|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
MỘT
- 2
-
XIII. Phẩm Lợi Dưỡng
-
1.
Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nhận lợi dưỡng
của người thật chẳng dễ, khiến người chẳng đến được chỗ vô vi.
Vì sao thế? Nếu Tỳ-kheo Tu-la-đà không tham lợi dưỡng thì đã
không ở trong pháp mà xa ba pháp y để làm cư sĩ. Tỳ-kheo
Ta-lu-đà vốn tu hạnh A-lan-nhã, đến giờ khất thực, ở một nơi,
ngồi một chỗ, hoặc ăn chính ngọ, ở dưới gốc cây, ngồi ngoài
trời, thích chỗ nhàn cư, mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc
thích ở gò mả, khắc khổ thân thể, hành hạnh đầu đà này. Lúc
này, Tỳ-kheo Tu-la-đà thường nhận sự cúng dường của quốc vương
Mãn Hô, hàng ngày cung cấp món ăn trăm vị.
-
Bấy giờ Tỳ-kheo kia
ý nhiễm thức ăn này, dần dần bỏ hạnh A-lan-nhã, đến giờ khất
thực, ở một nơi, ngồi một chỗ, ăn chính ngọ, ở dưới gốc cây,
ngồi ngoài trời, ở chỗ nhàn cư, mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba
y, hoặc thích ở gò mả, khắc khổ thân thể. Bỏ hết những điều
này, bỏ ba pháp y; vị ấy trở lại làm người bạch y, giết trâu
sát sanh chẳng thể tính kể, khi thân hoại mạng chung sanh vào
địa ngục.
-
Các Tỳ-kheo, do
phương tiện này mà biết lợi dưỡng rất nặng, khiến người chẳng
đắc đạo Vô thượng Chánh chân. Nếu chưa sanh lợi dưỡng, hãy chế
ngự khiến cho chẳng sanh; đã sanh thì tìm phương tiện khiến
tiêu diệt liền. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
2.
Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
Hãy diệt một pháp,
Ta sẽ chứng cho các Thầy thành quả thần thông, các lậu được
dứt. Thế nào là một pháp? Ðó là tham đắm mùi vị. Thế nên, các
Tỳ-kheo, hãy diệt sự tham vị này, Ta sẽ chứng cho Thầy thành
quả thần thông, các lậu được dứt.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ
-
Chúng sanh đắm vị
này.
-
Chết đọa trong
đường ác,
-
Nay nên xả dục này,
-
Liền thành A-la-hán.
-
Thế nên, các
Tỳ-kheo thường nên xả bỏ ý tưởng tham đắm vị này. Như vậy, các
Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
3. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ trong thành
Xá-vệ có một Trưởng giả vừa chết một đứa con trai mà ông rất
yêu thương chưa hề xa lìa. Ông ta thấy con chết liền phát
cuồng, đi lang thang khắp nơi, gặp ai cũng hỏi:
-
- Có thấy con tôi
không?
-
Bấy giờ ông ta đi
dần dần đến Tinh xá Kỳ Hoàn, đến chỗ Thế Tôn và đứng một bên.
Bấy giờ, ông ta bạch Thế Tôn rằng:
-
- Sa-môn Cù-đàm! Có
thấy con tôi không?
-
Thế Tôn bảo Trưởng
giả:
-
- Vì sao mặt mày
không vui, các căn rối loạn?
-
Bấy giờ Trưởng giả
thưa đức Cù-đàm:
-
- Không như vầy sao
được? Vì sao? Tôi chỉ có một đứa con, nó lại bỏ tôi mà chết.
Tôi rất nhớ thương nó, chưa hề rời mắt, vì thương xót đứa con
ấy nên tôi phát cuồng. Nay tôi hỏi Sa-môn, có thấy con tôi
không?
-
Thế Tôn dạy rằng:
-
- Ðúng vậy, Trưởng
giả. Như lời Ông hỏi: sanh, già, bịnh, chết là phép thường ở
đời; ân ái biệt ly khổ; oán ghét gặp gỡ khổ. Ðứa con vì vô
thường mà bỏ Ông há không nghĩ đến được sao?
-
Bấy giờ ông ta nghe
Thế Tôn nói, không bằng lòng bèn bỏ đi; đi đường gặp người ông
liền nói:
-
- Sa-môn Cù-đàm nói
rằng: 'Ái ân biệt ly liền có khoái lạc'. Sa-môn nói như vậy,
xét có đúng không?
-
Người kia đáp:
-
- Ân ái biệt ly mà
vui cái gì?
-
Ngay lúc đó, cách
thành Xá-vệ không xa, có nhiều người đang đánh bạc với nhau.
Bấy giờ, ông ta liền nghĩ rằng: 'Các ông này thông minh trí
tuệ, không việc gì chẳng biết. Nay ta nên đem nghĩa này hỏi
họ'.
-
Bấy giờ ông ta đến
chỗ đánh bạc hỏi mọi người rằng:
-
- Sa-môn Cù-đàm bảo
tôi rằng: 'Ân ái biệt ly khổ, oán ghét gặp gỡ khổ. Ðây là
khoái lạc'. Nay các Ông nghĩ sao?
-
Bấy giờ những người
đánh bạc đáp ông ta:
-
- Ân ái biệt ly có
gì vui? Nói là khoái lạc, nghĩa này không đúng.
-
Bấy giờ ông ta liền
nghĩ: 'Xét lời Như Lai trọn không hư dối. Sao nói xa lìa ân ái
lại có vui ư?' Nghĩa này không đúng.
-
Bấy giờ người kia
vào thành Xá-vệ, đến ngoài cửa cung kêu lên:
-
- Sa-môn Cù-đàm dạy
rằng: 'Ân ái biệt ly, oán ghét hội họp. Ðây là khoái lạc.'
-
Bấy giờ cả thành
Xá-vệ và người trong cung truyền lời này khắp nơi. Ngay lúc
đó, đại vương Ba-tư-nặc và phu nhân Mạt-lợi đang ở trên lầu
vui vầy với nhau.
-
Bấy giờ, vua
Ba-tư-nặc bảo phu nhân Mạt-lợi:
-
- Sa-môn Cù-đàm
thật có lời này: 'Ân ái ly biệt, oán ghét gặp gỡ. Ðây đều là
khoái lạc chăng?'
-
Phu nhân đáp:
-
- Tôi nghe Như Lai
dạy lời này, nhưng nếu đúng Như Lai có dạy như thế, cũng chẳng
phải là việc hư dối.
-
Vua Ba-tư-nặc bảo:
-
-
Ví như thầy
dạy đệ tử: 'Làm điều này, bỏ điều này'. Ðệ tử đáp rằng: 'Xin
vâng, Ðại sư'. Nay phu nhân Mạt-lợi, Bà cũng như thế. Sa-môn
Cù-đàm kia tuy nói lời này mà Bà ưng thuận nói rằng như thế
chẳng khác, không có hư vọng. Vậy Bà hãy đi mau, đừng có đứng
trước mặt ta.
-
Bấy giờ phu nhân
Mạt-lợi bảo Bà-la-môn Trúc-bác:
-
- Nay Ông đến Tinh
xá Kỳ Hoàn, tới chỗ Như Lai, đem tên của ta, quỳ dưới chân Như
Lai lấy nghĩa này bạch đầy đủ cho Thế Tôn rằng: 'Trong thành
Xá-vệ và người trong cung có luận bàn điều mà Sa-môn Cù-đàm
nói: 'Ân ái biệt ly, oán ghét hội họp. Ðây đều là khoái lạc'.
Chẳng rõ Thế Tôn có dạy như thế chăng?'. Nếu Thế Tôn có dạy
điều gì, Ông hãy khéo nhận lời rồi về nói lại cho ta.
-
Bấy giờ Bà-la-môn
Trúc-bác nhận sắc lịnh của phu nhân, tìm đến Tinh xá Kỳ Hoàn.
Ðến chỗ Thế Tôn chào hỏi, chào hỏi xong ngồi một bên. Rồi Phạm
chí kia bạch Thế Tôn:
-
- Phu nhân Mạt-lợi
cúi lạy Thế Tôn và thăm hỏi Như Lai có được nhẹ nhàng dễ chịu,
đi đứng có mạnh khỏe không, Giáo hóa người mê muội có mệt nhọc
không. Rồi lại nói rằng: 'Trong thành Xá-vệ này loan truyền
rằng Sa-môn Cù-đàm dạy: 'Ân ái biệt ly, oán ghét hội họp. Ðây
đều là khoái lạc'. Chẳng rõ Thế Tôn có dạy như thế chăng?'
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
Bà-la-môn Trúc-bác rằng:
-
- Ở trong thành
Xá-vệ này có một Trưởng giả bị chết mất một đứa con. Ông ta
nhớ đứa con này đến cuồng loạn mất tánh, chạy khắp Ðông Tây
gặp ai cũng hỏi: 'Ai thấy con tôi?'. Vậy thì, Bà-la-môn! Ân ái
biệt ly, oán ghét tụ hội khổ. Ðây đều không có hoan lạc.
-
Ngày xưa trong
thành Xá-vệ này, lại có người mất mẹ già, cũng cuồng loạn
chẳng biết gì cả. Lại có người mất cha già; lại cũng có anh
em, chị em thảy đều vô thường. Họ thấy sự biến đổi vô thường
này sanh ra cuồng loạn chẳng biết Ðông Tây.
-
Này Bà-la-môn! Ngày
xưa trong thành Xá-vệ này, có một người vừa rước một người vợ
đoan chánh vô song về. Bấy giờ ông ta không bao lâu bị nghèo
cùng. Cha mẹ vợ ông ta thấy ông ta nghèo liền nghĩ:
-
- 'Ta hãy đoạt con
gái về gả cho người khác'.
-
Người kia rình nghe
cha mẹ vợ muốn đoạt vợ mình để gả cho người khác. Bấy giờ, ông
ta dắt dao bên trong áo rồi đến nhà vợ. Bà vợ ông ta đang ngồi
dệt ở ngoài vách. Ông ta bước vào nhà cha mẹ vợ hỏi:
-
- 'Nay vợ tôi ở
đâu?'
-
Mẹ vợ đáp:
-
- 'Vợ con đang dệt
ở bóng mát ngoài bờ tường'.
-
Ông ta liền đến chỗ
vợ hỏi:
-
- 'Cha mẹ nàng muốn
đoạt nàng để gả cho người khác phải không?'
-
Vợ đáp:
-
- 'Thật có lời này,
nhưng tôi không ưa nghe nói vậy.'
-
Bấy giờ người kia
rút dao bén đâm chết vợ, rồi lại tự đâm vào bụng mình và nói:
-
'Cả hai ta cùng
chết'.
-
Này Bà-la-môn, hãy
dùng phương tiện này mà biết ân ái biệt ly, oán ghét hội họp
khổ. Ðây đều là buồn lo thật chẳng thể nói được.
-
Bấy giờ Bà-la-môn
Trúc-bác bạch Thế Tôn:
-
- Ðúng vậy Thế Tôn!
Có các thứ khổ não này thực chẳng vui. Vì sao thế? Xưa con có
một đứa con trai nó chết đi, bỏ con, ngày đêm con nhớ mãi
chẳng rời tâm. Rồi con vì nhớ con, tâm ý cuồng hoặc, chạy khắp
Ðông Tây, gặp người liền hỏi: 'Ai thấy con tôi?' Này Sa-môn
Cù-đàm nói thật đúng như thế. Việc nước bận rộn, con muốn về
nhiệm sở.
-
Thế Tôn dạy:
-
- Nay là đúng lúc.
-
Bà-la-môn Trúc-bác
liền từ chỗ ngồi đứng lên, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi đi.
Ðến chỗ phu nhân Mạt-lợi đem việc này tâu đầy đủ cho phu nhân.
Phu nhân Mạt-lợi liền đến chỗ vua Ba-tư-nặc thưa:
-
- Bây giờ tôi có
chỗ muốn hỏi, mong Ðại vương nghe rồi trả lời từng việc một.
Thế nào? Ðại vương có nhớ vương tử Lưu Ly chăng?
-
Vua đáp:
-
- Rất nhớ, thương
xót không rời lòng.
-
Phu nhân hỏi:
-
- Nếu vương tử chết
đi, Ðại vương có lo chăng?
-
Vua lại đáp;
-
- Ðúng vậy, phu
nhân! Như lời bà nói.
-
Phu nhân hỏi:
-
- Ðại vương nên
biết ân ái biệt ly đều gây sầu lo. Thế nào? Ðại vương có nhớ
Vương tử Y La chăng?
-
Vua đáp:
-
- Ta rất yêu kính.
-
Phu nhân hỏi:
-
- Ðại vương! Nếu
vương tử chết đi, Ðại vương có sầu lo chăng?
-
Vua đáp:
-
- Rất sầu lo.
-
Phu nhân bảo rằng:
-
- Hãy lấy phương
tiện này mà biết ân ái biệt ly không có hoạn lạc. Thế nào?
-
Ðại vương có nhớ
Tát-la-đà dòng Sát-lợi không?
-
Vua đáp:
-
- Rất yêu kính, nhớ
nghĩ.
-
Phu nhân nói:
-
- Thế nào Ðại
vương, giả sử phu nhân Tát-la-đà có sự biến đổi, Ðại vương có
lo không?
-
Vua đáp:
-
- Có lo sầu chứ!
-
Phu nhân nói:
-
- Ðại vương nên
biết ân ái biệt ly, đây đều là khổ.
-
Phu nhân lại nói:
-
- Vua nhớ thiếp
chăng?
-
Vua nói:
-
- Ta yêu nhớ Ái
khanh.
-
Phu nhân nói:
-
- Giả sử thân thiếp
biến đổi, Ðại vương có buồn lo không?
-
Vua nói:
-
- Nếu thân Khanh có
gì biến đổi, thì ta buồn lo ngay.
-
- Đại vương, hãy
dùng phương tiện này mà biết ân ái biệt ly, oán ghét gặp gỡ
không có vui vẻ gì.
-
Phu nhân lại nói:
-
- Thế nào Ðại
vương? Có nhớ nhân dân Ca-thi Câu-tát-la không?
-
- Ta rất yêu nhớ
nhân dân Ca-thi Câu-tát-la.
-
Phu nhân nói:
-
- Nhân dân Ca-thi
Câu-tát-la giả sử biến đổi, Ðại vương có buồn lo không?
-
Vua nói:
-
- Nhân dân Ca-thi
Câu-tát-la nếu có biến đổi thì mạng ta cũng chẳng còn, huống
là chỉ buồn lo. Vì sao thế? Ta nhờ sức của nhân dân nước
Ca-thi Câu-tát-la mới được tồn tại. Dùng phương tiện này biết
mạng cũng chẳng còn, hà huống chẳng sanh buồn lo!
-
Phu nhân nói:
-
- Lấy đây mà biết:
ân ái biệt ly đều có cái khổ não, không có vui vẻ.
-
Bấy giờ vua
Ba-tư-nặc, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay hướng về Thế Tôn
mà nói:
-
- Thật kỳ lạ! Thật
kỳ lạ! Thế Tôn nói được pháp này. Nếu Sa-môn Cù-đàm đến đây,
tôi sẽ cùng bàn luận.
-
Vua lại bảo phu
nhân:
-
- Từ đây về sau, ta
sẽ lại xem trọng Khanh hơn ngày thường, cho mang đồ phục sức
không khác ta.
-
Bấy giờ Thế Tôn
nghe phu nhân Mạt-lợi cùng Ðại vương lập căn bản luận này,
liền bảo các Tỳ-kheo:
-
- Phu nhân Mạt-lợi
rất thông minh. Nếu vua Ba-tư-nặc hỏi Ta lời này, Ta cũng lấy
nghĩa này mà nói cho vua ấy giống như phu nhân đã nói không
khác.
-
Ngài lại bảo các
Tỳ-kheo:
-
- Trong hàng Thanh
văn của Ta, Ưu-bà-di chứng đắc lòng tin kiên cố thuần thành
bậc nhất là phu nhân Mạt-lợi.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
4. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Bạt-kỳ, trong vườn Nai rừng Quỷ, núi Thi-mục-ma-la.
-
Bấy giờ Trưởng giả
Na-ưu-la-công đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên, chốc
lát lui ngồi bạch Thế Tôn:
-
- Nay con già cả
lại thêm bệnh tật, nhiều điều ưu não, cúi mong Thế Tôn tùy
thời dạy dỗ khiến chúng sanh được an ổn lâu dài.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
Trưởng giả rằng:
-
- Ðúng như lời Ông
nói, thân có nhiều sợ hãi, đau đớn, đâu thể nương cậy, chỉ có
một lớp da mỏng che đậy bên ngoài. Này Trưởng giả, nên biết
người ỷ lại thân này, chính là được cái vui trong chốc lát.
Ðây là tâm ngu ngốc, chẳng phải điều người trí tuệ quí. Thế
nên Trưởng giả, tuy thân có bệnh hãy khiến tâm không bệnh. Như
thế, Trưởng giả, hãy học điều này!
-
Bấy giờ Trưởng giả
nghe lời nói như thế liền từ chỗ ngồi đứng dậy cúi lạy Thế Tôn
rồi lui ra.
-
Bấy giờ Trưởng giả
lại nghĩ: 'Nay ta có thể đến hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất nghĩa
này'.
-
Tôn giả Xá-lợi-phất
đang ngồi dưới gốc cây cách đó không xa. Bấy giờ Na-ưu-la-công
đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, quỳ lạy rồi ngồi một bên.
-
Tôn giả Xá-lợi-phất
bèn hỏi Trưởng giả:
-
- Nhan mạo Ông vui
hòa, các căn tịch tĩnh ắt có lý do. Này trưởng giả, chắc Ông
đã nghe Phật nói pháp phải không?
-
Trưởng giả bạch Tôn
giả Xá-lợi-phất:
-
- Thế nào Tôn giả
Xá-lợi-phất? Làm sao nhan mạo không vui vẻ được? Vì sao thế?
Vì tôi được Thế Tôn đem pháp cam lồ tưới rót vào lòng.
-
Trưởng giả đáp
tiếp:
-
- Tôn giả
Xá-lợi-phất, tôi đến chỗ Thế Tôn quỳ lạy rồi ngồi một bên. Bấy
giờ tôi bạch Thế Tôn; 'Con tuổi già sức yếu hằng ốm bệnh tật,
khổ đau rất nhiều không thể tính kể, cúi mong Thế Tôn, phân
biệt thân này khiến khắp chúng sanh đạt được an ổn'. Bấy giờ
Thế Tôn bảo tôi rằng: 'Ðúng vậy Trưởng giả! Thân này có nhiều
suy mòn đau khổ, chỉ có lớp da mỏng che đậy bên ngoài. Trưởng
giả nên biết, người nương cậy thân này, chính có thể vui chốc
lát mà chẳng biết bị khổ vô lượng lâu dài. Thế nên, Trưởng
giả, thân này tuy có hoạn nạn, nên khiến cho tâm đừng lo hoạn.
Như thế Trưởng giả, nên học điều này'. Thế Tôn dùng pháp cam
lộ này tưới rót cho tôi.
-
Tôn giả Xá-lợi-phất
nói:
-
- Thế nào Trưởng
giả? Sao không hỏi lại Thế Tôn nghĩa này: Thế nào là thân có
hoạn mà tâm không hoạn? Thế nào là thân có bệnh, tâm không
bệnh?
-
Trưởng giả bạch Tôn
giả Xá-lợi-phất:
-
- Thật sự tôi đã
không đem việc này hỏi lại Thế Tôn là thân có hoạn, tâm không
hoạn; thân có bệnh, tâm không bệnh. Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn
giả chắc rõ việc này, mong phân biệt đầy đủ cho.
-
Tôn giả Xá-lợi-phất
nói:
-
- Hãy lắng nghe,
lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ giảng rộng nghĩa này cho
Ông.
-
- Xin vâng, Tôn giả
Xá-lợi-phất.
-
Trưởng giả vâng lời
dạy rồi, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo Ông ta:
-
- Ở đây, Trưởng
giả! Người phàm phu chẳng gặp Thánh nhân, chẳng được Thánh
giáo, chẳng theo sự dạy dỗ này, cũng chẳng gặp Thiện tri thức,
chẳng theo hầu Thiện tri thức, họ chấp sắc là ngã, sắc là của
ngã, ngã là của sắc, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc, sắc
kia sắc ta hội họp một chỗ. Sắc kia sắc ta đã hội họp một chỗ
rồi, sắc liền bại hoại, dời đổi chẳng dừng, trong đó lại khởi
sầu lo khổ, não; cũng vậy đối với thọ, tưởng, hành thức đều
quán ngã có thức, trong thức có ngã, trong ngã có thức, thức
kia thức ta hội họp một chỗ. Thức kia thức ta đã họp một chỗ
rồi, thức liền bại hoại, dời đổi chẳng dừng, trong đó lại khởi
sầu, lo, khổ, não. Như thế Trưởng giả, thân cũng có hoạn, tâm
cũng có hoạn.
-
Trưởng giả hỏi Tôn
giả Xá-lợi-phất:
-
- Thế nào là thân
có hoạn, tâm không có hoạn?
-
Tôn giả Xá-lợi-phất
nói:
-
- Ở đây, Trưởng
giả! Ðệ tử bậc Hiền Thánh thừa sự Thánh Hiền, tu hành cấm
pháp, theo hầu Thiện tri thức, thân cận Thiện tri thức. Người
đó không quán ngã có sắc, chẳng thấy trong sắc có ngã, trong
ngã có sắc, chẳng thấy sắc là của ngã, ngã là của sắc. Sắc kia
dời chuyển chẳng dừng. Sắc kia đã chuyển đổi, chẳng sanh hoạn
sầu, lo, khổ, não theo sắc, cũng lại không thấy thọ, tưởng,
hành thức; chẳng thấy trong thức có ngã, trong ngã có thức,
cũng chẳng thấy thức là của ngã, cũng chẳng thấy ngã là của
thức. Thức kia thức ngã đã hội một chỗ, thức liền bại hoại,
trong đây không khởi buồn, lo, khổ, não. Như vậy Trưởng giả!
Thân có hoạn mà tâm không hoạn. Thế nên Trưởng giả, hãy học
tập như thế, trừ thân bỏ tâm, cũng không nhiễm trước. Này
Trưởng giả, nên học điều này.
-
Bấy giờ
Na-ưu-la-công nghe Xá-lợi-phất dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
5. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn
thuyết pháp cho vài ngàn muôn chúng vây quanh trước sau. Lúc
đó Bà-la-môn Giang Trắc thân gánh một gánh nặng đến chỗ Thế
Tôn, đến rồi đặt gánh xuống đến một bên Thế Tôn, và đứng lặng
yên. Bấy giờ Bà-la-môn đó suy nghĩ thế này: 'Hôm nay Sa-môn
Cù-đàm vì mấy ngàn muôn chúng vây quanh trước sau mà thuyết
pháp. Ta nay thanh tịnh không khác gì Sa-môn Cù-đàm. Vì sao
thế? Sa-môn Cù-đàm ăn lúa gạo tốt, các thứ ngon lành. Nay ta
ăn quả trái để tự nuôi mạng sống'.
-
Bấy giờ Thế Tôn đã
biết tâm niệm Bà-la-môn liền bảo các Tỳ-kheo:
-
- Nếu có chúng sanh
đem hai mươi mốt kiết làm dính mắc tâm, nên biết người đó ắt
đọa đường ác chẳng sanh cõi lành. Thế nào là hai mươi mốt
kiết? Ðó là sân tâm kiết, nhuế hại tâm kiết, thùy miên tâm
kiết, điều hý tâm kiết, nghi tâm kiết, nộ tâm kiết, kỵ tâm
kiết, não tâm kiết, tật tâm kiết, tắng tâm kiết, vô tàm tâm
kiết, vô quý tâm kiết, huyễn tâm kiết, gian tâm kiết, ngụy tâm
kiết, tranh tâm kiết, kiêu tâm kiết, mạn tâm kiết, đố tâm
kiết, tăng thượng mạn tâm kiết, tham tâm kiết. Này các
Tỳ-kheo, nếu người có hai mươi mốt kiết làm dính mắc tâm này,
nên biết người đó ắt đọa đường ác chẳng sanh cõi lành. Ví như
áo lông dạ trắng mới, lâu ngày cũ nát có nhiều bụi bặm, ý muốn
nhuộm thành màu xanh, vàng, đỏ, đen trọn chẳng thành được. Vì
sao? Vì có bụi bặm. Như thế, này Tỳ-kheo, nếu có người đem hai
mươi mốt kiết làm dính mắc tâm này, hãy quán người này ắt đọa
đường ác chẳng sanh cõi lành. Nếu lại có người không có hai
mươi mốt kiết làm dính mắc tâm này, nên biết người đó ắt sanh
lên trời, không rơi trong địa ngục; ví như
dạ trắng sạch, mới tùy ý
muốn nhuộm màu nào: xanh, vàng, đỏ, đen ắt thành màu đó, trọn
chẳng bại hoại. Vì sao như thế? Vì nó sạch vậy. Ðây cũng như
thế, ai không có hai mươi mốt kiết này làm dính mắc tâm bên
biết người này ắt sanh lên Trời, không rơi đường ác. Nếu bậc
Hiền Thánh kia khởi sân nhuế tâm kiết, quán rồi liền có thể
dừng được; khởi nhuế hại tâm kiết, khởi thùy miên tâm kiết,
khởi điều hý tâm kiết, khởi nghi tâm kiết, khởi nộ tâm kiết,
khởi kỵ tâm kiết, khởi não tâm kiết, khởi tắng tâm kiết, khởi
vô tàm tâm kiết, khởi vô úy tâm kiết, khởi huyễn tâm kiết,
khởi gian tâm kiết, khởi ngụy tâm kiết, khởi tranh tâm kiết,
khởi kiêu tâm kiết, khởi mạn tâm kiết, khởi đố tâm kiết, khởi
tâm thượng mạn tâm kiết, khởi tham tâm kiết. Nếu bậc Hiền
Thánh kia không sân, không nhuế, không có ngu hoặc; tâm ý vui
hòa, dùng tâm từ rải khắp một phương mà tự vui thú: phương thứ
hai, phương thứ ba, phương thứ tư cũng lại như thế; bốn phía
trên, dưới, đối với một trong tất cả cũng thế. Tất cả thế gian
vô hạn vô lượng không thể tính kể; tâm không giận dữ mà tự du
hí, tâm từ này rải khắp trong đó, được hoan hỉ rồi, tâm ý liền
chính.
-
Lại dùng tâm bi rải
khắp một phương mà tự vui thú phương thứ hai, phương thứ ba,
phương thứ tư cũng lại như thế; bốn phía trên, dưới, một trong
tất cả cũng vậy. Tất cả thế gian dùng vô lượng, vô hạn cũng
không thể tính kể; tâm không giận dữ mà tự du hí, đem tâm bi
rải khắp trong đó, được hoan hỉ rồi, tâm ý liền chính.
-
Lại dùng tâm hỉ rải
khắp một phương mà tự vui thú; phương thứ hai, phương thứ ba,
phương thứ tư cũng vậy; bốn phía, trên, dưới, một trong tất cả
cũng vậy. Tất cả thế gian dùng vô lượng, vô hạn không thể tính
kể; tâm không giận dữ mà tự du hí, dùng tâm hỉ này rải khắp
trong đó, được hoan hỉ rồi, tâm ý liền chính.
-
Lại dùng tâm xả
(hộ) rải khắp một phương mà tự vui thú; phương thứ hai, phương
thứ ba, phương thứ tư cũng vậy; bốn phía, trên, dưới, một
trong tất cả cũng vậy. Tất cả thế gian dùng vô lượng, vô hạn
không thể tính kể; tâm không giận dữ mà tự du hí, đem tâm hỉ
này tràn khắp trong đó, được hoan hỉ rồi, tâm ý liền chính.
-
Lại đối với Như Lai
thành tựu tín căn, căn bản không dời, dựng cờ cao hiển không
thể di động. Chư Thiên, Long Thần, A-tu-la, Sa-môn, Bà-la-môn
hoặc Người đời, trong đây được hoan hỉ, tâm ý liền chính. Ðây
là Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo PHáp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật
Thế Tôn, trong đây được hoan hỉ, tâm ý liền chính.
-
Cũng lại thành tựu
đối với pháp. Pháp của Như Lai rất là thanh tịnh, không thể
dời đổi, được người yêu kính. Như vậy người trí nên quán điều
này, liền ở trong đó được hoan hỉ, tâm ý liền chính.
-
Cũng lại thành tựu
đối với chúng. Thánh chúng của Như Lai rất là thanh tịnh, tánh
hạnh thuần hòa, pháp pháp thành tựu, giới thành tựu, tam-muội
thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát kiến tuệ thành tựu.
Thánh chúng gồm bốn đôi tám bậc. Ðây là Thánh chúng của Như
Lai, đáng yêu, đáng quý, thật đáng thừa sự, trong đây được
hoan hỷ, tâm ý liền chính.
-
Người ấy lại dùng
tam-muội này, tâm được thanh tịnh không có vết nhơ. Các kiết
liền dứt sạch, cũng không nhiễm ô, tánh hạnh nhu nhuyến, có
được thần thông, liền tự biết được việc của vô lượng đời
trước. Từ nơi nào đến đều biết hết, như một đời, hai đời, ba
đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời,
bốn mươi đời, năm mươi đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời;
kiếp thành bại, kiếp không thành, hoại, vô số kiếp thành,
hoại, vô số kiếp không thành, hoại. 'Ta từng ở chỗ kia, tự là
gì, tên gì, họ gì, sanh như thế, ăn như thế, chịu khổ vui như
thế, thọ mạng ngắn hay dài. Từ chỗ kia chết sanh ở đây.' Như
thế tự biết việc vô số kiếp trước.
-
Lại do tam-muội
này, tâm thanh tịnh không có vết nhơ, biết tâm chúng sanh nghĩ
việc gì. Người đó lại dùng Thiên nhãn xem có người sanh, có
người chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường lành, đường ác, hoặc tốt
hoặc xấu tùy hạnh của chúng sanh, đã tạo quả báo thảy đều biết
hết. Hoặc có chúng sanh thân làm ác, miệng làm ác, tâm làm ác,
phỉ báng Hiền Thánh, tạo hạnh tà kiến, thân hoại mạng chung
sanh trong ba đường ác, trong địa ngục. Hoặc lại có chúng sanh
thân làm thiện, miệng nói thiện, tâm nghĩ thiện, không phỉ
báng Hiền Thánh, chánh kiến không có tà kiến, thân hoại mạng
chung sanh chỗ lành, lên Trời. Ðó là thiên nhãn thanh tịnh xem
các loài chúng sanh, có người sanh, có người chết, sắc đẹp,
sắc xấu, đường lành, đường ác, hoặc tốt, hoặc xấu tùy hạnh
chúng sanh, quả báo tạo ra thảy đều biết hết.
-
Người đó lại dùng
tam-muội này, tâm thanh tịnh không vết nhơ, không có kiết sử,
tâm tánh nhu nhuyến được thần thông. Lại dùng lậu tận thông mà
tự vui thú. Người đó quán khổ này, biết như thực. Lại quán khổ
tập, lại quán khổ tận, lại quán khổ xuất yếu, biết như thực.
Người đó quán như thế xong, tâm dục lậu được giải thoát, tâm
hữu lậu, tâm vô minh lậu được giải thoát. Ðược giải thoát rồi
liền được trí giải thoát: 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập,
việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân sau nữa', biết
như thực.
-
Như thế, này
Tỳ-kheo, bậc Hiền Thành tâm được giải thoát, tuy có ăn cao
lương mỹ vị, các thứ ngon lành nhiều như Tu-di cũng trọn không
tội. Vì sao? Vì không dục ái, đã dứt sạch dục ái vậy; vì không
sân, đã dứt sân vậy, vì không ngu si, đã dứt ngu si vậy. Ðây
là Tỳ-kheo ở trong Tỳ-kheo, đã tắm rửa sạch sẽ hoàn toàn bên
trong.
-
Bấy giờ Bà-la-môn ở
cạnh bờ sông bạch Thế Tôn rằng:
-
- Sa-môn Cù-đàm có
thể đến bên sông Tôn-đà-la tắm rửa.
-
Thế Tôn bảo rằng:
-
- Thế nào
Bà-la-môn, sao gọi đó là nước sông Tôn-đà-la?
-
Bà-la-môn bạch Thế
Tôn:
-
- Nước sông
Tôn-đà-la, phước của nó rất thâm sâu, là ánh sáng của đời. Nếu
có nhân vật nào tắm tại nước sông đó, tất cả các ác đều trừ
sạch cả.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Thân này vố số
kiếp,
-
Từng đến tắm sông
kia,
-
Và các ao vũng nhỏ,
-
Không đâu không
trải khắp.
-
Người ngu thường
thích đó,
-
Mờ ám không thanh
tịnh,
-
Tội cũ đầy trong
thân,
-
Sông kia sao cứu
được.
-
Người tịnh thường
an lạc,
-
Người giữ giới cũng
vậy,
-
Người sạch làm hạnh
sạch,
-
Kìa nguyện tất quả
thành,
-
Hộ trì, không chấp
thủ
-
Hành từ không sát
sanh,
-
Giữ thành thật
không dối,
-
Tâm bi không tăng
giảm.
-
Nay Ông tắm ở đây,
-
Ắt được chỗ an ổn,
-
Sông kia đến chỗ
nào,
-
Như mù nhảy vào
tối.
-
Bấy giờ Bà-la-môn
bạch Thế Tôn:
-
- Thật đầy đủ, thật
đầy đủ! Thưa Cù-đàm! Ví như người gù được thẳng, người tối
được sáng, người mê được thấy đường, như đèn sáng trong nhà
tối, làm con mắt cho người không mắt. Như vậy, Sa-môn Cù-đàm
đã dùng vô số phương tiện thuyết diệu pháp này. Nguyện xin cho
con hành đạo.
-
Bấy giờ Bà-la-môn ở
cạnh bờ sông liền được nhập đạo, thọ giới cụ túc. Cũng như
người nào có tâm xuất gia học đạo, tu Phạm hạnh vô thượng mong
đạt đến: 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã
làm xong, không còn thọ thân sau nữa', vị ấy như thực rõ biết.
Lúc này, Tôn giả Tôn-đà-la-đế-lợi thành bậc A-la-hán.
-
Bấy giờ Tôn giả
Tôn-đà-la-đế-lợi nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
6. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
thành la-duyệt, trong núi Kỳ-xà-quật cùng chúng đại Tỳ-kheo
năm trăm người.
-
Bấy giờ
Thích-đề-hoàn-nhân lúc trời đã về chiều liền đến chỗ Thế Tôn,
quỳ lạy rồi ngồi một bên. Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân liền dùng
kệ tụng hỏi nghĩa Như Lai:
-
Hay thuyết, hay
tuyên bố,
-
Vượt dòng thành vô
lậu,
-
Ðể qua vực sanh tử,
-
Nay hỏi nghĩa
Cù-đàm.
-
Con quán chúng sanh
này,
-
Việc tạo nghiệp
phước đức,
-
Tạo các hạnh dường
ấy,
-
Thí ai, phước tối
tôn?
-
Nay con tại Linh
Thứu,
-
Xin mong giảng
nghĩa này,
-
Biết ý thú của
Ngài,
-
Cũng vì người thí
nói.
-
Bấy giờ Thế Tôn
dùng kệ đáp:
-
Bốn đường tạo phước
khm
-
Bốn quả đầy đủ
thánh,
-
Các người học được
vết,
-
Nên tin phụng pháp
này.
-
Không dục cũng
không giận,
-
Hết si thành vô
lậu,
-
Vượt hết tất cả
vực,
-
Thí kia thành quả
lớn.
-
Các loại chúng sanh
này,
-
Chỗ tạo nghiệp
phước đức,
-
Tạo hạnh bao nhiêu
thứ,
-
Thí Tăng, được
phước nhiều,
-
Chúng này độ vô
lượng,
-
Như biển xuất trân
bảo,
-
Thánh chúng cũng
như vậy,
-
Diễn pháp tuệ quang
minh.
-
Cù-đàm chỗ lành
kia,
-
Người hay thí chúng
Tăng,
-
Ðược phước không
thể kể,
-
Bậc tối thắng đã
nói.
-
Khi
Thích-đề-hoàn-nhân nghe Phật dạy xong, quỳ lạy Phật rồi lui
ra.
-
Bấy giờ
Thích-đề-hoàn-nhân nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
7. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
thành La-duyệt, trong núi Kỳ-xà-quật cùng với chúng đại
Tỳ-kheo năm trăm người.
-
Bấy giờ Tôn giả
Tu-bồ-đề, cũng tại thành Vương Xá, bên cạnh núi Kỳ-xà-quật,
làm riêng một thất lợp lá để tự thiền tư. Khi ấy, Tôn giả
Tu-bồ-đề thân bị khổ hoạn rất trầm trọng, liền nghĩ rằng: 'Các
thống khổ của ta đây sanh ra từ đây, từ đâu diệt, rồi đi về
đâu?'
-
Bấy giờ Tôn giả
Tu-bồ-đề liền ở ngoài trời trải tọa cụ, chánh thân chánh ý,
chuyên chú nhất tâm, ngồi kiết-già, suy nghĩ các nhập, dục hại
thống khổ.
-
Bấy giờ
Thích-đề-hoàn-nhân, biết ý nghĩ của Tôn giả Tu-bồ-đề, liền
dùng kệ sai Ba-giá-tuần rằng:
-
Thiện nghiệp, thoát
trói buộc,
-
Ở tại núi Linh
Thứu,
-
Nay bị bịnh rất
nặng,
-
Vui không, các căn
định.
-
Mau đến thăm hỏi
bịnh,
-
Săn sóc tôn thượng
nhân,
-
Sẽ thâu được phước
lớn,
-
Trồng đức không gì
hơn.
-
Ba-giá-tuần đáp:
-
- Xin vâng, Tôn
giả.
-
Bấy giờ
Thích-đề-hoàn-nhân đem năm trăm Thiên nhân và Ba-giá-tuần; ví
như trong khoảng lực sĩ co duỗi cánh tay, liền biến mất khỏi
cõi trời Ba mươi ba; hiện đến núi Linh Thứu, cách Tôn giả
Tu-bồ-đề không xa, lại dùng kệ bảo Ba-giá-tuần rằng:
-
Nay Ông biết Thiện
Nghiệp,
-
Vui Thiền định
tam-muội,
-
Tiếng nhu hòa thanh
tịnh,
-
Nay khiến từ thiền
dậy.
-
Ba-giá-tuần đáp:
-
-
Xin vâng!
-
Bấy giờ Ba-giá-tuần
nghe lời Thích-đề-hoàn- nhân, liền đem đàn lưu ly đến trước
Tu-bồ-đề, rồi dùng kệ này khen Tu-bồ-đề rằng:
-
Kiết tận trọn vô
dư,
-
Các niệm không lầm
lẫn,
-
Các trần cấu đếu
dứt,
-
Nguyện mau từ Thiền
tỉnh.
-
Tâm dừng, qua sông
hữu,
-
Hàng ma độc các
kiết,
-
Công đức như biển
lớn,
-
Nguyện mau từ Ðịnh
khởi.
-
Mắt sạch như hoa
sen,
-
Các uế trọn chẳng
vướng,
-
Vô quy cùng tác
quy,
-
Không Định, hãy mau
dậy.
-
Vượt bốn dòng vô
vi.
-
Khéo giải không giả
bệnh,
-
Ðể thoát nạn hữu
vi,
-
Cúi mong giờ Ðịnh
tính (giác).
-
Năm trăm trời ở
trên,
-
Thích chủ cũng thân
đến,
-
Muốn hầu Thánh tôn
nhan,
-
Giải không! Hãy mau
dậy!
-
Bấy giờ Tôn giả
Tu-bồ-đề liền từ tòa đứng dậy, rồi khen Ba-giá-tuần rằng:
-
- Lành thay!
Ba-tuần! Nay tiếng Ông cùng tiếng đàn hòa, đàn cùng tiếng hòa,
không khác. Mà tiếng đàn không rời tiếng ca, tiếng ca không
rời tiếng đàn, hai việc hợp với nhau mới thành tiếng hay.
-
Bấy giờ
Thích-đề-hoàn-nhân liền đến chỗ Tôn giả Tu-bồ-đề, quỳ lạy rồi
ngồi một bên. Lúc ấy, Thích-đề-hoàn-nhân bạch Tu-bồ-đề:
-
- Ngài Thiện Nghiệp
bị bịnh khổ có tăng giảm không? Nay thân này bịnh từ đây sanh,
từ thân sanh chăng, ý sanh chăng?
-
Bấy giờ Tôn giả
Tu-bồ-đề bảo Thích-đế-hoàn-nhân rằng:
-
- Lành thay, Câu
Dực! Pháp pháp tự sanh, pháp pháp tự diệt; pháp pháp cùng
động, pháp pháp tự dừng. Ví như, này Câu Dực, có độc dược, lại
có hại độc dược. Thiên Ðế Thích! Ðây cũng là thế, pháp pháp
cùng loạn, pháp pháp tự dừng; pháp có thể sanh pháp, pháp đen
dùng pháp trắng trị, pháp trắng dùng pháp đen trị. Thiên Ðế
Thích! Người bịnh tham dục dùng bất tịnh trị, người bịnh sân
giận dùng tâm từ trị, người bịnh ngu si dùng trí tuệ trị. Như
thế, này Thích-đế-hoàn-nhân, tất cả pháp có đều quy về không,
không ngã, không nhân, không thọ, không mạng, không sĩ, không
phu, không hình, không tượng, không nam, không nữ. Ví như, này
Thích-đế-hoàn-nhân! Gió làm gãy đại thị cành lá xác xơ, mưa đá
làm hại mầm, hoa quả vừa tốt không nước bị héo, trời giáng mưa
xuống nẩy mầm được tồn tại. Như thế, Thiên Ðế Thích! Pháp pháp
cùng loạn, pháp pháp tự định. Ta vốn bịnh hoạn đau khổ não.
Hôm nay đã trừ không còn hoạn khổ nữa.
-
Bấy giờ
Thích-đế-hoàn-nhân bạch Tu-bồ-đề rằng:
-
- Tôi cũng có sầu,
lo, khổ, não. Nay nghe pháp này không còn sầu, lo nữa. Các
việc bận rộn, muốn trở về Trời, việc mình cũng có và các việc
Trời đều rất nhiều.
-
Tôn giả Tu-bồ-đề
nói:
-
- Nay chính là lúc
nên đi.
-
Bấy giờ
Thích-đế-hoàn-nhân liền từ chỗ ngồi đứng lên, quỳ lạy Tôn giả
Tu-bồ-đề, nhiễu ba vòng rồi đi.
-
Bấy giờ Tôn giả
Tu-bồ-đề liền nói kệ:
-
Năng nhân nói lời
này,
-
Căn bản đều đầy đủ,
-
Người trí được an
ổn,
-
Nghe pháp dứt các
bịnh.
-
Bấy giờ
Thích-đế-hoàn-nhân nghe Tôn giả Tu-bồ-đề nói xong, vui vẻ vâng
làm.
-
Diều-đạt và hai
kinh,
-
Da và Lợi-sư-la
-
Trúc-bác,
Tôn-đà-lợi
-
Thiện Nghiệp,
Thích-đế-hoàn
- --o0o--
|
|