thời không có "lão tử", không có "hữu" thời không có
sanh, không có "thủ" thời không có hữu, không có "ái" thời không có thủ, không
có "thọ" thời không có ái, không có "xúc" thời không có thọ, không có "lục xứ"
thời không có xúc, không có "danh sắc" thời không có lục xứ, không có "thức"
thời không có danh sắc, không có "hành" thời không có thức, và không có "si"
thời không có hành.
- Vậy nên "si" diệt thời
"hành" diệt, hành diệt thời "thức" diệt, thời "danh sắc" diệt, danh sắc diệt
thời "lục xứ" diệt, lục xứ diệt thời "xúc" diệt, xúc diệt thời "thọ" diệt, thọ
diệt thời "ái" diệt, ái diệt thời "thủ" diệt, thủ diệt thời "hữu" diệt, hữu
diệt thời "sanh" diệt, sanh diệt thời lão tử và ưu bi khổ não cũng diệt hết.
- Chính lúc Bồ tát suy nghĩ
và quan sát như thế, thời phát sanh ra nào là: trí kiến, pháp nhãn, giác ngộ,
sáng tỏ, thông suốt, trí huệ và chứng đạo.
- Bồ tát dùng trí quan sát 12
nhơn duyên bằng cách: thuận đi và nghịch về, (thuật ngữ lưu chuyển "đi" và
hoàn diệt "vê") đúng như thật mà hiểu biết và đúng như thật mà thấy biết xong,
tức thì chứng được quả chánh đẳng chánh giác cao tột.
- Kinh Trường A Hàm
-
- Nếu hành giả chuyên tu
"chỉ" thời tâm chím lặn, hoặc sanh trễ nhác, chẳng ưa các việc lành, xa lìa
lòng đại từ, vậy nên cần phải tu "quán" nữa. Hành giả tu quán: cần phải quan
sát các pháp hữu vi trong thế gian, chẳng đặng dừng lâu, giây lát biết hoại,
vì tất cả hành nghiệp của tâm sanh diệt từng mỗi niệm, cho nên bị khổ, nên
quán các pháp đã nghĩ niệm thời quá khứ mường tượng như chiêm bao, nên quán
các pháp đang nghĩ niệm hiện tại như điện chớp nhoáng; nên quán các pháp nghĩ
niệm ở vị lai như mây bỗng nhiên sanh khởi, và nên quán tất cả thân thể người
thế gian thảy đều bất tịnh không chút đáng ưa. Và nên nghĩ như vậy: Tất cả
chúng sanh từ hồi nào đến giờ, bởi vô minh xông ướp thành thói quen, nên khiến
tâm sanh diệt tất cả thân lẫn tâm thời quá khứ đã bị nhiều khổ não hiện tại
đang có khốn ngặt không lường; còn khổ ở vị lai cũng không ngằn mé, khó bỏ khó
rời mà nào hay biết! Những chúng sanh như thế rất là đáng thương. Suy nghĩ như
vậy, liền nên mạnh mẽ lập đại thệ nguyện: nguyện cho tâm ta, xa lìa phân biệt,
khắp cùng mười phương tu hành tất cả các công đức lành; tận cùng vị lai dùng
vô lượng phương tiện cứu vớt tất cả chúng sanh khổ não, khiến cho chứng được
vui Niết Bàn đệ nhất nghĩa.
- Vì đã thành lập thệ nguyện
như thế nên với tất cả thời, tất cả xứ có bấy nhiêu điều lành, tùy sức kham
năng của mình, chẳng bỏ tu học, tâm không trễ nhác. Duy trừ lúc tọa thiền
chuyên tu niệm về "chỉ" mà thôi, kỳ dư tất cả thời, thảy đều quan sát việc nên
làm, việc chẳng nên làm…
- Luận Đại Thừa Khởi Tín
-
- Những khi đi, đứng, ngồi
nằm và đứng dậy cần nên "chỉ quán" cùng tu một lúc đã có chỗ dạy: tuy nghĩ, tự
tánh các pháp chẳng sanh mà lại liền nghĩ: Nhơn duyên hòa hiệp thời nghiệp
lành dữ quả báo khổ vui v.v… chẳng mất chẳng hư vậy. Tuy nghĩ nhơn duyên lành
dữ nghiệp báo mà cũng liền nghĩ tánh nó chẳng khá được. Nếu tu "chỉ" thời đối
trị phàm phu tham đắm thế gian và có thể bỏ kiến chấp của bực nhị thừa khiếp
sợ. Nếu tu "quán" thời đối trị bực nhị thừa chẳng phát khởi lòng đại bi là bởi
vì tâm yếu ớt và xa lìa phàm phu chẳng tu căn lành. Vì những nghĩa ấy nên "chỉ
quán" hai món chẳng bỏ rời nhau. Nếu "chỉ quán" chẳng cùng tu một lúc thời
không thể nào vào được Đạo Bồ đề.
- Luận Đại Thừa Khởi Tín
-
- Này các Tỳ kheo! Người có
trí huệ thì không tham đắm, nên cần tự tĩnh đừng để mất chánh niệm, là ở trong
pháp Ta được Đạo quả giải thoát. Nếu bỏ mất trí huệ đã chẳng phải người Đạo
lại phi kẻ tục, chẳng biết gọi tên chi cho trúng. Kẻ thật có trí huệ tức là
con thuyền bền chắc vượt qua biển lão bệnh tử; mà cũng là ngọn đèn sáng vĩ đại
soi chỗ tối vô minh; lại cũng chính là vị thuốc hay chữa lành mọi chứng bệnh;
rồi nó cũng là cái búa bén hạ các cây phiền não.
- Vậy nên các ngươi phải lấy
ba món huệ là: văn, tư, tu mà tự lợi ích. Nếu người chỉ có ánh sáng trí huệ,
tuy chưa có thiên nhãn, nhưng cũng là kẻ minh kiến vậy.
- Kinh Di Giáo
-
- Vì sao gọi văn, tư, tu là
ba huệ? Văn huệ là khi nghe được pháp, tâm thường vui mến chẳng nhàm mỏi vậy.
Tư huệ là với tất cả pháp "hữu vi" đúng như thật tướng mà nghĩ nhớ quan sát
nhận biết: vô thường, khổ, không, vô ngã biết nó sanh diệt từng mỗi niệm.
Chẳng bao lâu bị bại diệt mà sanh lòng nhàm lìa, mới quyết lấy Phật trí huệ
vậy. Tu huệ là thật ly dục, vì dục là pháp bất thiện, rồi mới lần lữa chứng
vào Đạo vậy.
- Luận Phát Bồ Đề Tâm
-
- Có bốn pháp làm nhơn gần
cho Đại Niết Bàn:
- Gần gũi bạn lành
- Chuyên tâm nghe pháp
- Chuyên niệm suy nghĩ
- Đúng như pháp tu hành. Vì
nếu chỉ nghe suông thì chẳng được Đại Niết Bàn, nên phải có tu tập mới được
Đại Niết Bàn. Thí như người bệnh tuy được Thầy thuốc nói cho nghe tên món
thuốc, nhưng bệnh chưa thể lành, muốn bệnh lành trước phải uống thuốc.
- Kinh Niết Bàn
-
- Đức Phật bảo Ngài Đại Huệ:
Này Đại Huệ! Bồ Tát phải khéo léo quán sát hai tướng vô ngã: thường gọi người
là tướng không ta và pháp tướng không ta. Người tướng không ta là uẩn, xứ,
giới nó là cái ta và những sự vật bị có của cái ta. Do vô minh ái nghiệp sanh
khởi, mắt tai các thức mà lấy tướng sắc v.v… thành chấp trước. Thân thể và thế
giới đều là vật bị hiển hiện của tạng tâm, nối nhau từng giây lát rất ngắn,
biến hoại chẳng dừng như giòng nước chảy, như hột giống chuyển mình sanh mộng,
như ngọn đèn mãi sanh diệt, như đám mây bay lơ lửng, nó nhảy động chẳng yên
như con khỉ, nó thích ăn đồ dơ như loại ruồi lằng, nó chẳng biết nhàm đủ như
lửa dữ, vì bởi tập khí nên ở trong các loài trôi lăn chẳng dứt như bánh xe lấy
nước. Nhưng có những oai nghi động tịnh nơi thân, giống như thây chết được cử
động là nhờ sức thần chú; cũng như người gỗ nhờ máy mà cử động. Nếu ai biết rõ
được các tướng ấy là đã được vô ngã trí.
- Đại Huệ! Pháp vô ngã trí là
biết đúng như sự thật, phân biệt uẩn, xứ, giới là tánh vọng chấp mà có. Bồ tát
biết các món ấy không có cái ta và vật bị có của cái ta, chỉ bởi chất chứa dây
nghiệp ái rồi trói buộc lẫn nhau mà thay nhau sanh khởi, vì là nhơn duyên
sanh, nên biết nó vô ngã là không có kẻ năng tác.
- Này Đại Huệ! Uẩn xứ, giới
v.v… lìa đồng tướng, dị tướng. Phàm phu ngu si phân biệt bậy bạ cho là có
thật, mà các bậc Thánh chẳng cho là có. Quán sát tất các pháp như vậy, thời
gọi là Bồ tát được pháp vô ngã trí. Sau khi được trí ấy, mới biết cảnh giới
không thật có, tu hạnh tịch tịnh, chẳng bao lâu chứng được bậc Sơ hoan hỉ địa,
rồi lần lữa tiến tới chúng đến pháp vân địa.
- Kinh Lăng Già
-
- Bồ tát ở chỗ các đức Phật
nghe pháp, thọ trì, gần Thiện tri thức phụng sự chẳng mỏi, thường ưa nghe
pháp, tâm không nhàm đủ, theo pháp đã nghe đúng lý mà suy nghĩ.
- Kinh Hoa Nghiêm
-
- Khi mà Đạo trí đến, in như
mặt trời mọc, các chỗ tối chẳng biết được.
- Kinh A Xà Thế Vương
-
- Đức Phật nói: Này Xá Lợi
Phất! Thân tâm Như Lai đã được công đức khó tu khó chứng, cũng khó ngộ vào.
Trí hiểu biết tự tại đối với ngoại cảnh, chẳng vọng chấp tốt xấu mà sanh lòng
ưa ghét. Lúc ý thức duyên các pháp, cùng với thắng trí tương ưng rõ biết cảnh
sở quán, được yên lặng cao thượng. Thân tâm của Như Lai, nhờ định trí mà thành
tựu vậy. Khi ý thức duyên các pháp, cùng với thân không khác, lìa phân biệt
phải quấy. Tri ấn của Như Lai chẳng phải chỉ riêng có Ta mới có chứng được, mà
tất cả chúng sanh nào có tâm đại thừa, cầu mong chẳng nhàm chán thời được
thiền định cao tột; đem sức thắng định này mà mong cầu Phật tri ấn, thì đạt
được thể vô sở đắc. Phàm phu đến khi chết, chỉ thấy việc thân này, mà chẳng
thấy việc đời sau. Kẻ có thể thấy quả báo đời sau, chẳng phải cảnh giới phàm
phu.
- Luận Đại Trang Nghiêm
Kinh
-
- Có người Bà la môn tên là
Thân Giao nói với ngài Kiều Thi Ca rằng: Phật nói trong tất cả pháp, đều không
có cái ta sao?
- Kiều Thi Ca đáp: Ta thấy
trong Phật pháp, sanh tử không ngằn mé, vì tất cả pháp vô ngã, nếu ai chấp có
ngã, thời không thể được đạo quả giải thoát. Nếu biết vô ngã thì không tham
dục, liền được giải thoát.
- Bấy giờ Thân Giao lý luận
với Kiều Thi Ca rằng: Có kẻ bị trói mới có mở trói, mà Ngài nói không có ngã,
tức không ai bị trói, thời ai được giải thoát!
- Kiều Thi Ca đáp: Tuy vô
ngã, không trói mở, nhưng có thứ phiền não nó che khuất, nên bị trói buộc; dứt
thứ phiền não ấy thời được giải thoát.
- (Từ đây trở đi được giải
thoát từng bực).
- Kinh Đại Trang Nghiêm
-
- Thập thiện về bậc thượng,
dùng trí huệ tu hành, nhưng còn sợ hãi ba cõi, vì tâm lượng còn hẹp yếu và
thiếu tâm đại bi, chỉ nghe tiếng thuyết pháp của kẻ khác mà được rõ biết, nên
gọi là Thanh văn thừa.
- Kinh Hoa Nghiêm
-
- Thanh Văn có bậc hữu học và
vô học hữu học là ba quả: Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A na hàm; vô học là quả A
la hán.
- Luận Bà Ta
-
- Quả Tu đà hoàn còn trải qua
8 muôn kiếp; Tư đà hàm 6 muôn kiếp; A na hàm 4 muôn kiếp; và quả A la hán 2
muôn kiếp, mới chứng được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tức quả Phật
vậy.
- Kinh Niết Bàn
-
- Tịnh tu thượng phẩm thập
thiện, chẳng nhờ kẻ khác dạy, chỉ tự giác ngộ lấy mình, những đại bi phương
tiện chưa đủ, chỉ hiểu rõ pháp nhơn duyên thấm sâu, nên gọi là Duyên giác
thừa.
- Kinh Hoa Nghiêm
-
- Hỏi: Kẻ tu pháp quán sanh
diệt 12 nhơn duyên, lấy cái gì làm phương tiện?
- Đáp: Kẻ ấy mùa xuân thấy cỏ cây xinh đẹp như
ngọc lưu ly; thấy dòng sông chảy sanh bọt nước nổi lênh đênh mà trôi đến bờ;
nhận thấy các ngoại vật này quán là "sanh".
- Lại đi vào trong làng xóm,
nhận thấy kẻ trai người gái cùng nhau múa hát giỡn cười, rồi quán các kẻ này
đều cũng là "sanh".
- Sang qua mùa thu thấy cỏ
cây đều bị phong sương làm điêu tàn; thấy dòng nước khô cạn, không còn chảy
nữa; nhận thấy các ngoại vật này mới khỏi ra quán "diệt".
- Rồi cũng trở vào làng xóm,
thấy trai gái ngã lăn ra chết, những kẻ còn sống xúm lại khóc kể om sòm. Thấy
vậy rồi quán "diệt".
- Kẻ tu hành thấy các thướng như thế rồi mới
quán thân mình và suy nghĩ rằng: trai gái trẻ già đều bị vô thường chết mất,
không một ai tránh khỏi được.
- Luận Bà Ta
-
- Duyên giác thừa còn trải
qua 10 ngàn kiếp, mới chứng được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.
- Kinh Niết Bàn
-
- Tịnh tu thập thiện thượng
phẩm, tâm rộng lớn vô lượng, đầy đủ lòng thương xót, dùng phương tiện phát
khởi đại nguyện, chẳng bỏ một chút sanh, cầu đại trí chư Phật, trải qua các
địa vị Bồ tát, tu các món Ba la mật. Có thể mới thành tựu hạnh rộng lớn của Bồ
tát.
- Kinh Hoa Nghiêm
- --o0o--
|
|