|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
MỘT
- 4
-
XXII. Phẩm Cúng Dường
-
-
1. Tôi nghe như
vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có ba người,
người đời nên cúng dường. Thế nào là ba? Như Lai Chí Chân Ðẳng
Chánh Giác, người đời nên cúng dường. Bậc lậu tận A-la-hán, đệ
tử Như Lai, người đời nên cúng dường. Chuyển luân Thánh vương,
người đời nên cúng dường.
-
Có nhân duyên gì mà
Như Lai đáng được người đời cúng dường?
-
Phàm Như Lai là bậc
mà người không phục phải phục, người không hàng phải hàng, độ
được người khó độ, người chưa giải thoát khiến được giải
thoát, người chưa Bát-niết-bàn khiến thành Niết-bàn, người
không được cứu hộ khiến họ được cứu hộ, cho người mù con mắt,
giúp đỡ cho người bệnh. Ngài là bậc Tôn quý đệ nhất, Ma hoặc
Thiên ma, Trời và Người đời, ở trong đó là phước điền cao
trọng nhất, đáng kính, đáng quý, làm người dẫn đường khiến cho
người biết đường chánh, thuyết đạo dạy cho người chưa biết
đạo. Do nhân duyên này, người đời nên cúng dường.
-
Lại có nhân duyên
gì mà bậc lậu tận A-la-hán, đệ tử như Như Lai đáng được người
đời cúng dường.
-
Tỳ-kheo nên biết:
Lậu tận A-la-hán đã qua khỏi nguồn sanh tử, không còn thọ thân
sau, đã đắc pháp vô thượng, dâm nộ si dứt sạch trọn chẳng còn,
là phước điền của đời. Do nhân duyên gốc nhọn này, khiến bậc
lậu tận A-la-hán đáng được người đời cúng dường.
-
Lại nhân duyên gì
mà Chuyển luân Thánh vương đáng được người đời cúng dường?
-
Tỳ-kheo nên biết:
Chuyển luân Thánh vương dùng pháp cai trị giáo hóa, tự mình
không sát sanh, lại dạy dỗ người khác không sát sanh; tự mình
không trộm cắp cũng lại dạy người khác không trộm cắp; tự mình
không dâm dật, lại dạy người khác không hành dâm dật; tự mình
chẳng vọng ngữ cũng lại dạy người khác không vọng ngữ, tự mình
không nói hai lưỡi, cãi lộn kia đây, cũng lại dạy người khác
không nói hai lưỡi; tự mình không tật đố, giận dữ, si mê, cũng
lại dạy người khác không học tập pháp này; tự mình hành chánh
kiến, lại dạy người khác không hành tà kiến. Do nhân duyên
này, do gốc ngọn này, khiến Chuyển luân Thánh vương đáng được
người đời cúng dường.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
2. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
Tôn giả A-nan:
-
- Có ba căn lành
chẳng thể cùng tận, tiến dần đến Niết-bàn. Thế nào là ba?
Nghĩa là trồng công đức ở Như Lai, căn lành này chẳng thể cùng
tận. Trồng công đức ở Chánh pháp, căn lành này chẳng thể cùng
tận. Trồng công đức ở Thánh chúng, căn lành này chẳng thể cùng
tận. Ðó là, này A-nan, ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến
được Niết-bàn. Thế nên, này A-nan, hãy cầu phương tiện thâu
được phước chẳng thể cùng tận này. Như thế, A-nan, hãy học
điều này!
-
Bấy giờ Tôn giả
A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
3. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có ba thọ này.
Thế nào là ba? Nghĩa là thọ vui, thọ khổ, thọ không vui không
khổ. Các Tỳ-kheo nên biết: thọ vui kia là dục ái sử, thọ khổ
kia là sân nhuế sử, thọ không khổ không vui là si sử. Thế nên,
các Tỳ-kheo, hãy học phương tiện cầu diệt các sử này. Vì thế,
nên tự mạnh mẽ, nên tự tu hành pháp đáng tu hành, được pháp
không gì sánh được. Các Tỳ-kheo nên biết: Sau khi Ta diệt độ,
có Tỳ-kheo niệm tự mạnh mẽ, tu hành pháp này, được pháp không
thể so sánh. Ðây là Thanh văn bậc nhất.
-
Này Tỳ-kheo! Thế
nào là nên tự mạnh mẽ, nên tự tu hành, được pháp tu hành, được
pháp không gì sánh được?
-
Ở đây, Tỳ-kheo! Nội
tự quán thân, ngoại tự quán thân, nội ngoại tự quán thân mà tự
du hí. Nội quán thọ, ngoại quán thọ, nội ngoại quán thọ mà tự
du hí. Nội quán ý, ngoại quán ý, nội ngoại quán ý mà tự du hí.
Nội quán pháp, ngoại quán pháp, nội ngoại quán pháp mà tự du
hí. Như thế, Tỳ-kheo! Hãy tự hăng hái tu hành pháp này, được
pháp không gì sánh. Các Tỳ-kheo hành pháp này là đệ tử bậc
nhất trong hàng Thanh văn. Như thế, Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
4. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có ba việc che
giấu thì hay, lộ bày thì chẳng hay. Thế nào là ba? Ðàn bà, che
giấu thì hay, lộ bày chẳng hay. Chú thuật của Bà-la-môn che
giấu thì hay, lộ bày thì chẳng hay. Nghiệp tà kiến che giấu
thì hay, lộ bày thì chẳng hay. Ðó là, này Tỳ-kheo, có ba việc
như thế che giấu thì hay, lộ bày thì chẳng hay. Lại có ba
việc, lộ thì hay, che đậy thì chẳng hay. Thế nào là ba? Mặt
trời lộ bày thì hay, che đậy thì chẳng hay. Mặt trăng lộ bày
thì hay, che đậy thì chẳng hay. Pháp ngữ của Như Lai lộ bày
thì hay, che đậy thì chẳng hay.
-
Ðó là, nay Tỳ-kheo,
có ba việc lộ bày thì hay, che đậy thì chẳng hay.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Ðàn bà và chú
thuật,
-
Tà kiến, hạnh bất
thiện,
-
Ðây là ba pháp đời,
-
Che giấu thì tối
diệu,
-
Mặt trời, trăng
rộng chiếu,
-
Chánh ngữ pháp Như
Lai,
-
Ðây là ba pháp đời,
-
Tỏ bày hay đệ nhất.
-
Thế nên, các
Tỳ-kheo, hãy tỏ bày hiện pháp của Như Lai, chớ cho che giấu.
Như thế, Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
5. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Ðây là ba tướng
hữu vi của pháp hữu vi. Thế nào là ba? Là biết từ đâu khởi,
biết sẽ biến đổi, biết sẽ diệt tận.
-
Thế nào là biết từ
đâu khởi? Nghĩa là sanh ra, lớn lên thành hình ngũ ấm, được
các sự gìn giữ các căn (trì nhập). Ðó là biết chỗ từ đâu khởi.
-
Thế nào là diệt
tận? Nghĩa là chết, mạng sống qua mất, không dừng, vô thường,
các ấm tan hoại, dòng họ biệt ly, mạng căn đoạn dứt. Ðó là
diệt tận.
-
Thế nào biến đổi?
Răng rụng, tóc bạc, khí lực cùng kiệt, tuổi bèn suy vi, thân
thể rã rời. Ðó là pháp biến đổi. Này Tỳ-kheo! Ðó là ba tướng
hữu vi của pháp hữu vi. Nên biết ba tưóng hữu vi này và khéo
phân biệt. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
6. Tôi nghe như
vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Người ngu có ba
tướng, ba pháp không thể nhờ cậy. Thế nào là ba? Ở đây, người
ngu điều chẳng thể tư duy mà tư duy, chỗ chẳng thể luận bàn mà
luận bàn, chỗ chẳng thể hành mà tu tập.
-
Thế nào là người
ngu điều chẳng thể tư duy mà nghĩ nhớ? Ở dây, người ngu hay
nghĩ nhớ đến ba hạnh của ý. Thế nào là ba? Ở đây, người ngu
khởi tâm tật đố với tài vật và nữ sắc của người khác. Tâm nhớ
lời ác, rồi nổi lòng tật đố: 'Sở hữu của người kia mong là sẽ
cho tôi'. Như thế là người ngu, điều không thể tư duy mà tư
duy.
-
Thế nào là người
ngu, việc chẳng thể luận bàn mà lại luận bàn? Ở đây, người ngu
tạo bốn lỗi của miệng. Thế nào là bốn? Ở đây, người ngu hằng
ưa nói dối, nói lời thêu dệt, nói ác và tranh cãi kia đây. Như
thế, người ngu tạo bốn lỗi của miệng.
-
Thế nào là người
ngu tạo các hạnh ác? Ở đây, người ngu tạo hạnh ác của thân,
thường nghĩ sát sanh, trộm cắp, dâm dật. Như thế là người ngu
tạo các hạnh ác. Như thế, này Tỳ-kheo, người ngu có ba hạnh
này. Người ngu si tập ba việc này.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo!
Người trí có ba việc nên nhớ tu hành. Thế nào là ba? Ở đây,
người trí, việc đáng tư duy liền tư duy; việc đáng luận bàn
liền luận bàn, nên làm thiện liền tu hành thiện.
-
Thế nào là người
trí việc đáng tư duy liền tư duy? Ở đây, người trí tư duy ba
hạnh của ý. Thế nào là ba? Ở đây, người trí chẳng tật đố, sân
giận, si mê, thường hành chánh kiến, thấy tài vật người khác
không sanh tưởng nghĩ. Như thế người trí, việc đáng tư duy
liền tư duy.
-
Thế nào là người
trí việc đáng luận bàn liền luận bàn? Ở đây, người trí thành
tựu bốn hạnh của miệng. Thế nào là bốn? Ở đây, người trí chẳng
nói dối, cũng chẳng dạy người nói dối, thấy người nói dối, ý
không vui thích. Ðó là người trí giữ gìn miệng mình. Lại nữa,
người trí không nói ỷ ngữ, ác khẩu, tranh cãi kia đây, cũng
không dạy người khiến nói ỷ ngữ, ác khẩu, tranh cãi. Như thế
người trí thành tựu bốn hạnh của miệng.
-
Thế nào là người
trí thành tựu ba hạnh của thân? Ở đây, người trí tư duy về
thân hành không chỗ xúc chạm. Hơn nữa, người trí không tự mình
sát sanh, cũng không dạy người sát sanh, thấy người giết hại,
tâm không vui mừng, tự mình không trộm cắp, không dạy người
trộm cắp, thấy người trộm cắp, tâm không vui mừng, cũng không
dâm dật, thấy sắc đàn bà khác, tâm không khởi tưởng, cũng
không dạy người khác hành dâm dật. Nếu thấy người già, xem như
mẹ mình, bậc trung coi như chị, người nhỏ như em; ý không cao
thấp. Như thế, người trí thân thành tựu ba hạnh. Ðó là việc
làm của người trí. Như thế, Tỳ-kheo, có ba tướng hữu vi này.
Thế nên, các Tỳ-kheo, thường nên xa lìa ba tướng của người
ngu, và chớ phế bỏ ba việc làm của người trí trong chốc lát.
Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
7. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có ba pháp này
chẳng thể giác tri, chẳng thấy, chẳng nghe, mà khi qua lại
trong sanh tử, chưa từng được ngắm nhìn. Ta và các Thầy chưa
hề nghe thấy. Thế nào là ba? Nghĩa là giới của Hiền Thánh,
chẳng thể giác tri, chẳng thấy, chẳng nghe, trải qua sanh tử
chưa từng được ngắm nhìn, Ta và các Thầy chưa hề thấy nghe.
Tam-muội của Hiền Thánh, trí tuệ của Hiền Thánh, chẳng thể
giác tri, chẳng thấy, chẳng nghe. Nay như thân Ta cùng với các
Thầy thảy đều giác tri, cấm giới của Hiền Thánh, thảy đều
thành tựu, không thọ thân sau nữa, đã đoạn cội gốc sanh tử.
Thế nên, này các Tỳ-kheo, hãy nhớ tu hành ba pháp này. Như
thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
8. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có ba pháp rất
đáng kính yêu, người đời ham muốn. Thế nào là ba? Tuổi trai
trẻ (thiếu tráng), rất đáng kính yêu, người đời ham muốn.
Không bịnh rất đáng kính yêu, người đời ham muốn. Sống lâu rất
đáng kính yêu, người đời ham muốn.
-
Thế nên, này các,
có ba pháp này rất đáng kính yêu, người đời ham muốn. Lại nữa,
các Tỳ-kheo, tuy có ba pháp này rất đáng kính yêu, người đời
ham muốn, nhưng lại có ba pháp, chẳng đáng kính yêu, người đời
không ham. Thế nào là ba? Tuy có tuổi trai trẻ nhưng ắt sẽ
già, là điều chẳng đáng kính yêu, người đời không ham. Tỳ-kheo
nên biết. Tuy không có bịnh nhưng ắt sẽ bịnh, điều đó chẳng
đáng kính yêu, người đời không ham. Tỳ-kheo nên biết. Tuy có
sống lâu nhưng ắt sẽ chết, điều đó chẳng đáng kính yêu, người
đời không ham. Tỳ-kheo nên biết.
-
Thế nên, các
Tỳ-kheo, dù đang thiếu niên trai tráng, nên cầu chẳng già. Tuy
có không bịnh, nên cầu phương tiện khiến cho không có bịnh.
Tuy có sống lâu, nên cầu phương tiện khiến không mạng chung.
Như thế, Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
9. Tôi nghe như
vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Ví như mùa xuân,
trời mưa đá lớn; nếu Như Lai không ra đời chúng sanh sẽ vào
địa ngục. Cũng lại như thế, bấy giờ đàn bà sẽ vào địa ngục
nhiều hơn đàn ông. Vì sao thế? Tỳ-kheo nên biết: vì ba việc mà
chúng sanh thân hoại mạng chung phải vào ba đường ác. Thế nào
là ba? Là tham dục, thùy miên và điều hí (trạo cử). Có ba điều
này ràng buộc tâm ý, thân hoại mạng chung rơi vào ba đường ác.
Ðàn bà suốt ngày tập quen ba pháp để tự vui thú. Thế nào là
ba? Sáng sớm dùng tâm tật đố mà ràng buộc mình, đến trưa lại
đem thùy miên kết buộc, về chiều lấy tâm tham dục cột trói. Do
nhân duyên này khiến đàn bà ấy thân hoại mạng chung sanh vào
ba đường ác. Thế nên các Tỳ-kheo, hãy nhớ lìa ba pháp này.
-
Thế Tôn liền nói
kệ:
-
Tật đố, ngủ, điều
hí,
-
Tam dục là pháp ác,
-
Dắt người đến địa
ngục,
-
Rốt cuộc không giải
thoát.
-
Vì thế nên xa lìa,
-
Tật đố, ngủ, điều
hí,
-
Cũng nên lìa bỏ
dục,
-
Chớ tạo hạnh ác
kia.
-
Thế nên, các
Tỳ-kheo, hãy nhớ lìa tật đố, không tâm xan lẫn, thường hành bố
thí, không đắm thùy miên, hãy hành bất nhiễm, chẳng mắc tham
dục. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
10. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có ba pháp này,
quen thói thì không biết nhàm chán, cũng lại không thể dẫn đến
chỗ thôi dứt. Thế nào là ba? Nghĩa là tham dục, nếu có người
quen pháp này, ban đầu không chán; hoặc lại có người quen uống
rượu, ban đầu không chán; hoặc lại có người quen ngủ nghỉ, ban
đầu không chán. Ðó là, các Tỳ-kheo! Nếu có người quen ba pháp
này, ban đầu không chán, lại cũng không thể đến chỗ diệt tận.
Thế nên, các Tỳ-kheo, thường hãy bỏ lìa ba pháp này, chẳng nên
gần gũi. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
Cúng dường, ba căn
lành,
-
Ba thọ, ba che bày,
-
Tướng, pháp, ba bất
giác,
-
Kính yêu, xuân,
không đủ.
- --o0o--
|
|