|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
MỘT
- 5
-
XXIV.3. Phẩm Cao Tràng (3)
-
-
6. Tôi nghe như
vầy.
-
Một thời Phật ở
nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn
bảo các Tỳ-kheo:
-
- Trong mười
lăm ngày có ba pháp chay. Thế nào là ba? Ngày mồng tám,
ngày mười bốn, và ngày mười lăm. Tỳ-kheo nên biết, hoặc có
giờ này, mồng tám ngày chay, Tứ thiên vương sai phụ thần
quán sát thế gian xem ai làm lành, làm ác, những chúng
sanh nào hiếu thuận với cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và bậc
tôn trưởng. Nếu có chúng sanh ưa thích bố thí, tu giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, tam-muội thời phục thần sẽ diễn rộng
kinh nghĩa, trì bát quan trai, phân biệt đầy đủ.
-
Nếu không có
chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và tôn
trưởng thời phụ thần bạch Tứ thiên vương:
-
- Này thế gian
này không có chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, đạo sĩ,
hành tứ đẳng tâm, từ mẫn chúng sanh.
-
Tứ thiên vương
nghe xong, sầu lo buồn thảm chẳng vui. Lúc ấy Tứ thiên
vương liền lên trời Ðao Lợi đến giảng đường Thiện Pháp,
đem nhân duyên này bạch đầy đủ cho Ðế Thích:
-
- Thiên đế nên
biết, nay thế gian này không có chúng sanh hiếu thuận cha
mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và tôn trưởng.
-
Bấy giờ Ðế
Thích cõi trời Ba mươi ba nghe lời đó xong, đều sầu lo
buồn thảm chẳng vui vì chúng chư Thiên giảm, chúng A-tu-la
tăng.
-
Lại có lúc, nến
chúng sanh ở thế gian có người hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn,
Bà-la-môn và tôn trưởng, trì Bát quan trai, tư đức thanh
tịnh, không phạm cấm giới lớn bằng sợi tóc. Bấy giờ sứ giả
vui mừng hớn hở không kềm được, liền bạch Tứ thiên vương:
-
- Này thế gian
này có nhiều chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn,
Bà-la-môn và các tôn trưởng.
-
Thiên vương
nghe rồi rất vui mừng liền đến chỗ Thích-đề-hoàn-nhân, đem
nhân duyên này bạch đủ cho Ðế Thích:
-
- Thiên đế nên
biết, nay thế gian này có nhiều chúng sanh hiếu thuận cha
mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn trưởng.
-
Ðế Thích, cõi
trời Ba mươi ba đều hoan hỉ không kềm được vì chúng chư
Thiên tăng thêm và chúng A-tu-la bị giảm bớt. Ðịa ngục
đánh khảo tự nhiên thôi dứt độc ác, đau đớn.
-
Nếu ngày mười
bốn, vào ngày trai giới, Tứ thiên vương sai Thái tử xuống
quan sát thiên hạ, xem xét nhân dân thi hành thiện ác, xem
có chúng sanh tin Phật, tin Pháp, tin Tỳ-kheo Tăng, hiếu
thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và tôn trưởng, ưa thích bố
thí, trì Bát quan trai, đóng bít lục tình, ngăn chận ngũ
dục hay không.
-
Nếu không có
chúng sanh tu Chánh pháp, hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn,
Bà-la-môn. Bấy giờ Thái tử bạch Tứ thiên vương thời Tứ
thiên vương nghe rồi liền sầu lo buồn thảm, không vui, đến
chỗ Thích-đề-hoàn nhân đem nhân duyên này bạch đủ cho
Thiên đế:
-
- Ðại vương nên
biết, nay thế gian này không có chúng sanh hiếu thuận cha
mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và tôn trưởng.
-
Bấy giờ Thiên
đế trời Ba mươi ba đều sầu lo buồn thảm, không vui vì
chúng chư Thiên giảm, chúng A-tu-la tăng.
-
Nếu chúng sanh
lại có người hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và tôn
trưởng, trì Bát quan trai thời Thái tử vui mừng hớn hở,
không kềm được, liền đến bạch Tứ thiên vương:
-
- Ðại Vương nên
biết, nay thế gian này có nhiều chúng sanh hiếu thuận cha
mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn trưởng.
-
Khi ấy, Tứ
thiên vương nghe lời này xong, rất vui mừng liền đến
Thích-đề-hoàn-nhân, đem nhân duyên này bạch đầy đủ với
Thiên đế:
-
- Thánh vương
nên biết: Nay thế gian này có nhiều chúng sanh hiếu thuận
cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn trưởng, thọ tam quy,
có tâm từ, can gián, thành tín không khi dối.
-
Bấy giờ Thiên
đế, Tứ thiên vương và trời Ba mươi ba đều hoan hỉ không
kềm được vì chúng chư Thiên tăng, chúng A-tu-la giảm bớt.
-
Tỳ-kheo nên
biết, ngày mười lăm, lúc thuyết giới, Tứ thiên vương đích
thân xuống đi khảo sát thiên hạ, xem xét nhân dân, tìm xem
những chúng sanh nào hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn
và các tôn trưởng, ưa thích bố thí, trì Bát quan trai,
pháp trai giới của Như Lai. Nếu không có chúng sanh hiếu
thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn trưởng thì Tứ
thiên vương liền buồn bã, thảm sầu chẳng vui, đến chỗ Ðế
Thích, đem nhân duyên này bạch đủ với Thiên đế:
-
- Ðại vương nên
biết, nay thế gian này không có chúng sanh hiếu thuận cha
mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn trưởng.
-
Bấy giờ
Thích-đề-hoàn-nhân, trời Ba mươi ba đều sầu lo buồn thảm
không vui vì chúng chư Thiên giảm, chúng A-tu-la tăng
thêm.
-
Lúc đó, nếu lại
có chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các
tôn trưởng, trì Bát quan giới, thời Tứ thiên vương liền
vui mừng hớn hở không kềm được, liền đến Ðế Thích đem nhân
duyên này bạch đầy đủ cho Thiên đế:
-
- Ðại vương nên
biết, nay thế gian này có nhiều chúng sanh hiếu thuận cha
mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn và các tôn trưởng.
-
Bấy giờ
Thích-đề-hoàn-nhân, trời Ba mươi ba và Tứ thiên đế vương
đều vui mừng không thể tự kềm, vì chúng chư Thiên tăng,
chúng A-tu-la giảm bớt.
-
Thế Tôn bảo các
Tỳ-kheo:
-
- Thế nào là
ngày mười lăm trì pháp Bát quan trai?
-
Các Tỳ-kheo
bạch Thế Tôn:
-
- Như Lai là
vua các pháp, là dấu ấn của các pháp, cúi mong Thế Tôn hãy
vì các Tỳ-kheo mà diễn rộng nghĩa này, các Tỳ-kheo nghe
xong sẽ vâng làm.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Lắng nghe,
lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các Thầy phân biệt
nói đủ. Ở đây, này các Tỳ-kheo, nếu có Thiện nam tử, Thiện
nữ nhân, ngày mười bốn, ngày mười lăm trong tháng, khi
thuyết giới trì trai, đến trong bốn bộ chúng nên nói:
-
- 'Nay tôi ngày
chay, muốn trì pháp Bát quan trai. Cúi mong Tôn giả, hãy
thuyết cho tôi.'
-
Bấy giờ, bốn bộ
chúng nên dạy thuyết pháp Bát quan trai cho họ. Trước hết
dạy:
-
- 'Thiện nam
tử, hãy tự xưng tên họ.'
-
Họ đã xưng tên
rồi, bèn sẽ thuyết pháp Bát quan trai. Khi ấy, bậc giáo
thọ dạy trước người rằng:
-
- 'Nay tôi vâng
giữ pháp chay của Như Lai đến sáng sớm ngày mai, tu giới
thanh tịnh, trừ bỏ pháp ác. Nếu thân làm ác, miệng thốt
lời ác, ý sanh niệm ác, thân ba, miệng bốn, ý ba, các điều
ác hạnh đã tạo, đang tạo hoặc hay vì tham dục sẽ tạo, hoặc
hay vì sân hận sẽ tạo, hoặc hay do ngu si sẽ tạo, hoặc hay
vì hào tộc mà tạo, hoặc hay nhân ác tri thức mà tạo, hoặc
có thể do thân này, thân sau, vô số thân, hoặc hay chẳng
biết Phật, chẳng biết Pháp, hoặc hay tranh đấu với Tỳ-kheo
Tăng, hoặc hay sát hại cha mẹ và các bậc tôn trưởng. Nay
tôi tự sám hối, chẳng tự che giấu, nương theo giới, nương
theo pháp để thành tựu các giới hạnh, thọ Bát quan trai
của Như Lai.
-
Thế nào là pháp
Bát quan trai? Giữ tâm như chân nhân, trọn đời không giết,
không có tâm hại. Ðối với chúng sanh có niệm từ tâm. Nay
con tên ...., trì trai đến sáng sớm ngày mai, chẳng giết,
chẳng có tâm hại, có tâm từ đối với tất cả chúng sanh.
-
Như A-la-hán
không có tà niệm, suốt đời không trộm cắp, vui thích bố
thí. Nay con tên ... suốt đời không trộm cắp, từ nay đến
ngày mai.
-
Giữ gìn tâm như
chân thật, nay con suốt đời không dâm dật, không có tà
niệm, hằng tu Phạm hạnh, thân thể thơm sạch. Hôm nay trì
giới chẳng dâm, cũng chẳng nhớ vợ mình, cũng chẳng nghĩ
đến đàn bà khác, đến sáng sớm ngày mai không có xúc phạm.
-
Như A-la-hán
suốt đời không vọng ngữ, hằng biết chân thành chẳng dối
gạt người; từ nay đến ngày mai con không vọng ngữ. Con từ
nay về sau không nói dối nữa.
-
Như A-la-hán
suốt đời không uống rượu, tâm ý chẳng loạn, giữ gìn cấm
giới của Phật, không chỗ xúc phạm; nay con cũng sẽ như
vậy, từ hôm nay đến ngày mai không uống rượu nữa; giữ gìn
cấm giới Phật không chỗ xúc phạm.
-
Như A-la-hán
suốt đời không hoại trai pháp, hằng ăn đúng giờ, ăn ít,
biết đủ, không đắm mùi vị, nay con cũng lại như thế, suốt
đời không hoại trai pháp, hằng ăn đúng giờ, ăn ít biết đủ,
không đắm mùi vị. Từ hôm nay đến sáng mai không có xúc
phạm.
-
Như A-la-hán
suốt đời không ngồi trên giường cao rộng, giường cao rộng
là giường vàng, bạc, ngà voi, hoặc giường (sừng) tòa của
Phật, tòa Bích-chi Phật, tòa A-la-hán, tòa các Tôn sư, vậy
A-la-hán, không ngồi trên tám loại tòa này, con cũng không
chạm đến chỗ ngồi này.
-
Như A-la-hán
suốt đời không đeo hương hoa, trang điểm phấn sáp; nay con
cũng sẽ như thế, suốt đời không đeo hương hoa phấn sáp tốt
đẹp.
-
Nay con tên ...
lìa tám việc này, vâng giữ pháp Bát quan trai chẳng đọa ba
đường ác. Giữ công đức này không vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh và trong tám nạn, hằng được thiện tri thức, chẳng
theo hầu ác tri thức, hằng được sanh vào nhà cha mẹ lành,
chẳng sanh chỗ biên địa không Phật pháp, chẳng sanh cõi
trời Trường Thọ, chẳng làm nô tỳ cho người, chẳng làm Phạm
thiên, chẳng làm trời Ðế Thích, cũng chẳng làm Chuyển luân
Thánh vương, hằng sanh ở trước Phật, tự mình thấy Phật, tự
nghe Pháp, khiến các căn chẳng loạn. Con chỉ thệ nguyện
hướng Tam thừa tu hành mau thành đạo quả.
-
Tỳ-kheo nên
biết, nếu có Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trì pháp Bát quan trai
này, thiện nam tử, thiện nữ nhân đó sẽ hướng đến ba đường,
hoặc sanh trong loài Người, hoặc sanh lên Trời, hoặc nhập
Niết-bàn.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Không giết cũng
chẳng trộm,
-
Chẳng dâm,
không nói dối,
-
Tránh rượu, xa
hương hoa,
-
Người đắm vị,
phạm trai (giới).
-
Ca múa và hát
xướng,
-
Học bỏ như
La-hán,
-
Nay giữ Bát
quan trai,
-
Ngày đêm không
quên mất.
-
Không có khổ
sanh tử,
-
Không có hẹn
xoay vần,
-
Chớ cùng ân ái
nhóm,
-
Cũng chớ oán
ghét hội.
-
Nguyện diệt Năm
ấm khổ,
-
Các bịnh sanh
tử não,
-
Niết-bàn không
các hoạn,
-
Nay ta tự quay
về.
-
Thế nên các
Tỳ-kheo, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, muốn trì Bát
quan trai xa lìa các khổ, được chỗ lành, muốn được hết các
lậu, nhập vào thành Niết-bàn, nên cầu phương tiện thành
tựu pháp Bát quan trai này. Vì sao thế? Danh vị trong loài
Người chẳng đủ là quý, khoái lạc trên trời chẳng đáng khen
ngợi. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn cầu phước vô
thượng, nên tìm phương tiện thành tựu trai pháp này. Nay
Ta răn dạy các Thầy một lần nữa: Nếu có thiện nam tử,
thiện nữ nhân thành tựu Bát quan trai, muốn cầu sanh lên
cõi trời Tứ thiên vương, cũng đạt được nguyện này, người
trì giới sẽ được toại nguyện. Ta vì thế mà nói nghĩa này.
Ðịa vị vinh dự của loài Người chẳng đủ quý, nếu thiện nam
tử, thiện nữ nhân giữ Bát quan trai, thân hoại mạng chung
được sanh cõi lành, lên trời, cũng sanh Diễm thiên,
Ðâu-suất, Hóa tự tại thiên, Tha hóa Tự tại thiên, trọn
không hư dối. Vì cớ sao? Vì người trì giới này sẽ đạt được
sở nguyện.
-
Các Tỳ-kheo,
nay Ta lập cho các Thầy hay: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ
nhân trì Bát quan trai, sẽ sanh cõi Dục thiên, sanh Sắc
thiên cũng thành tựu nguyện của mình. Vì sao thế? Vì người
trì giới này sẽ đạt được sở nguyện.
-
Lại nếu thiện
nam tử, thiện nữ nhân trì Bát quan trai, muốn được sanh Vô
sắc thiên thì cũng có kết quả như nguyện. Tỳ-kheo nên
biết, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân, trì Bát quan trai,
muốn sanh trong nhà vốn dòng họ cũng lại được sanh. Lại
nữa, thiện nam tử, thiện nữ nhân trì Bát quan trai muốn
làm thiên tử một phương, hai phương, ba phương, bốn phương
cũng đạt được nguyện. Muốn cầu làm Chuyển luân Thánh vương
cũng toại nguyện. Vì sao thế? Vì người trì giới này sở
nguyện sẽ được. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn cầu
làm Thanh văn, Duyên giác, Phật thừa ắt thành như nguyện.
Nay Ta thành Phật do trì giới này. Ngũ giới, Thập thiện
không nguyện nào chẳng được.
-
Các Tỳ-kheo,
nếu muốn thành đạo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các
Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
7.
Tôi nghe như vầy.
-
Một thời Phật ở
nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn
bảo các Tỳ-kheo:
-
- Có ba việc
hiện ở trước mắt, thời thiện nam tử, thiện nữ nhân được
phước vô lượng. Thế nào là ba? Nếu tín hiện ở trước, thời
thiện nam tử, thiện nữ nhân được phước vô lượng. Nếu tài
hiện ở trước, thời thiện nam tử, thiện nữ nhân được phước
vô lượng. Nếu trì Phạm hạnh hiện ở trước, thời thiện nam
tử, thiện nữ nhân được phước vô lượng.
-
Ðó là, này
Tỳ-kheo, có ba việc này hiện ở trước sẽ được phước vô
lượng.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Tín, tài, Phạm
khó được,
-
Người thọ,
người trì giới,
-
Biết ba việc
này rồi,
-
Người trí tùy
thời thí.
-
Lâu dài được an
ổn,
-
Chư Thiên hằng
nâng đỡ,
-
Tại đó tự vui
thú,
-
Ngũ dục không
biết chán.
-
Do đó, này các
Tỳ-kheo, thiện nam tử, thiện nữ nhân, hãy tìm phương tiện
thành tựu ba pháp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học
điều này!
-
Bấy giờ các
Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
8.
Tôi nghe như vầy.
-
Một thời Phật ở
thành Câu-thâm trong vườn Cù-sư-la.
-
Bấy giờ Tỳ-kheo
ở Câu-thâm hằng ưa tranh tụng, phạm các hạnh ác, đối mặt
cãi cọ, hoặc có lúc dùng dao gậy đập nhau. Bấy giờ Thế Tôn
sáng sớm đến chỗ các Tỳ-kheo ấy. Ðến rồi, Thế Tôn bảo các
Tỳ-kheo:
-
- Tỳ-kheo các
Thầy, cẩn thận chớ gây gổ, chớ tranh phải trái với nhau.
Này các Tỳ-kheo, nên cùng hòa hợp, là bạn bè cùng một
thầy, đồng nhất như nước với sữa, sao lại gây gổ?
-
Khi ấy Tỳ-kheo
ở câu-thâm bạch Thế Tôn:
-
- Cúi mong Thế
Tôn chớ lo việc này, chúng con tự lo liệu lẽ này. Lỗi lầm
như thế, chúng con tự biết tội này.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Thế nào, các
Thầy, vì vua mà hành đạo, hay vì sợ hãi mà hành đạo, hay
vì đời sống thiếu thốn mà hành đạo?
-
Các Tỳ-kheo
đáp:
-
- Không phải
thế, bạch Thế Tôn.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Thế nào các
Tỳ-kheo, các Thầy há chẳng phải muống xa lìa sanh tử, cầu
đạo vô vi mà hành đạo sao? Nhưng thân ngũ ấm thật chẳng
thể bảo toàn.
-
Các Tỳ-kheo
đáp:
-
- Ðúng vậy, Thế
Tôn, như lời Thế Tôn dạy. Chúng con là con nhà vọng tộc,
sở dĩ xuất gia học đạo vì cầu đạo vô vi, diệt thân ngũ ấm,
thế nên học đạo.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Các Tỳ-kheo
không chịu học đạo mà lại tranh đấu đấm, đánh nhau, đối
mặt gây phải trái, nói ác với nhau. Các Thầy phải nên
thành tựu hạnh này. Cùng đồng một pháp, một thầy dạy, cũng
nên hành pháp lục hòa này, cũng nên hành thân, khẩu, ý
hành này, cũng nên hành việc cúng dường những vị Phạm
hạnh.
-
Các Tỳ-kheo
đáp:
-
- Ðây là việc
của chúng con. Thế Tôn chớ lo việc này.
-
Bấy giờ Thế Tôn
bảo các Tỳ-kheo ở Câu-thâm:
-
- Thế nào, các
Người ngu, các Thầy chẳng tin lời của Như Lai sao mà nói
Như Lai chớ lo việc này? Các Thầy sẽ tự chịu quả báo tà
kiếp này.
-
Thế Tôn lại bảo
các Tỳ-kheo ấy lần nữa:
-
- Quá khứ lâu
xa, trong thành Xá-Vệ này có vua tên Trường Thọ thông minh
trí tuệ, không việc gì chẳng biết. Nhưng tuy sành sỏi pháp
đao kiếm, nhà vua lại thiếu báu vật, các kho chẳng đầy,
tài sản giảm thiếu, bốn bộ binh cũng chẳng nhiều, quần
thần phò tá cũng ít ỏi.
-
Ngay lúc đó,
nước Ba-la-nại có vua tên Phạm-ma-đạt, dũng mãnh cương
cường, không đâu không hàng phục. Tiền tài bảy báu thảy
đều đầy kho, bốn bộ binh cũng chẳng thiếu, quần thần phò
tá đầy đủ.
-
Bấy giờ vua
Phạm-ma-đạt liền nghĩ: 'Vua Trường Thọ này không có quần
thần phò tá, lại thiếu tài sản, không có trân bảo, thời
nay ta nên đến công phạt nước ấy'.
-
Vua Phạm-ma-đạt
liền dấy binh đến chinh phạt nước kia. Vua Trường Thọ nghe
vua Phạm-ma-đạt đem binh công phạt nước mình liền thiết
bày phương kế: 'Nay ta tuy không có gia tài bảy báu, quần
thần phò ta và bốn bộ binh. Vua kia tuy có nhiều binh
lính, như ngày nay một mình ta cũng đủ sức tiêu diệt tám
trăm ngàn người kia, sát hại chúng sanh vô kể. Nhưng ta
chẳng thể lấy sự vinh quang một đời để tạo tội muôn đời.
Nay ta nên ra khỏi thành này, đến ở nước khác để không xảy
ra đấu tranh'.
-
Bấy giờ vua
Trường Thọ chẳng nói cho quần thần hay, đem đệ nhất phu
nhân và một người ra khỏi thành Xá-Vệ vào trong núi sâu.
Quần thần và nhân dân trong thành Xá-Vệ vì không thấy vua
Trường Thọ nên sai sứ đưa tin, đến chỗ vua Phạm-ma-đạt
nói:
-
- Cúi mong Ðại
vương hãy đến nước này. Nay vua Trường Thọ chẳng biết ở
đâu.
-
Phạm-ma-đạt đến
nước Ca-thi cai trị. Vua Trường Thọ có hai phu nhân đều có
thai, sắp đến ngày sanh. Lúc ấy phu nhân nằm mộng thấy
mình sanh ở giữa đô thị, lúc mặt trời vừa mọc, bốn bộ binh
cầm đao dài năm thước đi vòng quanh, chỉ sanh một mình
không người hầu hạ. Thấy rồi liền giật mình tỉnh giấc, đem
nhân duyên này kể cho vua Trường Thọ. Vua bảo phu nhân:
-
- 'Nay ta ở
trong núi sâu này, do đâu mà sanh được ở giữa đô thị trong
thành Xá-Vệ? Nay phu nhân muốn sanh, hãy như nai sanh.'
-
Lúc ấy, phu
nhân nói:
-
- 'Nếu tôi
không được sanh như thế, lúc ấy tôi sẽ chết.'
-
Vua Trường Thọ
nghe lời này rồi, ngay đêm đó đổi y phục không đem theo
ai, đi vào thành Xá-Vệ. Vua Trường Thọ có một vị đại thần
tên Thiện Hoa, rất thân thiết. Vị này có chút việc cần ra
khỏi thành và gặp vua Trường Thọ đang vào thành. Ðại thần
Thiện Hoa nhìn sửng vua rồi bỏ đi, rơi lệ thở than theo
đường mà đi. Vua Trường Thọ liền đuổi theo vị đại thần đến
một chỗ khuất mà bảo:
-
- 'Xin Ông cẩn
thận, đừng nói ra.'
-
Ðại thần đáp:
-
- 'Tôi sẽ như
lời Ðại vương dạy, Chẳng rõ minh vương có dạy bảo gì
chăng?'
-
Vua Trường Thọ
nói:
-
- 'Nếu nhớ ân
xưa của ta thì Ông nên đền đáp.'
-
Vị đại thần
đáp:
-
- 'Ðại vương có
ra lệnh, thần sẽ làm xong.'
-
Vua Trường Thọ
nói:
-
- 'Ðêm qua, phu
nhân của ta mộng sanh con giữa đô thị, lại có bốn bộ binh
vây quanh, sanh một đứa con trai hết sức đoan chính. Nếu
chẳng được sanh như mộng, trong bảy ngày phu nhân sẽ
chết.'
-
Ðại thần đáp:
-
- 'Nay thần có
thể lọ việc này như lời vua dạy.'
-
Nói lời này
xong, mỗi người bỏ đi. Ðại thần liền đến chỗ Phạm-ma-đạt,
đến rồi nói:
-
- 'Trong bảy
ngày, ý tôi muốn xem quân lính, tượng binh, mã binh, xa
binh, bộ binh của Ðại vương, rốt cuộc là bao nhiêu.'
-
Bấy giờ vua
Phạm-ma-đạt ra lệnh cho tả hữu:
-
- 'Hãy đốc thúc
quân lính như lời Thiện Hoa'.
-
Ðại thần Thiện
Hoa trong vòng bảy ngày, tụ tập quân binh tại giữa đô thị
Xá-Vệ. Vị phu nhân kia trong bảy ngày đến giữa đô thị. Ðại
thần Thiện Hoa từ xa trông thấy phu nhân đến liền nói:
-
- 'Kính chào
Hiền nữ. Nay chính đúng lúc.'
-
Lúc phu nhân
thấy bốn bộ binh rồi, lòng rất hoan hỉ, sai người hầu cận,
giăng bức màn lớn, lúc mặt trời vừa lên, phu nhân ấy liền
sanh một bé trai, đoan chánh vô song, hiếm có trên đời.
Rồi phu nhân ôm đứa bé về núi. Vua Trường Thọ xa thấy phu
nhân ôm con đến liền nói:
-
- 'Chúc Con
sống lâu, thọ mạng vô cùng.'
-
Phu nhân tâu
vua:
-
- 'Xin vua đặt
tên là Trường Sanh.'
-
Lúc thái tử
Trường Sanh vừa tám tuổi, vua cha Trường Thọ có chút việc
vào thành Xá-Vệ, bấy giờ người hớt tóc, Kiếp Tỷ ngày xưa
của vua Trường Thọ thấy vua vào thành, liền đứng ngắm mãi
từ đầu đến chân; thấy rồi, liền đến chỗ vua Phạm-ma-đạt mà
nói:
-
- 'Ðại vương
hết sức hơ hỏng, hiện nay vua Trường Thọ đang ở tại thành
này.'
-
Vua nổi giận
sai tả hữu lùng bắt vua Trường Thọ, tả hữu đại thần cùng
tên Kiếp Tỷ đi lùng bắt khắp nơi. Lúc ấy, Kiếp Tỷ xa trông
thấy vua Trường Thọ bèn chỉ và nói với các đại thần:
-
- 'Ðây là vua
Trường Thọ'.
-
Rồi tiến tới
bắt ông dẫn đến chỗ vua Phạm-ma-đạt, tâu:
-
- 'Ðại vương,
vua Trường Thọ là người này.'
-
Nhân dân trong
nước đều nghe biết vua Trường Thọ đã bị bắt. Phu nhân cũng
nghe vua Trường thọ bị Phạm-ma-đạt bắt được, liền nghĩ:
'Nay ta còn sống làm gì, thà cùng chết một lần với Ðại
vương'. Phu nhân liền dẫn thái tử vào thành Xá-Vệ. Phu
nhân bảo thái tử:
-
- 'Nay con nên
tìm chỗ sống.'
-
Thái tử Trường
Sanh nghe xong im lặng không đáp. Phu nhân đi thẳng đến
chỗ vua Phạm-ma-đạt. Vua xa trông thấy vui mừng hớn hở
không kềm được, liền sai đại thần đem phu nhân này và vua
Trường Thọ đến ngã tư đường chặt làm bốn khúc. Các đại
thần vâng lệnh vua, đem vua Trường Thọ và phu nhân trói
ngược lại, dẫn vòng quanh thành Xá-Vệ cho muôn dân xem.
Bấy giờ nhân dân ai cũng đau lòng. Thái tử Trường Sanh ở
trong đám đông thấy cha mẹ bị đem đến chợ giết, nhan sắc
không biến đổi. Vua Trường Thọ quay lại bảo Trường Sanh:
-
- 'Con chớ thấy
hay, cũng chớ thấy dở.'
-
Rồi nói bài kệ:
-
Oán oán chẳng
dừng nghỉ,
-
Từ xưa có pháp
này,
-
Không oán hay
thắng oán,
-
Pháp này trọn
bất hủ.
-
Bấy giờ các
quan bảo nhau:
-
- 'Vua Trường
Thọ hết sức ngu hoặc, thái tử Trường Sanh là người nào mà
ông ta lại ở trước chúng ta nói kệ này.'
-
Vua Trường Thọ
bảo các quan:
-
- 'Ta chẳng ngu
hoặc, chỉ có người trí trong đây rõ được lời ta. Chư Hiền
nên biết, dùng sức một người như ta đủ để làm tan hoại tám
trăm vạn người này. Nhưng ta lại nghĩ rằng: 'Chúng sanh
này, người chết khó đến. Chẳng thể vì một thân ta mà chịu
tội nhiều đời.'
-
Oán oán chẳng
dừng nghỉ,
-
Từ xưa có pháp
này,
-
Không oán hay
thắng oán,
-
Pháp này trọn
bất hủ.
-
Rồi các quan ấy
đem vua Trường Thọ và phu nhân đến ngã tư đường chặt làm
bốn phần, rồi bỏ về nhà.
-
Thái tử Trường
Sanh đến chiều thu thập cây cỏ hỏa táng cha mẹ, rồi đi.
Bấy giờ vua Phạm-ma-đạt ở trên lầu cao, xa thấy có đứa nhỏ
thiêu vua Trường Thọ và phu nhân, liền ra lệnh cho tả hữu:
-
- 'Ðây hẳn là
thân thuộc của vua Trường Thọ, các Ông mau bắt đến đây.'
-
Các thần dân
liền đến chỗ đó, chưa kịp đến thì đứa bé đã chạy mất rồi.
Khi ấy, thái tử Trường Sanh liền nghĩ: ' Vua Phạm-ma-đạt
này giết cha mẹ ta lại ở trong nước của ta, nay ta sẽ báo
oán cho cha mẹ'. Thái tử Trường Sanh liền đến chỗ thầy dạy
đàn mà nói rằng:
-
- 'Nay tôi muốn
học đàn'.
-
Thầy dạy đàn
hỏi:
-
- 'Nay con họ
gì? Cha mẹ ở đâu?'
-
Ðứa bé đáp:
-
- 'Tôi không có
cha mẹ, Tôi vốn ở trong thành Xá-Vệ này, cha mẹ mất sớm'.
-
Thầy dạy đàn
nói:
-
- 'Con muốn học
thì học.'
-
Tỳ-kheo nên
biết, bấy giờ thái tử Trường Sanh học đàn những ca khúc.
Thái tử Trường Sanh vốn thông minh, nên chưa qua mấy ngày
đã có thể đàn các ca khúc, không bài nào chẳng biết.
-
Bấy giờ, thái
tử Trường Sanh ôm đàn đến chỗ vua Phạm-ma-đạt, lúc không
người vào trong chuồng voi, ngồi đàn và hát một mình. Lúc
ấy, vua Phạm-ma-đạt ở trên lầu cao, nghe tiếng đàn ca,
liền hỏi tả hữu:
-
- 'Người nào ở
trong chuồng voi, đàn ca chơi một mình vậy?'
-
Quần thần đáp:
-
- 'Trong thành
Xá-Vệ này có một đứa bé đàn hát chơi một mình.'
-
Vua bảo người
hầu:
-
- 'Ông nên ra
lệnh cho đứa bé này đến đây chơi, ta muốn gặp nó.'
-
Người hầu gọi
đứa bé đến chỗ vua. Vua Phạm-ma-đạt hỏi đứa bé:
-
- 'Ðêm qua,
cháu đàn trong chuồng voi phải không?'
-
- 'Ðúng vậy,
Ðại vương.'
-
Phạm-ma-đạt
nói:
-
- 'Nay Ngươi
hãy ở bên ta, đánh đàn ca múa, ta sẽ cung cấp áo quần,
thức ăn.'
-
Tỳ-kheo nên
biết, bấy giờ thái tử Trường Sanh ở trước Phạm-ma-đạt đánh
đàn, ca múa hết sức tuyệt vời. Vua Phạm-ma-đạt nghe tiếng
đàn này trong lòng hoan hỉ, bèn bảo thái tử Trường Sanh:
-
- 'Người hãy
giữ kho châu báo cho ta.'
-
Thái tử Trường
Sanh nhận lời vua sai, chưa hề thất thố, thường tùy ý vua,
cười trước nói sau, thường nhường ý vua. Bấy giờ vua
Phạm-ma-đạt lại ra lệnh:
-
- 'Lành thay,
Lành thay! Nay Ngươi là người rất thông minh, nay ta cho
Ngươi vào nội cung. Ngươi hãy biết vậy.'
-
Thái tử Trường
Sanh ở trong nội cung lấy tiếng đàn dạy các kỹ nữ, cũng
lại dạy cỡi voi, ngựa, kỹ thuật, đều biết tất cả.
-
Bấy giờ
Phạm-ma-đạt muốn xuất du đạo vườn rừng và cùng nhau vui
chơi, liền sai Trường Sanh hối thúc soạn sửa xe vũ bảo.
Thái tử Trường Sanh vâng lệnh vua lo xe vũ bảo, bành voi,
vàng bạc, yên cương, rồi trở lại tâu vua:
-
- 'Xe đã sửa
sọn xong, xin Vua biết đã đến giờ'.
-
Vua Phạm-ma-đạt
đi xe vũ bảo, sai Trường Sanh đánh xe, cùng dẫn theo bốn
bộ binh. Thái tử Trường Sanh đánh xe dẫn đường, thường
tách xa đám đông. Vua Phạm-ma-đạt hỏi thái tử Trường Sanh:
-
- 'Bây giờ quân
lính đâu rồi?'
-
Trường Sanh
đáp:
-
- 'Thần cũng
chẳng biết quân lính ở đâu?'
-
Vua bảo:
-
- 'Hãy dừng lại
một chút, thân ta mỏi mệt quá chừng, muốn dừng nghỉ một
chút!'
-
Thái tử Trường
Sanh liền ngừng xe để vua nghỉ ngơi, đợi quân lính đến.
-
Tỳ-kheo nên
biết, bấy giờ vua Phạm-ma-đạt kê đầu trên đầu gối của thái
tử Trường Sanh mà ngủ vùi. Thái tử Trường Sanh thấy vua
ngủ liền nghĩ: 'Vị vua này là đại oán cừu của ta, đã giết
cha mẹ ta còn ở trên đất nước ta, nay ta không báo oán thì
lúc nào mới báo, bây giờ ta phải giết hắn'. Thái tử Trường
Sanh tay phải rút kiếm, tay trái tóm tóc vua, nhưng nghĩ
lại: 'Cha ta sắp chết đã bảo ta rằng: 'Trường Sanh nên
biết! Chớ thấy hay, cũng chớ thấy dở'. Cha ta còn nói thêm
bài kệ:
-
'Oán oán chẳng
dừng nghỉ,
-
Từ xưa có pháp
này,
-
Không oán hay
thắng oán,
-
Pháp này trọn
bất hủ.
-
'Nay ta phải bỏ
oán này'. Rồi thái tử tra kiếm vào vỏ. Như thế hai ba
phen, sau thái tử lại nghĩ: 'Vua này thật là đại oán cừu
của ta, đã giết cha mẹ ta, còn ở trên đất nước ta, nay ta
không báo oán thì ngày nào mới báo? Nay ta phải chấm dứt
mạng của ông ta mới gọi là báo oán'. Lúc ấy Thái tử lại
nhớ: 'Trường Sanh con, chớ thấy hay, cũng chớ cho là dở'.
Vua cha có lời dạy
-
'Oán oán chẳng
dừng nghỉ,
-
Từ xưa có pháp
này,
-
Không oán hay
thắng oán,
-
Pháp này trọn
bất hủ.
-
'Nay ta phải bỏ
oán này'. Rồi thái tử lại tra kiếm vào vỏ. Bấy giờ vua
Phạm-ma-đạt mộng thấy con vua Trường Thọ là thái tử Trường
Sanh muốn giết mình, khiếp sợ giật mình tỉnh giấc. Thái tử
Trường Sanh nói:
-
- 'Ðại vương!
Cớ sao kinh sợ vùng dậy đến thế?'
-
Phạm-ma-đạt
nói:
-
- 'Vừa rồi ta
ngủ mê, mộng thấy thái tử Trường Sanh con vua Trường Thọ
rút kiếm muốn giết ta. Vì thế nên ta kinh sợ.'
-
Thaí tử Trường
Sanh liền nghĩ: 'Nay vua này đã biết ta là thái tử Trường
Sanh'. Rồi rút kiếm ra, tay trái nắm tóc vua mà nói:
-
- 'Nay chính ta
là thái tử Trường Sanh, con vua Trường Thọ. Ông là kẻ thù
của ta, đã giết cha mẹ ta và còn ở trên đất nước ta, nay
ta không báo oán, còn đợi ngày nào nữa?'
-
Vua Phạm-ma-đạt
liền hướng về Trường Sanh nói:
-
- 'Nay mạng ta
ở trong tay Ông, mong rũ lòng tha ta toàn mạng'.
-
Trường Sanh
đáp:
-
- 'Ta có thể để
vua sống, nhưng vua chẳng để ta toàn mạng.'
-
Vua đáp Trường
Sanh:
-
- 'Cúi mong rũ
lòng giúp đỡ, ta trọn chẳng giết Ông.'
-
bấy giờ thái tử
Trường Sanh cùng vua đồng thề sẽ cùng tha mạng cho nhau,
không hại nhau nữa.
-
Tỳ-kheo nên
biết, lúc ấy thái tử Trường Sanh tha mạng vua. Vua
Phạm-ma-đạt bảo thái tử Trường Sanh:
-
- 'Xin thái tử
hãy cùng ta sửa soạn xe kiệu để trở về nước.'
-
Thái tử liền
sửa soạn xe, hai người cùng cỡi xe đi thẳng về Xá-Vệ. Vua
Phạm-ma-đạt liền tụ tập quần thần và nói:
-
- 'Nếu các
Khanh gặp con vua Trường Thọ, muốn bắt hắn làm gì?'
-
Trong đó, hoặc
có đại thần nói:
-
- 'Sẽ chặt tay
chân hắn.'
-
Hoặc có người
nói:
-
- 'Sẽ phân thây
hắn làm ba đoạn'.
-
Hoặc có người
nói:
-
- 'Sẽ giết
hắn.'
-
Thái tử Trường
sanh ngồi bên cạnh vua, nghiêm chỉnh, chính ý suy nghĩ
những lời này. Vua Phạm-ma-đạt liền tự mình cầm tay Thái
tử Trường Sanh, bảo mọi người:
-
- Ðây là thái
tử Trường Sanh, con vua Trường Thọ chính là người này, các
Khánh không được nói những lời như thế. Vì sao? Thái tử
Trường Sanh đã tha mạng cho ta, ta cũng tha mạng cho người
này.
-
Các quần thần
nghe xong, khen là việc chưa từng có. Vị vương thái tử này
thật là đặc biệt. Có thể đối với oán cừu mà chẳng báo oán.
Vua Phạm-ma-đạt hỏi Trường Sanh:
-
- 'Ông đáng lẽ
giết ta, do đâu lại tha chẳng giết? Có duyên cớ nào? Nay
xin được cho nghe.'
-
Trường Sanh
đáp:
-
- 'Ðại vương
khéo nghe: Phụ vương tôi lúc sắp chết, bảo tôi rằng: 'Nay
con cũng chớ thấy hay, cũng chớ thấy dở', rồi lại nói:
-
'Oán oán chẳng
dừng nghỉ,
-
Từ xưa có pháp
này,
-
Không oán hay
thắng oán,
-
Pháp này trọn
bất hủ.
-
Bấy giờ quần
thần nghe lời Phụ vương tôi nói đều bảo nhau rằng: 'Người
này điên khùng mới có nhiều lời! Trường Sanh trọn là ai?'
Vua Trường Thọ đáp: 'Các Khanh nên biết, người có trí
trong đây sẽ rõ điều này'. Tôi nhớ lại lời này của Phụ
vương nên tha vua toàn mạng.'
-
Vua Phạm-ma-đạt
nghe xong, rất lạ lùng, khen:
-
- 'Chưa từng
có, Ông hay giữ lời dạy dỗ của người cha đã mất, không
bỏ.'
-
Vua Phạm-ma-đạt
bảo thái tử:
-
- 'Nay Ông giải
nghĩa mà tôi vẫn chưa hiểu, hãy nói nghĩa này cho tôi hết
thắc mắc.'
-
Thái tử Trường
Sanh đáp:
-
- 'Ðại vương
hãy khéo nghe, tôi sẽ nói. Vua Phạm-ma-đạt giết vua Trường
Thọ. Nếu lại có quần thần hết sức thân tín của vua Trường
Thọ cũng bắt vua giết đi, thì lại có quần thần phò tá vua
Phạm-ma-đạt sẽ bắt quần thần của vua Trường Thọ mà giết.
Ðó là oán oán trọn không có dứt tuyệt. Muốn cho oán bị cắt
đứt chỉ có người không báo oán. Nay tôi xét nghĩa này
xong, thế nên không hại vua.'
-
Vua Phạm-ma-đạt
nghe lời này xong, rất vui mừng hớn hở không kềm được. Vị
vương thái tử này rất thông minh, mới có thể giảng rộng
nghĩa này. Vua Phạm-ma-đạt liền hường thái tử hối lỗi:
-
- 'Tôi tội lỗi
về việc đã bắt vua Trường Thọ giết đi.'
-
Rồi vua cỡi mão
đưa cho Trường Sanh đội vào lại gả con gái mình và giao
lại nước Xá-Vệ và dân chúng cho Trường Sanh thống lãnh.
Vua trở về cai trị Ba-la-nại. Tỳ-kheo nên biết, ngày xưa
các vua có pháp thường này; tuy có pháp 'tranh nước' này,
họ vẫn còn kham nhẫn nhau mà chẳng làm tổn hại lẫn nhau.
Huống gì, Tỳ-kheo các Thầy, do lòng tin kiên cố xuất gia
học đạo, bỏ tâm tham dục, sân hận, si mê mà nay lại đua
tranh không hòa thuận nhau, mỗi người chẳng chịu nhau,
không hối cãi. Này các Tỳ-kheo, hãy lấy nhân duyên này để
biết đấu tranh chẳng phải điều nên làm, lại đồng thầy bạn,
đồng nhất như nước với sữa, chớ cãi cọ nhau.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Không đấu,
không có tranh,
-
Tâm từ thương
tất cả,
-
Không hoạn với
tất cả,
-
Chư Phật đều
ngợi khen.
-
Thế nên, các
Tỳ-kheo, phải tu hành nhẫn nhục. Như thế, này các Tỳ-kheo,
hãy học điều này!
-
Các Tỳ-kheo ở
Câu-thâm bạch Thế Tôn:
-
- Cúi mong Thế
Tôn, chớ lo việc này. Chúng con tự sẽ làm phân minh pháp
này. Tuy Thế Tôn nói thế, nhưng việc này không đúng.
-
Khi ấy, Thế Tôn
liền bỏ đi đến nước Bạt-kỳ. Bấy giờ trong nước Bạt-kỳ có
ba vị vọng tộc là A-na-luật, Nan-đề và Kim-tỳ-la. Những vị
ấy cùng hạn định: Nếu có người ra đi khất thực, người ở
lại sau phải quét dọn cho sạch, việc việc không thiếu sót.
Người khất thực về chia thức ăn cho đủ, đủ thì tốt, không
đủ thì tùy ý. Người có dư thì để trong bình rồi bỏ đi. Nếu
người khất thực sau cùng về, đủ thì tốt, không đủ thì lấy
trong bình ra ăn, tự để vào bát, rồi xách bình nước, lại
đặt một nơi. Một ngày nên quét dọn phòng nhà, rồi ở chỗ
vắng vẻ, chánh thân, chánh ý buộc niệm ở trước, tư duy
diệu pháp. Các vị ấy không nói chuyện với nhau, mỗi người
đều tịch lặng.
-
Bấy giờ Tôn giả
A-na-luật tư duy về tưởng dục bất tịnh, niệm được an vui
mà trụ Sơ thiền. Tôn giả Nan-đề và Tôn giả Kim-tỳ-la biết
tâm niệm Tôn giả A-na-luật cũng lại tư duy tưởng dục bất
tịnh, niệm được an vui mà trụ Sơ thiền. Nếu Tôn giả
A-na-luật tư duy Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, bấy giờ
Tôn giả Nan-đề, Tôn giả Kim-tỳ-la cũng lại tư duy Nhị
thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Nếu Tôn giả A-na-luật lại tự
duy Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vô tưởng xứ,
thì Tôn giả Nan-đề cũng tư duy Không xứ, Thức xứ, Bất dụng
xứ, Hữu tưởng vô tưởng xứ. Nếu Tôn giả A-na-luật lại tư
duy Diệt tận định, thì Tôn giả Nan-đề cũng tư duy Diệt tận
định. Như thế các pháp, chư Hiền tư duy pháp này.
-
Bấy giờ Thế Tôn
đến nước Sư Tử. Khi ấy người giữ vườn từ xa trông thấy Thế
Tôn đến, liền nói:
-
- Sa-môn, chớ
có vào vườn. Vì sao thế? Vì trong vườn này có ba vị vọng
tộc tên A-na-luật, Nan-đề, Kim-tỳ-la, nên cẩn thận chớ làm
phiền rộn họ.
-
Khi ấy Tôn giả
A-na-luật dùng Thiên nhãn thanh tịnh và Thiên nhĩ thông,
nghe người giữ vườn nói với Thế Tôn như thế, không cho Thế
Tôn vào vườn. Tôn giả A-na-luật liền ra bảo người giữ cửa:
-
- Chớ ngăn, nay
Thế Tôn muốn đến đây thăm nom.
-
Tôn giả
A-na-luật liền vào báo Tôn giả Kim-tỳ-la:
-
- Ðến mau, Thế
Tôn đang ở ngoài cửa.
-
Ba Tôn giả liền
xuất định, đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên. Mỗi
người tự thưa:
-
- Kính chào đức
Thế Tôn.
-
Tôn giả
A-na-luật đỡ bình bát của Thế Tôn, Tôn giả Nan-đề trải tòa
ngồi, Tôn giả Kim-tỳ-la lấy nước cho Thế Tôn rửa chân.
-
Bấy giờ Thế Tôn
bảo A-na-luật:
-
- Ba Thầy ở đây
hòa hợp với nhau, không có nghĩ khác? Khất thực có vừa ý
không?
-
Tôn giả
A-na-luật thưa:
-
- Đúng vậy Thế
Tôn, khất thực không mệt gì. Vì sao thế? Vì nếu lúc con tư
duy Sơ thiền, thì Tôn giả Nan-đề, Tôn giả Kim-tỳ-la cũng
tư duy Sơ thiền. Nếu con tư duy Nhị thiền, Tam thiền, Tứ
thiền, Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vô tưởng
xứ, Diệt tận tam-muội, thì khi ấy Tôn giả Nan-đề, Tôn giả
Kim-tỳ-la cũng tư duy Nhị thiện, Tam thiền, Tứ thiền,
Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vô tưởng xứ,
Diệt tận định. Như vậy Thế Tôn, chúng con tư duy pháp này.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Lành thay,
lành thay, A-na-luật! Lúc ấy các Thầy có được pháp thượng
nhân chăng?
-
Tôn giả
A-na-luật thưa:
-
- Thưa vâng,
Thế Tôn, chúng con lại được pháp thượng nhân nữa.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Cái gì pháp
thượng nhân?
-
Tôn giả
A-na-luật thưa:
-
- Có diệu pháp
này vượt trên pháp thượng nhân. Nếu như chúng con lại đem
tâm từ rải khắp một phương, hai phương, ba phương, bốn
phương, cũng thế, bốn phía, trên dưới cũng vậy, mỗi mỗi
trong tất cả đều lấy tâm từ bủa đầy trong đó, vô số, vô
hạn không thể tính kể mà tự du hí. Lại đem tâm bi, tâm hỉ,
tâm xả (hộ) bủa đầy khắp một phương, hai phương, ba
phương, bốn phương cũng như thế, bốn phía trên dưới cũng
vậy mà tự du hí. Ðó là, bạch Thế Tôn, chúng con lại được
pháp thượng nhân này.
-
Bấy giờ Nan-đề,
Tôn giả Kim-tỳ-la bảo Tôn giả A-na-luật:
-
- Có hôm nào
chúng tôi đến Tôn giả hỏi nghĩa này đâu mà nay ở trước Thế
Tôn, Tôn giả tự nói ra vậy?
-
Tôn giả
A-na-luật nói:
-
- Các Thầy chưa
từng đến tôi để hỏi nghĩa này, nhưng chư Thiên đến chỗ tôi
nói, cho nên tôi ở trước Thế Tôn nói như vậy. Và lâu nay,
tôi biết tâm ý chư Hiền, chư Hiền đã đắc tam-muội này rồi,
nên trước Thế Tôn, tôi mới nói lời này.
-
Lúc đang nói
pháp này thì đại tướng Trường Thọ đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy
rồi ngồi một bên. Ðại tướng Trường Thọ bạch Thế Tôn:
-
- Hôm nay Thế
Tôn thuyết pháp cho những vị này sao?
-
Thế Tôn đem
việc này kể cho đại tướng Trường Thọ nghe. Ðại tướng bạch
Phật:
-
- Ðại quốc
Bạt-kỳ chóng được lợi lớn: Có ba vị vọng tộc này du hóa,
đó là A-na-luật, Nan-đề và Kim-tỳ-la.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Ðúng thế, Ðại
tướng, như lời Ông nói. Ðại quốc Bạt kỳ chóng được lợi
lành, không kể nước Bạt-kỳ mà nước Ma-kiệt cũng chóng được
lợi lành vì có ba vị vọng tộc này, nếu nhân dân trong nước
Ma-kiệt nhớ đến ba vị vọng tộc này liền được an ổn lâu
dài. Ðại tướng nên biết, nếu huyện, ấp, thành quách nào có
ba vị vọng tộc này, nhân dân trong thành quách ấy sẽ được
an ổn lâu dài. Nhà nào sanh ra ba vị vọng tộc này cũng
được lợi lớn vì đã sanh ra những bậc thượng tôn này. Năm
dòng họ thân tộc cha mẹ kia nếu nhớ đến ba vị vọng tộc này
cũng được lợi lớn. Nếu Trời, Rồng, Quỷ, Thần nhớ ba vị
vọng tộc này cũng được lợi lớn. Nếu có người khen ngợi bậc
A-la-hán thời cũng nên khen ngợi ba vị này. Nếu có người
khen ngợi bậc không tham dục, không ngu si, không sân giận
thời cũng nên khen ngợi va vị này. Như Ta ở trong ba
a-tăng-kỳ kiếp, hành cần khổ thành đạo vô thượng, khiến ba
vị này thành tựu pháp nghĩa này. Thế nên Ðại tướng, hãy
học điều này!
-
Bấy giờ Ðại
tướng nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
9. Tôi nghe như
vầy.
-
Một thời Phật ở
nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn
bảo các Tỳ-kheo:
-
- Có ba kiết sử
trói buộc khiến chúng sanh không thể từ bờ này đến bờ kia
được. Thế nào là ba? Ðó là thân tà (kiến), nghi, giới đạo.
-
Thế nào gọi là
thân tà? Nghĩa là chấp thân có ngã, sanh tưởng ngô ngã, có
tưởng chúng sanh, có mạng, có thọ, có người, có sĩ phu, có
duyên, có dính mắc. Ðó gọi là kiết (trói buộc) của thân
tà.
-
Thế nào gọi là
nghi kiết? Nghĩa là nghi có ngã không? Không ngã chăng? Có
sanh chăng? Vô sanh chăng? Có ngã, nhân, thọ mạng chăng?
Không ngã, nhân, thọ mạng chăng? Có cha mẹ chăng? Không
cha mẹ chăng? Có đời này, đời sau chăng? Không đời này,
đời sau chăng? Có Sa-môn, Bà-la-môn chăng? Không Sa-môn,
Bà-la-môn chăng? Ðời có A-la-hán chăng? Ðời không A-la-hán
chăng? Có người chứng đắc chăng? Không chứng đắc chăng? Ðó
gọi là nghi kiết.
-
Thế nào gọi là
giới đạo kiết? Nghĩa là giới cấm thủ. Ta sẽ do giới này
được sanh vào nhà danh tiếng, sanh nhà trưởng giả, sanh
nhà Bà-la-môn, hoặc sanh lên Trời hay trong chư Thần. Ðó
gọi là giới đạo kiết.
-
Như thế, này
Tỳ-kheo, có ba kiết này trói buộc chúng sanh, khiến không
thể từ bỏ bên này đến được bờ bên kia. Như hai con trâu
chung một ách trọn chẳng thể rời nhau. Chúng sanh này cũng
lại như thế, bị ba kiết trói không thể từ bờ bên này đến
bờ kia.
-
Thế nào là bờ
này? Thế nào là bờ kia? Bờ bên này tức là thân tà vậy. Bờ
bên kia là thân tà diệt. Ðó là, này Tỳ-kheo, ba kiết trói
buộc chúng sanh không thể từ bỏ bờ này đến bờ kia. Thế
nên, các Tỳ-kheo, nên tìm phương tiện diệt ba kiết này.
Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các
Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
10.
Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-Vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn
bảo các Tỳ-kheo:
-
- Có ba
tam-muội này. Thế nào là ba? Ðó là không tam-muội, vô
nguyện tam-muội, vô tưởng tam-muội.
-
Thế nào gọi là
không tam-muội? Không là quán tất cả các pháp đều tất sẽ
rỗng không. Ðó là không tam-muội.
-
Thế nào gọi là
vô tưởng tam-muội? Vô tưởng là đối với tất cả các pháp đều
không tưởng niệm cũng không đáng thấy. Ðó gọi là vô tưởng
tam-muội.
-
Thế nào gọi là
vô nguyện tam-muội? Vô nguyện là đối với tất cả các pháp
cũng không mong cầu. Ðó gọi là vô nguyện tam-muội.
-
Như thế, này
Tỳ-kheo, nếu không được ba tam-muội này thì ở mãi trong
sanh tử, không thể tự giác ngộ. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên
tìm phương tiện được ba tam-muội này. Như vậy, này các
Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các
Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
Tràng, Tỳ-sa,
Pháp vương,
-
Cù-mặc, thần
túc hóa,
-
Trai giới, hiện
tại tiền,
-
Trường Thọ,
kiết, tam-muội.
- --o0o--
|
|