|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
HAI
- 3
-
XXXIII. Phẩm Ngũ Vương
-
-
1. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ năm vị quốc vương lớn, vua
Ba-tư-nặc đứng đầu, tụ tập trong vườn ngắm cảnh, cùng nhau bàn luận. Năm vua
nào? Ðó là vua Ba-tư-nặc, vua Tỳ-sa, vua Ưu Ðiền, vua Ác Sanh, vua Ưu-đà-diên.
-
Năm vua tụ tập một nơi, bàn luận
việc này:
-
- Chư Hiền! Nên biết Như Lai nói
năm dục này. Thế nào là năm? Nếu mắt thấy sắc rất yêu thích nghĩ nhớ, người
đời hy vọng. Nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi biết vị, thân biết xúc
chạm (rất yêu thích nghĩ nhớ, người đời hy vọng). Như Lai nói năm dục này.
Trong năm dục, cái nào hơn hết? Mắt thấy sắc là tối diệu chăng? Tai nghe tiếng
là tối diệu chăng? Mũi ngửi mùi là tối diệu chăng? Lưỡi biết vị là tối diệu
chăng? Thân biết xúc chạm là tối diệu chăng? Năm việc này, cái nào là tối
diệu?
-
Trong đó, hoặc có quốc vương nói:
'Sắc là tối diệu'. Hoặc có vị luận: 'Thanh là tối diệu'. Hoặc có vị luận:
'Hương là tối thắng'. Hoặc có vị luận: 'Vị là tối diệu'. Hoặc có vị luận: 'Xúc
chạm là tối diệu'.
-
Lúc ấy, người nói sắc diệu là vua
Ưu-đà-diên. Người nói thanh diệu là vua Ưu Ðiền. Người nói hương diệu là vua
Ác Sanh. Người nói vị diệu là vua Ba-tư-nặc. Người nói xúc chạm diệu là vua
Tỳ-sa. Năm vua bảo nhau:
-
- Chúng ta cùng luận năm dục này,
nhưng lại chẳng biết cái nào là diệu!
-
Bấy giờ Ba-tư-nặc bảo bốn vua:
-
- Nay Như Lai ở gần, tại nước
Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc; chúng ta cùng nhau đến chỗ Thế Tôn để hỏi
nghĩa này. Nếu Thế Tôn có dạy gì, nên cùng vâng làm.
-
Các vua nghe vua Ba-tư-nặc nói
xong, liền đưa nhau đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Vua Ba-tư-nặc
đem việc bàn luận về năm dục bạch đầy đủ với Như Lai.
-
Thế Tôn bảo năm vua:
-
- Các vua luận theo sự thích hợp
của mỗi người. Sở dĩ như thế vì hễ người tánh hạnh đắm sâu ở sắc, ngắm mãi
không chán. Người này sẽ cho sắc là tối diệu, tối thượng không gì hơn. Người
ấy không dính mắc các pháp thanh, hương, vị, xúc. Trong năm dục, sắc là tối
diệu.
-
Nếu lại có người tánh hạnh dính mắc
đối với thanh, người ấy nghe âm thanh thì cực kỳ hoan hỷ, không chán. Người
này cho thanh là tối diệu, tối thượng. Trong năm dục, thanh là tối diệu.
-
Nếu lại có người tánh hạnh dính mắc
hương, người ấy ngửi mùi thơm, cực kỳ hoan hỷ, không chán. Người này cho hương
là tối thượng, tối diệu. Trong năm dục, hương là tối diệu.
-
Nếu lại có người tánh hạnh đắm vị,
người ấy nếm vị xong, cực kỳ hoan hỷ, không biết chán. Người này cho vị là tối
thượng, tối diệu. Trong năm dục, vị là tối diệu.
-
- Nếu lại có người tánh hạnh ưa xúc
chạm, người ấy được xúc chạm rồi, cực kỳ hoan hỷ, không chán, người này cho
xúc là tối diệu, tối thượng. Trong năm dục, xúc là tối diệu.
-
Nếu người kia tâm đã dính sắc thì
sẽ không để ý các pháp thanh, hương, vị, xúc.
-
Nếu người kia tánh hạnh đã dính
thanh thì sẽ không để ý các pháp sắc, hương, vị, xúc.
-
Nếu người kia tánh hạnh dính mắc
hương thì sẽ không để ý các pháp sắc, thanh, vị xúc.
-
Nếu người kia tánh hạnh dính vào
mùi vị thì sẽ không để ý các pháp về sắc, thanh, hương, xúc.
-
Nếu người kia tánh hạnh dính mắc ở
xúc chạm thì sẽ không để ý các pháp về sắc, thanh, hương, vị.
-
Thế Tôn liền nói kệ:
-
Lúc ý dục lừng lẫy,
-
Sở dục ắt khắc phục,
-
Ðược rồi hoan hỷ thêm,
-
Sở nguyện không có nghi.
-
Họ đã được dục này,
-
Ý tham dục không cởi,
-
Cho đây là hoan hỷ,
-
Duyên theo cho tối diệu.
-
Nếu lại lúc nghe tiếng.
-
Sở dục ắt khắc phục,
-
Nghe rồi hoan hỷ thêm,
-
Sở nguyện không có nghi.
-
Kia đã được tiếng này,
-
Ý tham không cởi mở,
-
Cho đây là hoan hỷ,
-
Theo đó là tối diệu.
-
Nếu lại lúc ngửi mùi,
-
Sở dục ắt khắc phục,
-
Ngửi rồi càng hoan hỷ,
-
Sở nguyện không có nghi.
-
Kia đã được tiếng này,
-
Ý tham không cởi mở,
-
Cho đây là hoan hỷ,
-
Theo đó là tối diệu.
-
Nếu lại lúc nếm vị,
-
Sở dục ắt khắc phục,
-
Ðược rồi càng hoan hỷ,
-
Sở nguyện không có nghi.
-
Kia đã được vị này,
-
Ý tham không cởi mở,
-
Cho đây là hoan hỷ,
-
Theo đó là tối diệu.
-
Nếu được lúc xúc chạm,
-
Sở dục ắt khắc phục,
-
Ðược rồi càng hoan hỷ,
-
Sở nguyện không nghi nan.
-
Kia đã được xúc chạm,
-
Ý tham không cởi mở,
-
Cho đây là hoan hỷ,
-
Theo đó là tối diệu.
-
Thế nên, Ðại vương! Nếu nói sắc
diệu thì nên bình đẳng mà luận. Vì sao thế? Ở sắc có khí vị. Nếu sắc không có
khí vị thì chúng sanh trọn chẳng dính mắc. Vì có khí vị nên trong năm dục sắc
là tối diệu.
-
Nhưng sắc cũng có lỗi lầm. Nếu sắc
không có lỗi lầm thì chúng sanh đã không chán ghét. Vì có lỗi lầm nên chúng
sanh chán ghét.
-
Nhưng sắc có xuất yếu. Nếu sắc
không có tính ra khỏi thì chúng sanh không có ra khỏi biển sanh tử được. Vì có
tính ra khỏi nên chúng sanh đến được trong thành Niết-bàn vô úy. Trong năm
dục, sắc là tối diệu.
-
Nhưng, Ðại vương! Nếu nói thanh
diệu thì nên bình đẳng mà luận. Vì sao thế? Ở thanh có khí vị, nếu thanh không
có khí vị thì chúng sanh trọn chẳng bị dính mắc. Vì có khí vị nên trong năm
dục, thanh là tối diệu.
-
Nhưng thanh có lỗi lầm. Nếu thanh
không có lỗi lầm thì chúng sanh đã không chán ghét. Vì có lỗi lầm nên chúng
sanh chán ghét.
-
Nhưng thanh có tính ra khỏi. Nếu
thanh không có tính ra khỏi thì chúng sanh này không ra khỏi biển sanh tử. Do
tính ra khỏi nên chúng sanh được đến trong thành Niết-bàn vô úy. Trong năm
dục, thanh là tối diệu.
-
Ðại vương nên biết! Nếu nói hương
diệu thì nên bình đẳng mà luận. Sở dĩ như thế vì ở hương có khí vị. Nếu hương
không khí vị, chúng sanh trọn không dính mắc. Vì có vị nên trong năm dục,
hương là tối diệu.
-
Nhưng hương có lỗi lầm. Nếu hương
không có lỗi lầm thì chúng sanh không chán ghét. Vì có lỗi lầm nên chúng sanh
chán ghét.
-
Nhưng hương có tính ra khỏi. Nếu
hương không có tính ra khỏi thì chúng sanh này không ra khỏi biển sanh tử
được. Vì có tính ra khỏi nên chúng sanh được đến trong thành Niết-bàn vô úy.
Trong năm dục, hương là tối diệu.
-
Lại nữa, Ðại vương! Nếu nói vị diệu
thì nên bình đẳng mà luận. Sở dĩ như thế vì ở vị có khí vị. Nếu vị không khí
vị thì chúng sanh trọn không dính mắc. Vì có khí vị nên trong năm dục, vị là
tối diệu.
-
Nhưng vị có lỗi lầm. Nếu vị không
lỗi lầm thì chúng sanh không chán ghét. Vì có lỗi lầm nên chúng sanh chán
ghét.
-
Nhưng vị có tính ra khỏi, nếu vị
không có tính ra khỏi, thì chúng sanh này không ra khỏi biển sanh tử được. Vì
có tính ra khỏi nên chúng sanh đến được trong thành Niết-bàn vô úy. Trong năm
dục, vị là tối diệu.
-
Lại nữa, Ðại vương nên biết! Ở xúc
chạm không có khí vị thì chúng sanh trọn không dính mắc, vì có khí vị nên
trong năm dục, xúc chạm là tối diệu.
-
Nhưng xúc chạm có lỗi lầm, nếu xúc
chạm không lỗi lầm thì chúng sanh không chán ghét. Vì có lỗi lầm, nên chúng
sanh chán ghét.
-
Nhưng xúc chạm có tính ra khỏi. Nếu
xúc chạm không có tính ra khỏi thì chúng sanh này không ra khỏi biển sanh tử.
Vì có tính ra khỏi nên chúng sanh được đến trong thành Niết-bàn vô úy. Trong
năm dục, xúc chạm là tối diệu.
-
Thế nên, Ðại vương! Chỗ nào ưa
thích thì tâm dính mắc. Như thế, Ðại vương, nên biết điều này.
-
Bấy giờ, năm vua nghe Phật dạy xong
vui vẻ vâng làm.
-
2. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
- Bấy
giờ, trong thành Xá-vệ có Trưởng giả Nguyệt Quang, rất giàu có, voi ngựa, bảy
báu đều đầy đủ, vàng bạc, châu báu không kể xiết. Nhưng Trưởng giả Nguyệt
Quang không có con cái. Bấy giờ, Trưởng giả vì không con nên đi cầu khẩn Trời,
Thần. Trưởng giả thỉnh cầu trời, trăng, thiên thần, địa thần, quý tử mẫu, Tứ
thiên vương, hai mươi tám đại thần quỷ vương, Ðế thích và Phạm thiên, Sơn
thần, Thọ thần, Thần ngũ đạo, cây cối dược thảo, không đâu chẳng khắp; thảy
đều quy mạng mong ban cho một đứa con trai.
-
Bấy giờ, vợ Trưởng giả Nguyệt Quang
trải qua mấy ngày liền có thai, bèn bảo Trưởng giả:
-
- Tôi đã có thai.
-
Trưởng giả nghe xong mừng rỡ không
kềm được, liền sắm cho phu nhân giường ghế tốt đẹp, ăn thức ăn ngon ngọt, mặc
quần áo đẹp. Phu nhân trải qua tám chín tháng liền sanh con trai, nhan sắc
đoan chánh, thế gian hiếm có như màu hoa đào. Khi ấy, đứa bé này hai tay cầm
châu ma-ni vô giá, tức thời nói kệ:
-
Nhà này nếu có tiền,
-
Báu vật và thức ăn,
-
Nay tôi muốn bố thí,
-
Cho người nghèo không thiếu.
-
Nếu đây không có vật,
-
Tiền của và thức ăn,
-
Nay có châu vô giá,
-
Thường dùng bố thí người.
-
Cha mẹ và người trong nhà, nghe nói
vậy đều bỏ chạy: 'Làm sao lại sanh loài quỷ mỵ này?'. Chỉ có cha mẹ vì thương
xót đứa con nên chẳng chạy tứ tán. Người mẹ liền hướng về con, nói kệ:
-
Là Trời, Càn-thát-bà?
-
Quỷ mị và La-sát?
-
Là ai? Tên họ gì?
-
Nay ta muốn được biết!
-
Ðứa bé liền dùng kệ đáp lời mẹ:
-
Chẳng Trời, Càn-thát-bà,
-
Không quỷ mị, La-sát,
-
Nay con cha mẹ sanh,
-
Là người, chớ nên nghi.
-
Phu nhân nghe lời này rồi mừng rỡ
không kềm được, đem chuyện này nói với Trưởng giả Nguyệt Quang. Trưởng giả
liền nghĩ: 'Ðây là duyên gì? Nay ta hãy đem việc này nói với Ni-kiền Tư'. Rồi
ông bồng đứa bé đến chỗ Ni-kiền Tư, cúi lạy rồi ngồi một bên. Bấy giờ Trưởng
giả đem chuyện này nói đầy đủ cho Ni-kiền Tư, Ni-kiền Tư nghe xong bảo:
-
- Ðứa bé này là người bạc phước, vô
ích đối với thân, nên giết đi. Nếu chẳng giết, nhà cửa sẽ bị suy hao và chết
hết.
-
Lúc ấy, trưởng giả Nguyệt Quang suy
nghĩ: 'Ta từ trước đến giờ không có con cái. Bởi vậy mới thỉnh cầu trời đất
khắp nơi, trải qua bao năm mới sanh được đứa con này. Nay ta chẳng thể đem
giết nó được. Thôi hãy hỏi lại Sa-môn, Bà-la-môn khác để dứt nghi cho ta'.
-
Khi ấy, Như Lai thành Phật chưa
được bao lâu. Mọi người gọi Ngài là Ðại Sa-môn. Trưởng giả Nguyệt Quang liền
nghĩ: 'Ta có thể đem chuyện này nói đầy đủ với Ðại Sa-môn'.
-
Rồi Trưởng giả liền từ chỗ ngồi
đứng lên bồng đứa bé đến chỗ Thế Tôn. Giữa đường ông lại nghĩ: 'Nay có Trưởng
lão Phạm chí lớn tuổi, già cả, thông minh trí tuệ, mọi người cung kính mà họ
còn chẳng biết, chẳng thấy. Huống là Sa-môn Cù-đàm này, tuổi trẻ, học đạo chưa
được bao lâu, há có thể biết việc này sao? E rằng không giải được cái nghi của
ta. Nay ta nên giữa đường trở về nhà'.
-
Lúc ấy có một Thiên thần, xưa là
bạn quen cũ của Trưởng giả, biết tâm niệm Trưởng giả, bèn ở trên hư không nói
với ông:
-
- Trưởng giả nên biết! Tiến lên một
chút ắt sẽ được lợi ích, được quả báo lớn, cũng sẽ đến chỗ cam lộ. Như Lai ra
đời rất là khó gặp. Như Lai giáng mưa cam lộ, đúng thời mới có.
-
Lại nữa, này Trưởng giả! Có bốn sự
tuy nhỏ mà chớ nên coi thường. Thế nào là bốn? Quốc vương tuy nhỏ, rất không
thể khinh; lửa tuy nhỏ, cũng không thể khinh; rồng tuy nhỏ cũng không thể
khinh; người học đạo tuy nhỏ cũng chẳng thể khinh. Ðó là, này Trưởng giả! Có
bốn việc này thật chẳng thể khinh.
-
Lúc ấy, Thiên thần liền nói kệ:
-
Quốc vương tuy còn nhỏ,
-
Giết hại do pháp này,
-
Lửa nhỏ tuy chưa mạnh
-
Thiêu đốt núi, cỏ cây.
-
Rồng thần tuy hiện nhỏ
-
Giáng mưa tùy lúc hợp,
-
Người học tuổi ấu trĩ,
-
Ðộ người không có lường.
-
Trưởng giả Nguyệt Quang tâm ý khai
mở, mừng rỡ không kềm được, liền tiến đến trước. Ðến chỗ Thế Tôn, Trưởng giả
cúi lạy rồi ngồi một bên, đem nhân duyên bạch đầy đủ với Thế Tôn.
-
Thế Tôn bảo Trưởng giả:
-
- Nay đứa bé này có phước rất lớn.
Ðứa bé này lớn lên sẽ đem năm trăm đồ chúng đến chỗ Ta, xuất gia học đạo, đắc
A-la-hán. Trong hàng Thanh văn của Ta, đấy sẽ là người phước đức đệ nhất,
không ai bì kịp.
-
Trưởng giả nghe xong mừng rỡ không
kềm được, bạch Thế Tôn:
-
- Ðúng như Thế Tôn dạy, chẳng phải
như lời Ni-kiền Tử.
-
Trưởng giả Nguyệt Quang lại bạch
Thế Tôn:
-
- Cúi mong Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng
thương xót đứa bé này, nhận lời thỉnh của con!
-
Ðức Thế Tôn làm thinh nhận lời.
Trưởng giả thấy Phật làm thinh nhận lời thỉnh rồi, liền từ chỗ ngồi đứng lên,
cúi lạy rồi lui đi. Ông trở về nhà xếp đặt các thức ăn uống, ngon ngọt, trải
tọa cụ tốt đẹp. Sáng sớm, ông tự đến bạch Phật:
-
- Ðã đến giờ, kính mong Ngài quang
lâm.
-
Thế Tôn biết đến giờ, liền dẫn các
Tỳ-kheo, vây quanh trước sau vào thành Xá-vệ, đến nhà Trưởng giả, tới tòa
ngồi. Trưởng giả thấy Phật và Tỳ-kheo Tăng đã ngồi yên, liền bày các món ăn
uống, tự tay châm chước, vui mừng chẳng loạn. Khi thấy chư vị ăn xong dẹp bình
bát, rửa tay rồi, ông đem một ghế nhỏ đến trước Như Lai ngồi, muốn được nghe
Phật thuyết diệu pháp. Trưởng giả Nguyệt Quang bạch Thế Tôn:
-
- Nay con đem ruộng vườn, nhà cửa
cho hết đứa bé này. Cúi mong Thế Tôn hãy đặt tên cho nó.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Ðứa bé này lúc mới sanh, mọi
người đều bỏ chạy, nói là quỷ Thi-bà-la.
-
Nay đặt tên là Thi-bà-la.
-
Thế Tôn dẫn dần thuyết diệu luận
cho vợ chồng Trưởng giả. Luận, nghĩa là thí luận, giới luận, luận sanh thiên,
dục là tưởng bất tịnh, lậu là hoạn lớn, xuất yếu là hay.
-
Thế Tôn thấy vợ chồng Trưởng giả
tâm ý khai mở, không còn hồ nghi. Chư Phật Thế Tôn thường thuyết pháp: Khổ,
Tập, Diệt, Ðạo; Thế Tôn liền thuyết hết cho Trưởng giả, khiến phát tâm hoan
hỉ. Vợ chồng Trưởng giả ở ngay trên tòa, sạch hết các trần cầu, được pháp nhãn
thanh tịnh, như tấm vải trắng mới, dễ nhuộm màu. Vợ chồng Trưởng giả cũng vậy,
ở ngay trên tòa được pháp nhãn thanh tịnh. Họ đã thấy pháp, phân biệt pháp, đã
hết do dự, không còn hồ nghi, được không sợ sệt, hiểu pháp thâm áo của Như
Lai, liền thọ ngũ giới.
-
Thế Tôn liền nói kệ:
-
Thờ tự, lửa trên hết,
-
Các luận, tụng là đầu,
-
Vua được người tôn kính,
-
Biển là nguồn các dòng,
-
Trăng là sáng hơn sao,
-
Mặt trời sáng hơn hết,
-
Tám phương và trên dưới,
-
Trong vạn vật sanh ra,
-
Muốn cầu người có phước,
-
Chánh giác là tối tôn.
-
Thế Tôn nói kệ rồi, liền từ chỗ
ngồi đứng lên mà đi.
- Bấy
giờ, Trưởng giả tìm năm trăm đồng tử để hầu hạ Thi-bà-la. Năm Thi-bà-la hai
mươi tuổi, ông đến thưa cha mẹ rằng:
-
- Cúi xin cha mẹ cho con xuất gia
học đạo.
-
Song thân liền chấp thuận. Vì sao
thế? Vì Thế Tôn đã thọ ký trước rồi: 'Ông sẽ đem năm trăm đồng tử đến chỗ Thế
Tôn cầu là Sa-môn'.
-
Lúc đó Thi-bà-la và năm trăm người
cúi lạy cha mẹ rồi lui đi. Ðến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi đứng một bên. Thi-bà-la
bạch Thế Tôn rằng:
-
- Cúi xin Thế Tôn chấp nhận cho con
vào đạo.
-
Thế Tôn liền bằng lòng cho làm
Sa-môn. Chưa quá mấy ngày, ông liền thành A-la-hán, lục thông trong suốt, đầy
đủ tám giải thoát. Khi ấy, năm trăm đồng tử đến trước bạch Thế Tôn:
-
- Cúi mong Thế Tôn cho làm Sa-môn.
-
Thế Tôn lặng thinh đồng ý. Xuất gia
chưa được mấy ngày, tất cả đều thành A-la-hán.
-
Tôn giả Thi-bà-la trở về làng cũ
tại nước Xá-vệ. Mọi người kính ngưỡng, đem tứ sự cúng dường y phục, thức ăn
uống, giường chõng, thuốc men khi bịnh tật. Tôn giả Thi-bà-la liền nghĩ: 'Nay
ta ở làng mình thật là phiền phức, ồn náo. Ta nên đi du hóa trong nhân gian'.
-
Tôn giả Thi-bà-la đến giờ đắp y, ôm
bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong, Tôn giả trở về chỗ thu dọn tọa
cụ, đắp y, ôm bát khỏi tinh xá Kỳ-hoàn, cùng năm trăm Tỳ-kheo vây quanh trước
sau đi du hóa trong nhân gian. Ði đến đâu chư vị cũng đều được cúng dường, đều
được cung cấp y phục, thức ăn uống, giường chõng, thuốc thang khi bệnh tật.
Lại có chư Thiên báo cho các thôn xóm:
-
- Nay có Tôn giả Thi-bà-la, đắc
A-la-hán, phước đức đệ nhất, cùng năm trăm Tỳ-kheo du hóa trong nhân gian. Chư
Hiền nên đến cúng dường. Nay chẳng làm, sau hối vô ích.
-
Khi ấy Tôn giả Thi-bà-la nghĩ rằng:
-
- Nay thật quá chán sự cúng dường
này phải tránh chỗ nào cho người không biết chỗ ta.
-
Rồi ngài liền vào núi sâu. Chư
Thiên lại báo cho từng người trong thôn xóm:
-
- Nay Tôn giả Thi-bà-la ở trong núi
này. Hãy đến cúng dường. Nay chẳng làm, sau hối vô ích.
-
Nhân dân nghe Trời nói rồi, liền
đội thức ăn uống đến chỗ TÔn giả Thi-bà-la:
-
- Cúi xin ngài dừng lại vì chúng
con.
-
Tôn giả Thi-bà-la dần dần du hóa
trong nhân gian, đến vườn trúc Ca-lan-đà ở thành La-duyệt cùng với năm trăm
đại Tỳ-kheo, cũng được cúng dường y phục, ẩm thực, giường chiếu, thuốc men.
Ngài Thi-bà-thi lại nghĩ: 'Nay ta đi về đâu nhập hạ, cho người ta đừng biết
chỗ ta?' Rồi ngài lại nghĩ: 'Nên đến phía Ðông núi Kỳ-xá, phía Tây núi Quang
Phổ mà nhập hạ'.
-
Ngài dẫn năm trăm Tỳ-kheo đến núi
đó nhập hạ. Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân biết Thi-bà-la nghĩ bụng như thế, liền
ở trong núi hóa ra cảnh chùa, vườn quả, cây cối đều đầy đủ. Chung quanh có hồ
tắm. Thích-đề-hoàn-nhân lại hóa năm trăm đài cao, lại hóa năm trăm giường dây,
dùng cam lồ của trời để dâng thức ăn.
-
Tôn giả Thi-bà-la bèn nghĩ: 'Nay ta
đã kiết hạ xong. Quá lâu chăng gặp Như Lai, nay nên đến gần gũi Thế Tôn'.
-
Tôn giả liền cùng năm trăm Tỳ-kheo
đến thành Xá-vệ. Bấy giờ trời nóng bức, chúng Tỳ-kheo đều đổ mồ hôi nhớp nhúa
thân thể. Tôn giả Thi-bà-la liền nghĩ: 'Hôm nay, thân thể chúng Tỳ-kheo nóng
nực, phải chi có đám mây nhỏ trên trời và có một trận mưa nhỏ thì hay biết
mấy. Rồi gặp hồ tắm nho nhỏ và có nước uống'.
-
Tôn giả vừa nghĩ xong, trên không
liền có đám mây lớn và trời mưa nhỏ, cũng có hồ tắm và có bốn phi nhân gánh
nước ngon ngọt do Tỳ Sa-môn vương sai đến:
-
- Cúi mong Tôn giả nhận nước ngọt
này và cho Tỳ-kheo Tăng.
-
Tôn giả nhận nước rồi cùng uống với
Tỳ-kheo Tăng. Tôn giả Thi-bà-la lại nghĩ: 'Nay ta nên dừng ở đây'.
-
Thích-đề-hoàn-nhân biết tâm niệm
Tôn giả Thi-bà-la, liền hóa ra năm trăm phòng nhà, giường nằm đầy đủ ở bên
đường. Lúc ấy, chư Thiên dâng lên thức ăn uống. Tôn giả Thi-bà-la ăn xong liền
từ chỗ ngồi đứng lên mà đi.
-
Bấy giờ, người chú của Tôn giả
Thi-bà-la ở thành Xá-vệ rất giàu có, không thiếu món gì, nhưng lại tham lam
không chịu bố thí, chẳng tin Phật, Pháp, Tăng không tạo công đức. Những người
thân tộc bảo ông ta:
-
- Trưởng giả dùng của cải này làm
gì mà không tạo tư lương cho đời sau?
-
Trưởng giả kia nghe lời này rồi,
trong một ngày đem ngàn lượng vàng bố thí cho Phạm Chí ngoại đạo, chẳng hướng
về Tam Bảo. Tôn giả Thi-bà-la nghe chú mình đem trăm ngàn lượng vàng bố thí
cho ngoại đạo dị học, không bố thí cho Tam Bảo. Khi ấy Tôn giả Thi-bà-la đến
chỗ Thế Tôn ở tinh xá Kỳ-hoàn, cúi lạy rồi ngồi một bên, Thế Tôn thuyết pháp
vi diệu cho Thi-bà-la. Tôn giả Thi-bà-la nghe Như Lai thuyết pháp xong, từ chỗ
ngồi đứng lên lạy Thế Tôn, đi nhiễu bên phải ba vòng mà lui.
-
Ngay ngày ấy, Tôn giả Thi-bà-la đắp
y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, lần lần đến nhà chú mình. Ðến rồi đứng
ngoài cửa lặng thinh. Trưởng giả thấy Thi-bà-la ở ngoài cửa khất thực, liền
bảo:
-
- Sao hôm qua Ông không đến? Tôi đã
đem trăm ngàn lượng vàng bố thí. Giờ tôi có thể cho Ông một tấm vải.
-
Tôn giả Thi-bà-la đáp:
-
- Nay tôi chẳng dùng vải làm gì!
Hôm nay tôi đến để khất thực.
-
Trưởng giả đáp:
-
- Hôm qua tôi đã dùng trăm ngàn
lượng vàng bố thí, không thể bố thí nữa.
-
Tôn giả Thi-bà-la muốn độ cho được
Trưởng giả nên bay lên không trung, thân phun ra lửa, ngồi, nằm, kinh hành tùy
ý. Trưởng giả thấy sự biến hóa này rồi, liền nói:
-
- Trở xuống đây, ngồi đi! Nay tôi
sẽ thí cho.
-
Tôn giả Thi-bà-la liền xả thần túc,
trở xuống ngồi. Trưởng giả kia đem thức ăn uống hết sức dở tệ, thô xấu cho Tôn
giả Thi-bà-la ăn. Tôn giả Thi-bà-la vốn sanh trưởng trong nhà hào tộc, tùy ý
ăn uống, nhưng vì Trưởng giả ấy nên Tôn giả nhận thức ăn này ăn. Tôn giả
Thi-bà-la ăn xong, trở về chỗ mình. Ðêm hôm ấy, Thiên nhân ở trên không, bảo
Trưởng giả:
-
Thiện thí, thí rất lớn,
-
Là cho Thi-bà-la,
-
Vô dục đã giải thoát,
-
Ái đoạn, đã vô nghi.
-
Nửa đêm và sáng sớm hai thời Thiên
nhân nói kệ này:
-
Thiện thí, thí lớn nhất,
-
Là cho Thi-bà-la,
-
Vô dục đã giải thoát,
-
Ái đoạn đã vô nghi.
-
Trưởng giả nghe Thiên nhân nói liền
nghĩ: 'Hôm qua ta đem trăm ngàn lượng vàng bố thí cho ngoại đạo mà không có sự
cảm ứng này. Hôm nay ta lấy thức ăn dở tệ bố thí cho Thi-bà-la mà có cảm ứng
đến thế. Bao giờ trời sáng, ta sẽ tự đem trăm ngàn lượng vàng thí cho
Thi-bà-la'.
-
Ngay ngày đó, Trưởng giả kiểm điểm
lại trong nhà, có đủ trăm ngàn lượng vàng liền đem đến Thi-bà-la; đến rồi, cúi
lạy và đứng một bên. Trưởng giả đem trăm ngàn lượng vàng dâng Thi-bà-la và
nói:
-
- Cúi mong Ngài nhận cho trăm ngàn
lượng vàng này.
-
Khi ấy, tôn giả Thi-bà-la đáp:
-
- Mong cho Trưởng giả được pháp vô
cùng, trường thọ tự nhiên. Nhưng Thế Tôn chẳng cho Tỳ-kheo nhận trăm ngàn
lượng vàng.
-
Trưởng giả liền đến chỗ Thế Tôn;
đến rồi, cúi lạy ngồi một bên. Trưởng giả kia bạch Thế Tôn:
-
- Cúi mong Thế Tôn cho ngài
Thi-bà-la nhận trăm ngàn lượng vàng, để con được hưởng phước.
-
Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:
-
- Thầy đến chỗ Tỳ-kheo Thi-bà-la
bảo rằng Ta gọi.
-
Tỳ-kheo đáp:
-
- Xin vâng, Thế Tôn!
-
Tỳ-kheo kia vâng lời Phật dạy đến
chỗ Thi-bà-la, đem lời Thế Tôn báo cho ông. Tôn giả Thi-bà-la nghe lời Tỳ-kheo
kia, liền đến chỗ Thế Tôn cúi lạy, rồi ngồi một bên. Thế Tôn bảo Thi-bà-la:
-
- Nay Thầy có thể nhận trăm ngàn
lượng vàng của Trưởng giả khiến ông ta được phước. Ðây là nghiệp duyên đời
trước nên hưởng phước báo này.
-
Ngài Thi-bà-la đáp:
-
- Xin vâng, Thế Tôn!
-
Khi ấy, Tôn giả Thi-bà-la tức thời
nói kệ:
-
Thí y và vật khác,
-
Muốn cầu phước đức này,
-
Ðến tới Trời, loài người,
-
Ngũ dục tự vui thú.
-
Từ Trời đến loài người,
-
Qua được không nghi nan
-
Chỗ vô vi Niết-bàn,
-
Chỗ vui của chư Phật.
-
Người bố thí không khó,
-
Mong được phước đức này,
-
Sẽ khởi tâm từ huệ,
-
Tạo phước không lười mỏi.
-
Tôn giả Thi-bà-la bảo Trưởng giả:
-
- Hãy đem trăm ngàn lượng vàng này
đặt trong phòng tôi.
-
Trưởng giả vâng lời dạy, đem trăm
ngàn lượng vàng này đặt trong phòng Tôn giả Thi-bà-la rồi lui đi.
-
Ngài Thi-bà-la bải các Tỳ-kheo:
-
- Vị nào có thiếu chi, hãy đến đây
mà lấy. Nếu cần y phục, thức ăn uống, giường chiếu, thuốc men đều đến lấy đi,
chớ cầu chỗ khác. Hãy lần lượt báo cho nhau điều này.
-
Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo bạch Thế
Tôn:
-
- Ngài Thi-bà-la này xưa tạo phước
gì mà sanh trong nhà Trưởng giả, đoan chánh vô song, như màu hoa đào? Lại tạo
phước gì mà hai nắm hạt châu từ trong thai mẹ ra? Lại tạo phước gì mà đem năm
trăm người đến chỗ Thế Tôn xuất gia học đạo, gặp Như Lai ra đời? Lại tạo phước
gì mà đi đến đâu cũng có cơm áo tự nhiên không thiếu thốn? Các Tỳ-kheo khác
không ai bì kịp?
-
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Quá khứ lâu xa, cách nay chín
mươi mốt kiếp, có Phật hiệu Tỳ-bà-thi Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh
hạnh túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp ngự, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn, xuất hiện ở đời, dạo ở nước Bàn-đầu cùng sáu mươi vạn tám ngàn
chúng, đầy đủ bốn món cúng dường. Y phục, ẩm thực, giường chõng, thuốc men.
Bấy giờ có Phạm chí tên Da-nhã-đạt-trụ ở nước đó, nhiều tiền của, vàng bạc,
trân bảo, xa cừ, mã não, chơn châu, hổ phách không thể tính kể.
-
Bấy giờ Da-nhã-đạt ra khỏi nước,
đến chỗ Như Lai Tỳ-bà-thi; đến rồi, thăm hỏi nhau và ngồi một bên. Như Lai
Tỳ-bà-thi dần dần thuyết pháp cho ông phát tâm hoan hỉ. Khi ấy Da-nhã-đạt bạch
Phật Tỳ-bà-thi .
-
- Cúi mong Ngài hãy nhận lời thỉnh
của con, con muốn trai phạn Phật và Tỳ-kheo Tăng.
-
Lúc ấy Như Lai làm thinh thọ thỉnh.
Phạm chí Da-nhã-đạt đã thấy Thế Tôn làm thinh thọ thỉnh, liền từ chỗ ngồi đứng
lên, nhiễu Phật ba vòng rồi đi. Về nhà, ông bày biện thức ăn thức uống ngon
ngọt. Khi ấy, vào nửa đêm, Da-nhã-đạt nghĩ: 'Nay ta đã làm xong các thức ăn
uống, chỉ thiếu tô lạc. Sáng sớm ngày mai ta sẽ đến cửa thành, có ai bán tô
lạc, ta sẽ mua hết'.
-
Sáng sớm, Da-nhã-đạt trải tọa cụ
tốt đẹp, rồi đến cửa thành tìm tô lạc. Ngay khi ấy, có người chăn trâu tên
Thi-bà-la cầm tô lạc đến muốn đem tế tự. Phạm chí Da-nhã-đạt bảo người chăn
trâu:
-
- Ông bán tô lạc, ta sẽ mua hết với
giá mắc.
-
Thi-bà-la nói:
-
- Nay tôi muốn cúng tế.
-
Phạm chí bảo
-
- Nay Ông tế trời để cầu việc gì?
Nếu bán cho ta, ta sẽ trả đáng giá.
-
Người chăn trâu hỏi:
-
- Phạm chí! Nay Ông dùng tô lạc làm
gì?
-
Phạm chí đáp:
-
- Nay tôi thỉnh Như Lai Tỳ-bà-thi
và Tỳ-kheo Tăng. Các món ẩm thực đã bàn biện đủ, chỉ thiếu tô lạc.
-
Thi-bà-la hỏi Phạm chí:
-
- Như Lai Tỳ-bà-thi tướng mạo thế
nào?
-
Phạm chí đáp:
-
- Như Lai không có ai bằng, giới
thanh tịnh, tuệ định tam-muội không ai bì kịp. Trên trời và nhân gian không ai
bì kịp.
-
Phạm chí Da-nhã-đạt tán thán công
đức Như Lai. Thi-bà-la nghe xong tâm ý khai mở. Lúc ấy, Thi-bà-la bảo Phạm
chí:
-
- Nay tôi sẽ đích thân đem tô lạc
này đến cúng cho Như Lai, đừng cúng Trời làm gì nữa?
-
Phạm chí Da-nhã-đạt đem người chăn
trâu về nhà, rồi đến bạch Phật:
-
- Ðã đến giờ, nay chính đúng lúc,
cúi mong Như Lai hạ cố.
-
Như Lai biết đã đến giờ liền đắp y,
ôm bát cùng các Tỳ-kheo vây quanh trước sau, đến nhà Phạm chí Da-nhã-đạt. Mỗi
người theo thứ lớp ngồi.
-
Bấy giờ người chăn trâu thấy Như
Lai, dung mạo ít có trên đời, các căn đạm bạc, có ba mươi hai tướng tốt, tám
mươi vẻ đẹp, trang nghiêm thân, cũng như trời, trăng, ví như núi chúa Tu-di
cao hơn các núi, ánh sáng chiếu xa, không đâu chẳng thấm nhuần. Người ấy thấy
rồi, hoan hỉ đến trước Thế Tôn nói rằng:
-
- Công đức Như Lai nếu đúng như lời
Phạm chí nói, xin khiến một bình tô lạc này đầy đủ cho tất cả chúng Tăng.
-
Thi-bà-la bạch Thế Tôn:
-
- Xin nhận tô lạc này.
-
Như Lai đưa bát nhận tô lạc, cũng
lại cho Tỳ-kheo Tăng, tô lạc vẫn còn dư. Người chăn trâu bạch Thế Tôn:
-
- Nay còn dư tô lạc.
-
Như Lai bảo:
-
- Nay Ông lại đem tô lạc này dâng
cho Phật và Tỳ-kheo Tăng.
-
Người chăn trâu nói:
-
- Xin vâng, Thế Tôn!
-
Rồi người chăn trâu lại chia tô lạc
một lần nữa. Tô lạc cũng vẫn còn dư.
-
Người chăn trâu lại bạch Phật:
-
- Nay cũng còn dư tô lạc.
-
Thế Tôn bảo người ấy:
-
- Nay có thể đem tô lạc này chia
cho chúng Tỳ-kheo-ni, chúng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di khiến được no đủ.
-
Và tô lạc vẫn còn dư. Phật bảo
người chăn trâu:
-
- Nay Ông đem tô lạc này cho chủ
nhân đàn việt.
-
- Xin vâng.
-
Rồi người chăn trâu đem cho đàn
việt chủ nhân, tô lạc cũng vẫn còn dư. Ông lại đem bố thí cho người bần khổ,
ăn xin, tô lạc cũng vẫn còn dư. Người chăn trâu liền đến bạch Phật:
-
- Vẫn còn dư tô lạc.
-
Phật bảo:
-
- Nay đem tô lạc này trút xuống đất
sạch, hoặc đổ trong nước. Vì sao thế? Ta chẳng thấy có ai trong Trời, người có
thể tiêu được tô lạc này, chỉ trừ Như Lai.
-
Người chăn trâu vâng lời Phật dạy, đem tô lạc này bỏ vào trong nước. Ngay đó,
trong nước có lửa sáng mạnh bốc lên cao vài mươi nhẫn. Người chăn trâu trông
thấy sự biến hóa quái lạ như thế, khen ngợi chưa từng có rồi trở về chỗ Thế
Tôn cúi lạy, chắp tay đứng lập thệ nguyện này:
-
- Nay con đem tô lạc này thí cho
bốn bộ chúng. Nếu được phước đức thì do phước này xin chớ đọa vào chỗ có tám
nạn, chớ sanh trong nhà nghèo khổ, khi sanh ra được sáu căn đầy đủ, mặt mũi
đoan chánh, cũng chẳng ở nhà, khiến đời tương lai con cũng sẽ được gặp bậc Tôn
thánh như vậy.
-
Tỳ-kheo nên biết, ba mươi mốt kiếp
về trước, lại có Phật tên Như Lai Thi-khí ra đời. Khi ấy Như Lai Thi-khí du
hóa trong cõi Dã-mã cùng đại Tỳ-kheo mười vạn người.
-
Bấy giờ Như Lai Thi-khí đến giờ đắp
y, ôm bát vào thành khất thực. Trong thành có một khách thương lớn tên là
Thiện Tài. Ông từ xa thấy Như Lai Thi-khí, các căn tịch tĩnh, dung mạo đoan
chánh, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, mặt như
mặt trời mặt trăng; thấy rồi, ông liền phát tâm hoan hỉ, tiến đến trước Thế
Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên. Vị khách buôn đem bảo châu tốt rải trên Như Lai.
Ngay khi ấy, ông thệ nguyện trong lòng:
-
- Con đem công đức này, mong sanh
nơi nào được nhiều tiền của, không thiếu thốn gì, trong tay không bao giờ rỗng
thiếu, cho đến trong bào thai mẹ cũng chẳng để trống.
-
Trong kiếp này, lại có Như Lai
Tỳ-xá-la-bà Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Bấy giờ có Trưởng
giả tên Thiện Giác giàu có, nhiều tiền của, lại thỉnh Tỳ-xá-la-bà Như Lai Chí
Chân Ðẳng Chánh Giác và Tỳ-kheo Tăng. Trưởng giả ấy ít người làm. Lúc ấy,
Trưởng giả đích thân tự xếp đặt các món ăn uống ngon ngọt trai phạn Như Lai và
thệ nguyện:
-
- Con đem công đức này, mong sau
sanh ở đâu, thường được gặp Tam Bảo không thiếu sót, thường có nhiều người
làm, khiến đời sau được gặp Thế Tôn như hôm nay.
-
Nay trong Hiền kiếp này, có Phật
tên Câu-lưu-tôn Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh giác xuất hiện ở đời. Bấy giờ có
Trưởng giả Ða Tài, lại thỉnh Như Lai Câu-lưu-tôn, trong bảy ngày thọ thực,
Phật và Tỳ-kheo Tăng. Ông cúng dường y phục, thức ăn uống, giường chõng, thuốc
men và nguyện: 'Sanh ra thường được nhiều tiền của, không sanh vào nhà bần
cùng, khiến con hằng được bốn món cúng dường, được bốn bộ chúng, quốc vương,
nhân dân trông thấy đều sùng kính. Trời, rồng, quỷ thần, nhân và phi nhân
trông thấy đều tiếp rước, đãi ngộ.
-
Các Tỳ-kheo nên biết! Bấy giờ Phạm
chí Da-nhã-đạt, há là người khác sao? Chớ xem như thế! Vì sao? Vì nay chính là
Trưởng giả Nguyệt Quang. Người chăn trâu tên Thi-bà-la đem tô lạc cúng dường
Phật, nay là Tỳ-kheo Thi-bà-la. Khách buôn Thiện Tài đâu phải ai xa lạ, chớ
xem như thế! Nay chính là Tỳ-kheo Thi-bà-la. Bấy giờ Trưởng giả Thiện Giác há
là ai khác. Chớ xem như thế! Nay chính là Tỳ-kheo Thi-bà-la. Bấy giờ Trưởng
giả Ða Tài, há là người khác. Chớ xem như thế! Nay chính là Tỳ-kheo Thi-bà-la.
-
Các Tỳ-kheo nên biết! Tỳ-kheo
Thi-bà-la, phát thệ nguyện này: 'Khiến tôi sanh ra hằng đoan chánh vô song,
thường sanh trong nhà phú quý; khiến đời tương lai được gặp Thế Tôn. Nếu ngài
vì tôi thuyết pháp, tôi sẽ được giải thoát, được xuất gia làm Sa-môn'. Do công
đức này, nay Tỳ-kheo Thi-bà-la được sanh trong nhà phú quý, đoan chánh vô
song, nay gặp được Ta, liền đắc A-la-hán. Nhưng Tỳ-kheo nên biết! Ông ta lại
lấy bảo châu rải trên Như Lai, đem công đức này, nay ở trong thai mẹ cầm hai
hột châu mà ra, giá trị bằng cõi Diêm-phù-đề. Ngay ngày ông vừa sanh ra liền
biết nói.
-
Ông lại thỉnh Như Lai Câu-lưu-tôn,
mong được nhiều tôi tớ, nay đem năm trăm đồ chúng đến chỗ Ta, xuất gia học đạo
đắc A-la-hán.
-
Lại trong bảy ngày, ông cúng dường
Như Lai Câu-lưu-tôn cầu được bốn món cúng dường. Hôm nay chẳng thiếu y phục,
thức ăn uống, giường nằm, thuốc men. Do công đức này, các Tỳ-kheo khác không
bì kịp. Thích-đề-hoàn-nhân tự thân đến cúng dường cấp món cần thiết, lại có
chư Thiên truyền báo thôn xóm, khiến bốn bộ chúng biết có Thi-bà-la là nghĩa
này vậy. Trong đệ tử của Ta, người phước đức đệ nhất là Tỳ-kheo Thi-bà-la.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
3. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Có năm loại trượng phu mạnh mẽ,
có thể chiến đấu, xuất hiện ở đời. Thế nào là năm?
-
Ở đây, có người mặc giáp, cầm gậy
vào trận chiến đấu, từ xa thấy gió bụi liền sợ hãi. Ðó là người chiến đấu thứ
nhất.
-
Lại nữa, hạng chiến đấu thứ hai,
mặc giáp, cầm gậy muốn vào trận chiến; thấy gió bụi không sợ hãi nhưng thấy cờ
xí liền ôm lòng sợ hãi, không thể tiến đánh. Ðó là người thứ hai.
-
Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ
ba, mặc giáp, cầm gậy muốn vào trận chiến đấu; thấy gió bụi hay cờ xí không sợ
hãi nhưng thấy cung tên liền sợ hãi, chẳng thể chiến đấu. Ðó là người thứ ba.
-
Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ
tư, mặc giáp, cầm gậy vào trận đánh nhau; thấy gió bụi hay cờ xí hoặc cung tên
chẳng sợ hãi, nhưng lúc vào trận bị người khác bắt hoặc giết chết. Ðó là người
thứ tư.
-
Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ
năm, mặc giáp, cầm gậy muốn vào trận đánh; thấy gió bụi, cờ xí hoặc thấy cung
tên, hoặc bị người khác bắt, cho đến chết không sợ hãi, có thể đánh tan quân
địch trong ngoài mà thống lãnh nhân dân. Ðó là người thứ năm.
-
Như thế Tỳ-kheo! Thế gian có năm
loại người này.
-
Nay trong chúng Tỳ-kheo cũng có năm
loại người này xuất hiện ở đời. Thế nào là năm?
-
Hoặc có Tỳ-kheo dạo trong thôn xóm
người; ông ta nghe trong thôn có phụ nữ đoan chánh vô song, mặt như màu hoa
đào. Ông ta nghe xong, đến giờ đắp y ôm bát vào thôn khất thực, gặp cô gái
nhan sắc vô song này liền khởi dục tưởng rồi bỏ ba y, trả lại cấm giới của
Phật, làm cư sĩ. Ví như người chiến đấu nọ, thấy gió bụi đã sợ hãi; Tỳ-kheo
này cũng vậy.
-
Lại nữa, có Tỳ-kheo nghe có cô gái
ở trong thôn xóm đoan chánh vô song, đến giờ đắp y, ôm bát vào thôn khất thực,
nếu gặp nữ nhân không khởi dục. Nhưng nếu cùng cô gái ấy đùa cợt, chuyện trò
thì do sự đùa cợt này, ông ta liền bỏ pháp phục trở về làm cư sĩ. Như người
thứ hai kia, thấy gió bụi không sợ, nhưng thấy cờ xí liền ôm lòng sợ hãi;
Tỳ-kheo này cũng vậy.
- Lại
nữa, có Tỳ-kheo nghe trong thôn xóm có cô gái dung mạo đoan chánh hiếm có ở
đời, như màu hoa đào. Ông ta đến giờ đắp y, ôm bát vào làng khất thực, nếu
thấy cô gái, chẳng khởi dục tưởng, dù cùng cô gái trò chuyện cũng không khởi ý
dục. Nhưng cùng cô gái kia nắm tay, chạm nhau hoặc cùng nắm kéo, trong đó khởi
dục tưởng, ông ta bỏ ba pháp y, trở lại làm cư sĩ, tập tành gia nghiệp; như
người thứ ba, lúc vào trận thấy gió bụi, thấy cờ xí không sợ hãi; thấy cung
tên liền ôm lòng lo sợ.
- Lại
nữa, có Tỳ-kheo nghe trong thôn xóm có cô gái mặt mũi đoan thế gian ít có. Ðến
giờ, đắp y, ôm bát vào xóm khất thực; nếu ông ta thấy cô gái thì cũng chẳng
khởi dục tưởng, dù cùng nói chuyện cũng không khởi dục tưởng, nếu cùng cô gái
nắm kéo liền khởi dục tưởng, nhưng không bỏ pháp phục mà học tập gia nghiệp;
như người thứ tư vào trận bị người bắt hoặc đoạt mạng sống, không thể ra khỏi.
-
Lại nữa, có Tỳ-kheo ở trong thôn
xóm, ông ta nghe trong thôn có cô gái. Ðến giờ, ông đắp y, ôm bát vào làng
khất thực; nếu ông ta thấy cô gái, chẳng khởi dục tưởng, dù cùng nói cười cũng
không khởi dục tưởng, dù cùng nắm kéo cũng không khởi dục tưởng. Bấy giờ
Tỳ-kheo quán ba mươi sáu thứ trong thân này dơ xấu chẳng sạch: 'Ai dính mắc
vào đây? Do đâu mà khởi dục? Dục này ngừng ở đâu? Từ đầu chăng? Từ thân thể ra
chăng? Quán các vật này trọn không có gì cả. Từ đầu tới chân cũng lại như thế.
Những vật thuộc ngũ tạng không có tưởng tượng cũng không chỗ đến'. Ông ta quán
nguyên nhân chẳng biết từ đâu tới! Ông lại nghĩ: 'Ta quán dục này từ nhân
duyên sanh'.
-
Tỳ-kheo ấy quán như thế rồi, tâm
dục lậu hết, được giải thoát, tâm hữu lậu được giải thoát, tâm vô minh lậu
được giải thoát, liền được trí giải thoát. Sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập,
việc làm đã xong, không còn tái sanh nữa, như thật mà biết. Như người chiến
đấu thứ năm kia, không sợ bị nạn bởi quân địch mà tự du hóa. Do đó nên nay Ta
nói người này xả bỏ ái dục, vào chỗ vô úy, được đến thành Niết-bàn.
-
Ðó là, này Tỳ-kheo, có năm loại
người xuất hiện ở đời.
-
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
-
Dục, ta biết gốc ngươi,
-
Ý do tư tưởng sanh,
-
Tư tưởng ta chẳng sanh,
-
Thì ngươi không có được.
-
Như thế, các Tỳ-kheo! Hãy quán uế
ác, dâm là hạnh bất tịnh, hãy trừ bỏ sắc dục! Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học
điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
4. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Có năm hạng người chiến đấu xuất
hiện ở đời. Thế nào là năm? Hoặc có người mặc giáp, cầm gậy vào trận chiến
đấu. Ông ta thấy gió bụi liền lo sợ chẳng dám vào trong trận lớn kia. Ðó là
hạng người thứ nhất.
-
Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ
hai, mặc giáp cầm gậy vào trận chiến đấu. Ông ta thấy gió bụi không sợ hãi,
nhưng nghe tiếng trống đánh liền kinh sợ. Ðó là hạng người thứ hai.
-
Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ
ba mặc giáp cầm gậy vào quân chiến đấu. Ông ta thấy gió bụi không sanh sợ hãi,
nếu nghe tiếng trống, tù và cũng không lo sợ. Ông ta nếu thấy cờ xí liền sợ
hãi, chẳng kham chiến đấu. Ðó là người thứ ba.
-
Lại nữa, người chiến đấu thứ tư mặc
giáp, cầm gậy vào trong quân chiến đấu. Nếu ông ta thấy gió bụi không sanh sợ
hãi, nếu nghe tiếng trống, tù và cũng chẳng sợ sệt, nếu thấy cờ xí cũng không
kinh sợ. Nhưng ông ta có thể bị người bắt và giết chết. Ðó là người thứ tư.
-
Lại nữa, thứ năm, có người mặc giáp
cầm gậy vào trận cùng chiến đấu. Ông ta có thể nhẫn chịu, chẳng sợ khó khăn,
có thể đánh bại quân địch, mở rộng bờ cõi. Ðó là người thứ năm xuất hiện ở
đời.
-
Tỳ-kheo nên biết! Nay Tỳ-kheo cũng
có năm loại người xuất hiện ở đời. Thế nào là năm?
-
- Hoặc có Tỳ-kheo ở trong thôn xóm.
Người ấy nghe có nữ nhân đoan chánh vô song, như màu hoa đào. Tỳ-kheo ấy đến
giờ đắp y, ôm bát vào làng khất thực, không giữ gìn các căn, chẳng hộ trì pháp
thân, miệng, ý. Ông ta nếu thấy nữ nhân liền khởi dục ý, lại bỏ cấm giới, tập
pháp cư sĩ. Như người đầu tiên kia, nghe tiếng gió bụi nổi lên, chẳng kham
chiến đấu, sanh lòng sợ hãi; do đây nên Ta nói người này.
-
Lại nữa, có Tỳ-kheo trụ ở thôn xóm.
Ông ta nghe trong thôn có nữ nhân đoan chánh vô song, mặt như màu hoa đào,
liền bỏ cấm giới, học tập pháp cư sĩ. Như người chiến đấu thứ hai kia, chỉ
nghe tiếng trống, tù và mà chẳng kham chiến đấu; đây cũng vậy.
-
Lại nữa, có Tỳ-kheo trụ ở thôn xóm,
nghe có nữ nhân ở thôn xóm kia. Ông ta nghe rồi liền khởi dục ý. Nếu thấy nữ
nhân, ông ta không khởi dục tưởng, chỉ khi cùng nữ nhân đùa cợt, nơi đó bỏ cấm
giới, tập tành pháp cư sĩ. Như người thứ ba kia, xa trông thấy cờ xí liền sợ
hãi, chẳng kham chiến đấu; do đây nên Ta nói người này. Ðó là người chiến đấu
thứ ba.
-
Lại nữa, có Tỳ-kheo ở trong thôn
xóm. Tỳ-kheo ấy nghe trong thôn có nữ nhân; nghe rồi đắp y, ôm bát vào làng
khất thực, chẳng giữ gìn thân, miệng, ý. Ông ta thấy nữ nhân đoan chánh vô
song, nơi đó liền khởi dục ý, hoặc cùng nữ nhân kéo níu, hoặc nắm tay, liền bỏ
cấm giới, về làm cư sĩ. Như người chiến đấu thứ tư kia, ở trong đại quân bị
người bắt, mất mạng; do đó nên nay Ta nói người này.
-
Lại nữa, có Tỳ-kheo nghe trong thôn
xóm có nữ nhân hiếm có ở đời. Ông ta tuy nghe như thế mà không khởi dục tưởng.
Tỳ-kheo ấy đến giờ đắp y, ôm bát vào làng khất thực, thủ hộ thân, miệng, ý.
Ông ta tuy thấy nữ nhân, không khởi dục tưởng, không có niệm tà, dù có cùng nữ
nhân trò chuyện cũng chẳng khởi dục tưởng, cũng không niệm tà. Nếu cùng nữ
nhân níu kéo nắm tay, lúc ấy ông ta liền khởi dục tưởng, thân, miệng, ý liền
lừng lẫy. Dục ý đã lừng lẫy, trở về lại vườn, đến chỗ Tỳ-kheo Trưởng lão, đem
nhân duyên này nói với Tỳ-kheo trưởng lão:
-
- Chư Hiền nên biết! Nay tôi dục ý
lừng lẫy chẳng thể tự kềm chế. Cúi mong (chư hiền) thuyết pháp khiến tôi thoát
khỏi sự nhơ nhớp bất tịnh của dục.
-
Bấy giờ Trưởng lão Tỳ-kheo bảo:
-
- Nay Ông nên quán dục này từ đâu
sanh? Rồi từ đâu diệt? Như Lai nói: 'Phàm người trừ dục nên dùng quán bất tịnh
để trừ và tu hành đạo quán bất tịnh'.
-
Tỳ-kheo Trưởng lão bèn nói kệ:
-
Nếu biết tự điên đảo,
-
Làm tâm thêm lừng lẫy,
-
Nên trừ các thức tâm,
-
Dục ý liền thôi dứt.
-
Chư Hiền nên biết: dục từ tưởng
sanh, vì dấy tưởng niệm liền sanh dục ý, có thể hại mình, lại hại người khác,
khởi bao nhiêu tai nạn biến đổi; ở trong hiện tại nhận khổ hoạn này; lại ở đời
sau thọ khổ vô lượng. Dục ý đã trừ, chẳng tự hại mình, cũng chẳng hại người
khác, ở quả báo hiện tại chẳng chịu khổ này. Thế nên, nay hãy trừ tưởng niệm.
Do không tưởng niệm liền không tâm dục, đã không tâm dục liền không loạn
tưởng.
-
Bấy giờ Tỳ-kheo kia nhận lời dạy dỗ
như thế. Liền tư duy tưởng bất tịnh. Do tư duy tưởng bất tịnh, lúc ấy tâm hữu
lậu được giải thoát đến chỗ vô vi, như người thứ năm kia mặc giáp, cầm gậy vào
trận chiến đấu. Ông ta thấy địch không hề sợ hãi. Nếu có người đến hại, tâm
ông ta không di động; có thể phá dẹp giặc cướp bên ngoài, vào trong đất nước
người khác. Do vậy, nên nay Ta nói người này có thể phá chúng ma, trừ các loạn
tưởng, đến chỗ vô vi. Ðó là người thứ năm xuất hiện ở đời.
-
Tỳ-kheo nên biết! Thế gian có năm
loại người này xuất hiện ở đời. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy nhớ tu hành, dục là
tưởng bất tịnh. Như thế các Tỳ-kheo! Hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
5. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Phàm người quét đất thì có năm
việc chẳng được công đức. Thế nào là năm? Ở đây, người quét đất chẳng biết
ngược gió, chẳng biết thuận gió, lại chẳng gom nhóm, chẳng trừ phần, chỗ đất
quét lại chẳng sạch sẽ. Ðó là, này Tỳ-kheo! Người quét đất có năm việc chẳng
được công đức lớn.
-
Lại nữa, này Tỳ-kheo! Người quét
đất thành tựu năm công đức. Thế nào là năm? Ở đây, người quét đất biết lý
thuận gió, ngược gió, cũng biết gom nhóm, cũng có thể trừ bỏ chẳng để dư sót,
khiến đất hết sức sạch sẽ, tốt đẹp.
- Ðó
là, Tỳ-kheo! Có năm việc này thành tựu công đức lớn. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên
trừ năm việc trước, tu năm pháp sau. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
6. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Phàm người quét tháp thì có năm
việc chẳng được công đức. Thế nào là năm? Ở đây, có người quét tháp chẳng lấy
nước rưới đất, chẳng trừ bỏ ngói đá, chẳng sửa đất cho bằng phẳng, chẳng quét
đất nghiêm chính, chẳng trừ bỏ nhơ nhớp. Ðó là, này Tỳ-kheo! Người quét tháp
chẳng thành tựu năm công đức.
-
Tỳ-kheo nên biết! Người quét tháp
thành tựu năm công đức. Thế nào là năm? Ở đây người quét tháp lấy nước rưới
đất, trừ bỏ ngói đá, san bằng đất đai, quét đất nghiêm trang, trừ bỏ nhơ nhớp.
Ðó là này Tỳ-kheo! Có năm việc khiến người quét tháp được công đức. Thế nên,
các Tỳ-kheo! Muốn cầu công đức, nên hành năm việc này. Như thế, các Tỳ-kheo
nên học điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
7. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Người du hành nhiều có năm gian
nan. Thế nào là năm? Ở đây, người thường du hành không tụng giáo pháp, quên
mất giáo pháp đọc tụng, chẳng định được ý, đã được tam-muội lại quên mất, nghe
pháp không thể giữ gìn. Ðó là, này Tỳ-kheo! Người du hành nhiều có năm việc
khó này.
-
Tỳ-kheo nên biết! Người không du
hành nhiều có năm công đức. Thế nào là năm? Pháp chưa từng đắc sẽ được đắc
pháp, được rồi chẳng quên nữa, nghe nhiều có thể gìn giữ, hay được định ý, đã
được tam muội không bị mất nữa.
-
Ðó là, này Tỳ-kheo! Người không du
hành nhiều có năm công đức này. Thế nên, các Tỳ-kheo! Chớ nên du hành nhiều.
Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
8. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Nếu có Tỳ-kheo ở hoài một chỗ, sẽ
có năm điều phi pháp. Thế nào là năm?
-
Ở đây, Tỳ-kheo ở một chỗ, ý sẽ dính
mắc vào nhà cửa sợ người khác chiếm đoạt; hoặc ý đắm mến tài sản lại sợ người
đoạt; hoặc chứa nhiều vật giống như người đời; tham mến người thân, không muốn
cho người khác đến nhà người mình thân; thường cùng cư sĩ qua lại. Ðó là, này
Tỳ-kheo! Người ở một chỗ có năm điều phi pháp này. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên
cầu phương tiện, chớ trụ một chỗ. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
9. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng
Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Người không ở một chỗ có năm công
đức. Thế nào là năm? Không tham nhà cửa, không tham đồ vật, không chứa nhiều
tài vật, chẳng dính mắc thân tộc, chẳng cùng cư sĩ qua lại giao thiệp. Ðó là,
này Tỳ-kheo! Người không trụ một chỗ có năm công đức này. Thế nên, các
Tỳ-kheo! Hãy cầu phương tiện hành năm việc này. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học
điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
10. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở nước Ma-kiệt, bên
hồ Quang Minh.
-
Bấy giờ Thế Tôn cùng với đại chúng
Tỳ-kheo năm trăm người, đi du hóa trong nhân gian. Khi ấy, Thế Tôn thấy một
cây lớn bị lửa đốt cháy. Thấy rồi, Như Lai đến ngồi dưới một gốc cây. Thế Tôn
bảo các Tỳ-kheo:
-
- Thà đem thân nhảy vào lửa này hay
thà cùng nữ nhân đoan chánh giao thiệp?
-
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
-
- Thà cùng nữ nhân giao thiệp chứ
chẳng nên nhảy vào lửa này. Vì sao thế? Lửa này nóng độc không thể tính kể, nó
chấm dứt mạng sống của mình, chịu khổ vô lượng.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nay Ta bảo cho các Thầy: Chẳng
phải hạnh Sa-môn mà nói là Sa-môn, chẳng phải người Phạm hạnh mà nói là Phạm
hạnh, chẳng nghe Chánh pháp mà nói ta nghe pháp, không có pháp thanh bạch.
Người như thế, thà nhảy vào lửa này chứ chẳng cùng nữ nhân giao thiệp. Vì sao?
Thà chịu đau khổ này, chứ chẳng vì tội này khiến vào trong địa ngục, chịu khổ
vô lượng.
- Thế
nào Tỳ-kheo! Nên chịu người lễ bái cúng kính hay thà khiến người đem kiếm bén
chặt tay chân?
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Thà chịu cung kính lễ bái, chẳng
cho người lấy kiếm chặt chân tay. Vì sao? Chặt tay chân, đau đớn không kể nổi.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nay Ta bảo các Thầy: Chẳng phải
hạnh Sa-môn mà xưng là Sa-môn, chẳng phải người Phạm hạnh mà nói là Phạm hạnh,
chẳng nghe Chánh pháp mà nói rằng nghe Chánh pháp, không hạnh thanh bạch, dứt
hết gốc lành. Người như thế, thà gieo mình chịu kiếm bén này chứ không để
không giới mà nhận người cung kính. Vì sao thế? Cái đau này chỉ trong khoảnh
khắc, còn đau khổ ở địa ngục không thể tính kể.
-
Thế nào Tỳ-kheo! Thà nhận y phục
của người hay thà lấy mảnh sắt nóng quấn quanh mình?
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Thà nhận y phục của người chứ
chẳng chịu sự thống khổ này. Vì sao thế? Ðiều này độc hại, đau khổ không thể
tính kể.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nay Ta lập lại một lần nữa cho
các Thầy biết: Người không giới hạnh, thà lấy mảnh sắt nóng quấn vào mình, chớ
chẳng nên nhận y phục của người. Sở dĩ như thế vì sự thống khổ này chỉ trong
chốc lát, còn đau khổ trong địa ngục thì không thể tính kể.
-
Thế nào, Tỳ-kheo! Thà nhận thức ăn
của tín thí hay thà nuốt hoàn sắt nóng?
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Thà nhận thức ăn của tín thí, chứ
không thể nuốt hoàn sắt nóng. Sở dĩ như thế vì sự đau đớn này không có chỗ
kham nổi.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nay Ta bảo các Thầy: Thà nuốt
hoàn sắt nóng chứ chẳng nên không có giới hạnh mà nhận người cúng dường. Vì
sao thế? Vì nuốt hoàn sắt nóng chỉ đau khổ trong chốc lát, chứ chẳng nên không
giới hạnh thọ người tín thí.
-
Thế nào Tỳ-kheo! Thà nhận giường
chõng của người hay thà nằm trên giường sắt nóng?
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Bạch Thế Tôn! Chúng con thà nhận
giường chõng của người, chứ không nằm trên giường sắt nóng. Sở dĩ thế vì điều
này rất độc hại, đau đớn không thể tính kể.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Người ngu si kia không có giới
hạnh, chẳng phải Sa-môn mà nói là Sa-môn, không có Phạm hạnh nói tu Phạm hạnh
thì thà nằm trên giường sắt nóng, chẳng đem không có giới hạnh mà thọ người
tín thí. Sở dĩ như thế vì nằm trên giường sắt nóng chịu khổ chốc lát, không do
vô giới mà thọ người tín thí.
-
Tỳ-kheo nên biết! Hôm nay Ta xem
chỗ hướng đến của người không giới hạnh. Nếu người ấy ở nhân gian thì hình hài
khô héo, hộc máu mà chết; không cùng nữ nhân giao du, không có đức nhận người
kính lễ, không nhận được y phục, thức ăn uống, giường chõng, thuốc men của
người. Vì người vô giới này chẳng xem tội đời trước, đời sau, chẳng đoái hoài
đến mạng căn nên phải chịu sự đau khổ này. Người không giới hạnh sẽ sanh trong
ba đường ác. Vì sao thế? Vì tạo hạnh ác nên bị đưa đến đây.
-
Hôm nay Như Lai quán sát chỗ thú
hướng của người làm lành, ngay cho dù người ấy trúng độc hay bị thương bởi đao
kiếm, tự cắt đứt tính mạng. Vì cớ sao? Muốn bỏ thân này, hưởng phước cõi trời,
sẽ sanh vào cõi lành, do chịu quả báo đời trước khiến hạnh lành đưa đến.
-
Thế nên, Tỳ-kheo! Nên nhớ tu hành
giới thân, định thân, tuệ thân, giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân.
Muốn khiến đời này được quả báo, được đạo cam lộ thì dù cho có nhận y phục,
thức ăn uống, giường chõng, thuốc men cũng không lầm lỗi, lại khiến đàn việt
được phước vô cùng. Như thế, các Tỳ-kheo! Hãy học điều này.
-
Lúc Phật thuyết pháp này, sáu mươi
Tỳ-kheo được lậu tận, ý giải; sáu mươi vị bỏ pháp phục trở về làm cư sĩ.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
Năm vua và Nguyệt Quang,
-
Thi bà - Hai chiến đấu,
-
Hai quét - Hai hành pháp,
-
Ði ở có hai loại,
-
Cây khô ở sau cùng.
- --o0o--
|
|