|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
BA
- 5
-
XXXXIX.2. Phẩm Chăn Trâu (2)
-
-
Bấy giờ, Thế Tôn bèn đưa lưỡi liếm
lỗ tai bên mặt và bên trái rồi thâu vào. Và Ngài liền nhập chánh định, khiến
Phạm chí ấy thấy được tướng mã âm tàng. Khi Phạm chí thấy Phật đủ ba mươi hai
tướng, tám mươi vẻ đẹp thì vui mừng phấn khởi không thể tự kềm. Phạm chí
Thí-la bạch Phật:
-
- Nay tôi là Bà-la-môn, Sa-môn dòng
Sát-lợi, song Sa-môn hay Bà-la-môn đều một đạo, cầu một giải thoát. Sa-môn
chấp nhận chúng ta đồng một đạo chăng?
-
Phật bảo Phạm chí:
-
- Ông có kiến chấp này.
-
Phạm chí thưa:
-
- Tôi có kiến chấp ấy.
-
Phật bảo Phạm chí:
-
- Ông nên khởi ý hướng về một giải
thoát. Ðó là chánh kiến.
-
Phạm chí bạch Phật:
-
- Chánh kiến tức là một giải thoát,
lại có giải thoát chăng?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Phạm chí! Có giải thoát được
Niết-bàn. Việc ấy có tám. Ðó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Này Phạm chí,
đó là Tám đạo phẩm đưa đến Niết-bàn.
-
Phạm chí bạch Phật:
-
- Có chúng sanh nào biết được Tám
đạo phẩm nầy chăng?
-
Phật bảo:
-
- Chẳng phải một, trăm, nghìn. Phạm
chí nên biết! Có vô số trăm nghìn chúng sanh được biết Tám đạo phẩm này.
-
Phạm chí bạch Phật:
-
- Lại có chúng sanh nào không hiểu
được Tám đạo phẩm này chăng?
-
Phật bảo:
-
- Chúng sanh không hiểu điều này
chẳng phải một người.
-
Phạm chí bạch Phật:
-
- Có chúng sanh nào không được pháp
này chăng?
-
Phật bảo:
-
- Có chúng sanh không được đạo này
gồm mười một hạng người như thế này. Thế nào là mười một? Ðó là những người
gian ngụy, ác ngữ, khó can gián, không biết ơn, tánh ưa ganh ghét, giết hại
cha mẹ, giết A-la-hán, đoạn dứt căn lành, việc lành trở lại làm ác, chấp ngã,
khởi ý ác đối với Như Lai. Phạm chí! Ðó là mười một hạng người không thể đạt
được Tám đạo phẩm này.
- Khi
đức Phật đang nói Tám đạo phẩm, Phạm chí ấy dứt sạch các trần cấu, đắc pháp
nhãn tịnh.
-
Bấy giờ Phạm chí Thí-la bảo năm
trăm đệ tử:
-
- Các Ông đều học được điều tốt,
mỗi người tự tụng tập. Ta muốn ở chỗ Phật tu Phạm hạnh.
-
Các đệ tử thưa:
-
- Chúng con cũng muốn xuất gia học
đạo.
-
Bấy giờ, Phạm chí và năm trăm đệ tử
mỗi mỗi quỳ xuống bạch Phật:
-
- Cúi xin Thế Tôn cho chúng con
xuất gia học đạo.
-
Phật bảo các Phạm chí:
-
- Thiện lai Tỳ-kheo! Ở nơi Như Lai
khéo tu Phạm hạnh thì dần dần sẽ chấm dứt gốc khổ.
-
Khi Phật nói lời ấy, năm trăm Phạm
chí liền thành Sa-môn. Thế Tôn dần dần vì năm trăm người giảng dạy về luận vi
diệu. Ðó là luận bố thí, trì giới, sanh thiên, dục tưởng bất tịnh, xuất yếu là
an vui. Như các pháp mà chư Phật Thế Tôn thường dạy Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Thế
Tôn cũng vì các Thầy ấy giảng nói rộng. Khi ấy, năm trăm Sa-môn vĩnh viễn dứt
sạch các lậu hoặc, được pháp hơn người.
-
Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh lại bạch:
-
- Ðến thời, xin Thế Tôn quang lâm.
-
Phật bảo Thí-la và năm trăm
Tỳ-kheo.
-
- Các Ông hãy đắp y mang dĩa.
-
Một nghìn vị Tỳ-kheo vây quanh, đi
vào thành đến nhà Phạm chí, lên tòa ngồi.
-
Phạm chí Sí-ninh thấy năm trăm
Bà-la-môn đều làm Sa-môn liền bảo rằng:
-
- Lành thay các Vị! Ðiều cần yếu
hướng về đạo không gì hơn việc này.
-
Tỳ-kheo Thí-la vì Sí-ninh nói kệ:
-
Ngoài đây không có pháp
-
Hay hơn điều cần ấy,
-
So sánh như thế ấy,
-
Ðiều lành không gì hơn.
-
Phạm chí Sí-ninh bạch Phật:
-
- Cúi xin Thế Tôn đợi giây lát,
chính lúc này lại dọn thêm thức ăn.
-
Phật bảo:
-
- Các thức ăn đã xong, đúng giờ cứ
đem đến, đừng sợ không đủ.
-
Phạm chí Sí-ninh vui mừng vô lượng,
đích thân tự san sớt thức ăn cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng. Khi Thế Tôn thọ
trai xong, Ông dọn rửa bát, đem bao nhiêu thứ hoa rải lên Phật và Tỳ-kheo
Tăng, và đến trước bạch Phật:
-
- Xin thưa Thế Tôn! Hết thảy người
lớn nhỏ, nam nữ trong nhà con đều xin làm Ưu-bà-tắc.
-
Bấy giờ, phu nhân của Phạm chí đang
có thai, bèn bạch Phật:
-
- Con đang mang thai, không biết là
nam hay nữ, cũng xin tự quy y, xin Như Lai nhận cho làm Ưu-bà-di.
-
Phật vì đại chúng nói pháp vi diệu,
liền ngồi trên tòa, nói kệ này:
-
Lành thay phước báo này,
-
Sở nguyện ắt được quả,
-
Dần lên chỗ an lạc,
-
Trọn không lo nguy tai,
-
Chết được sanh lên trời,
-
Cũng không thể khiến cho
-
Người làm phước bị tội.
-
Họ cũng tìm phương tiện,
-
Ðược trí tuệ Hiền Thánh,
-
Sẽ dứt sạch gốc khổ,
-
Xa bỏ hẳn tám nạn.
-
Thế Tôn nói kệ ấy rồi, rời tòa mà
đi.
-
Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh nghe Phật
dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
7. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ,
rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Ta thường ngồi ăn một bữa, thân
thể nhẹ nhàng, khí lực mạnh mẽ. Tỳ-kheo các Thầy cũng nên ăn một bữa, thân thể
nhẹ nhàng khí lực mạnh mẽ, dễ tu Phạm hạnh.
-
Bấy giờ, Bạt-đề-bà-la bạch Phật:
-
- Con không thể ăn một bữa. Vì sao?
Vì khí lực yếu kém.
-
Phật bảo:
-
- Cho phép Thầy đến nhà đàn-việt,
ăn một phần, đem về một phần.
-
Bạt-đề-bà-la bạch Phật:
-
- Con cũng không thể làm pháp này.
-
Phật bảo:
-
- Cho phép Thầy bỏ ngọ trai, ăn
trong ngày.
-
Bạt-đề-bà-la thưa:
-
- Con cũng không thể làm theo pháp
này.
-
Thế Tôn im lặng không nói nữa.
-
Bấy giờ, Ca-lưu-đà-di vào buổi
chiều mặt trời lặn, đắp y mang bát vào thành khất thực. Khi đó, trời rất tối,
Ca-lưu-đà-di dần dần đi đến nhà một trưởng giả. Phu nhân của trưởng giả ấy
đang mang thai, nghe Sa-môn khất thực ngoài cửa, liền tự đem cơm ra cho. Song
Thầy Ca-lưu-đà-di sắc mặt rất đen, lại khi ấy trời sắp mưa, sấm chớp giăng
đầy; phu nhân của trưởng giả ra cửa, thấy sa-môn mặt đen thui, bèn kinh hoàng
kêu là quỷ, và tự hô hoán lên:
-
- Chao ôi! Ta gặp quỷ.
-
Liền khi đó đọa thai mà chết. Khi
ấy, Ca-lưu-đà-di trở về tinh xá, lo buồn không vui, ngồi tư duy hối hận không
kịp.
-
Khi ấy, trong thành Xá-vệ có tiếng
ác này: "Sa-môn Thích tử trù rủa làm đọa thai con của người". Nam nữ trong
thành đều bảo nhau rằng: "Hiện nay Sa-môn hành động không tiết độ, ăn chẳng
đúng thời, như hàng cư sĩ tại gia chẳng khác". Bấy giờ, phần đông các Tỳ-kheo
đều nghe dân chúng bàn luận điều này: "Sa-môn dòng Thích không biết tiết độ,
đi đứng không kiêng dè". Trong đó, các Tỳ-kheo giữ giới, những người đầy đủ
giới luật cũng tự oán trách: "Thật chẳng phải là oai nghi của chúng ta, ăn
không chừng mực, đi không đúng thời, thật là điều quấy của chúng ta". Các vị
ấy dẫn nhau đến chỗ đức Phật, cúi đầu lễ chân Phật, đem hết mọi chuyện bạch
Phật.
-
Phật bảo một Tỳ-kheo:
-
- Thầy đi kêu Ca-lưu-đà-di đến đây.
-
Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, liền đi
kêu Ca-lưu-đà-di. Ca-lưu-đà-di nghe Phật gọi, liền đến chỗ Phật, cúi đầu lễ
Phật, lui ngồi một bên.
-
Thế Tôn hỏi:
-
- Phải ngày hôm qua, vào buổi chiều
Thầy vào thành khất thực, đến nhà trưởng giả khiến vợ trưởng giả đọa thai
chăng?
-
Ca-lưu-đà-di bạch Phật:
-
- Thưa vâng, Thế Tôn.
-
Phật bảo:
-
- Vì sao Thầy không phân biệt thời
tiết, lại vào lúc trời sắp mưa vào thành khất thực? Ðó không phải là oai nghi
của Thầy. Thầy đã là hàng quý tộc, xuất gia học đạo mà còn tham trước ăn uống.
-
Ca-lưu-đà-di bèn đứng dậy, bạch
Phật:
-
- Từ nay về sau không dám phạm lại.
Cúi xin Thế Tôn nhận cho con sám hối.
-
Phật bảo Tôn giả A-nan mau đánh
kiền chùy, nhóm các Tỳ-kheo tại giảng đường Phổ Hội, A-nan vâng lời Phật dạy,
liền nhóm các Tỳ-kheo tại giảng đường, rồi đến trước Phật, bạch rằng:
-
- Các Tỳ-kheo đã nhóm, xin Thế Tôn
biết đúng thời.
-
Thế Tôn liền đến giảng đường ngồi
vào tòa chính giữa, bảo các Tỳ-kheo:
-
- Các đức Phật ở đời quá khứ lâu xa
đều ăn một bữa. Các hàng Thanh văn cũng ăn một bữa. Các đức Phật tương lai và
chúng đệ tử cũng sẽ chỉ ăn một bữa. Vì sao thế? Ðó là pháp yếu để hành đạo,
nên ăn một bữa. Nếu có thể ăn một bữa, thân thể nhẹ nhàng, tâm được khai mở.
Tâm đã mở bèn được các căn lành. Ðã được căn lành liền được chánh định. Ðã
được chánh định thì biết đúng như thật. Thế nào gọi là biết đúng như thật?
Nghĩa là Khổ đế, biết như thật là Khổ đế; Khổ tập đế, biết như thật là Khổ tập
đế; Khổ tận đế biết như thật là Khổ tận đế; Khổ xuất yếu đế (đạo đế) biết như
thật là Khổ xuất yếu đế.
-
Các Thầy là dòng hào quý, đã xuất
gia học đạo, bỏ tám nghiệp ở thế gian mà không biết thời tiết thì khác gì
người tham dục kia? Phạm chí có pháp riêng của Phạm chí, ngoại đạo có pháp
riêng của ngoại đạo.
-
Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật:
-
- Chư Phật ở quá khứ và tương lại
đều ăn một bữa. Cúi xin Thế Tôn nên vì các Tỳ-kheo hạn chế thời gian ăn uống.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Như Lai cũng biết như thế, nhưng
chưa có người phạm trước mắt. Có phạm tội mới chế giới cấm.
-
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Ta chỉ ăn một bữa, các Thầy cũng
nên ăn một bữa. Nay các Thầy ăn vào giờ ngọ, không được quá thời.
-
Các Thầy cũng phải học pháp khất
thực. Thế nào là Tỳ-kheo học pháp khất thực? Khi Tỳ-kheo chỉ vì mạng sống thì
xin được thức ăn cũng không vui, không được cũng không lo. Nếu khi được thức
ăn, tư duy quán tưởng mà ăn, không có tâm tham đắm, chỉ muốn thân này được
sống, trừ được bệnh cũ lại không tạo mới, khiến cho khí lực đầy đủ. Như thế,
này các Tỳ-kheo, gọi là khất thực.
-
Tỳ-kheo các Thầy nên ngồi ăn một
bữa. Thế nào là Tỳ-kheo ngồi ăn một bữa? Nếu đứng lên thì phạm, ăn rồi không
nên ăn nữa. Như thế gọi là Tỳ-kheo ngồi ăn một bữa.
-
Tỳ-kheo các Thầy cũng nên được thức
ăn mà ăn. Thế nào là Tỳ-kheo được thức ăn mà ăn? Khi Tỳ-kheo đã được thức ăn,
lại có trai chủ cúng thêm lần nữa, do thức ăn nầy là được lại, không nên ăn.
Như thế, Tỳ-kheo được thức ăn chỉ một lần.
-
Tỳ-kheo các Thầy cũng nên mặc ba y, ngồi dưới cội cây, ngồi chỗ vắng, nên khổ
hạnh ngồi nơi đất trống, nên mặc y cũ vá, nên ở chỗ gò mả, nên mặc áo cũ xấu.
Vì sao thế? Vì khen ngợi người thiểu dục.
-
Nay Ta dạy các Thầy nên như Tỳ-kheo
Ca-diếp. Vì sao thế? Tỳ-kheo Ca-diếp tự hành mười một pháp đầu đà, cũng dạy
người làm theo pháp yếu này.
-
Nay Ta dạy các Thầy nên như Tỳ-kheo
Diện Vương. Vì sao? Tỳ-kheo Diện Vương mặc y cũ xấu không mặc y đẹp.
-
Tỳ-kheo! Ðây là lời dạy của Ta, nên
ghi nhớ tu tập. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ, Tỳ-kheo Bạt-đề-bà-la suốt
ba tháng không đến chỗ thế Tôn. A-nan vừa hết ba tháng an cư, đến chỗ Tỳ-kheo
Bạt-đề-bà-la nói rằng:
-
- Nay chúng Tăng đều may vá y áo,
như thế Thế Tôn sẽ đi du hóa nhân gian. Bây giờ Thầy không đến, sau hối hận vô
ích.
-
Khi ấy, A-nan dẫn Bạt-đề-bà-la đến
chỗ đức Thế Tôn, Bạt-đề-bà-la lễ Phật và bạch Phật:
-
- Cúi xin Thế Tôn cho con sám hối,
từ nay về sau không dám phạm lại. Như Lai chế cấm giới mà con không thọ trì.
Cúi xin rũ lòng tha thứ.
-
Thưa như thế ba lần. Phật bảo:
-
- Cho phép Thầy hối lỗi, sau chớ
phạm lại. Vì sao? Ta tự suy nghĩ trong vô số kiếp sanh tử, hoặc có khi làm
thân lừa, la, lạc đà, voi, ngựa, heo, dê, ăn cỏ để nuôi thân; hoặc ở trong địa
ngục nuốt hoàn sắt nóng; hoặc làm ngạ quỷ thường ăn máu mủ; hoặc làm thân
người ăn ngũ cốc; hoặc làm thân trời ăn những vị cam lồ tự nhiên; trong vô số
kiếp thân mạng cùng tranh không biết chán.
-
Bạt-đề-bà-la! Như lửa cháy củi
không đủ, như biển lớn nuốt các dòng không đủ, nay người phạm cũng như vậy,
tham ăn không biết chán đủ.
-
Thế Tôn bèn nói kệ này:
-
Sanh tử không đoạn dứt,
-
Ðều do từ tham dục,
-
Oán ghét nuôi ác ấy,
-
Người ngu tập theo đó.
-
Thế nên, này Bạt-đề-bà-la nên ghi
nhớ ít muốn, biết đủ, chớ khởi tưởng tham, dấy các niệm tán loạn. Như thế,
Bạt-đề-bà-la, nên học điều này.
-
Bấy giờ, Bạt-đề-bà-la nghe Phật
giáo giới, đã ở chỗ vắng tự khắc trách mình. "Vốn dòng hào tộc, xuất gia học
đạo, tu Phạm hạnh vô thượng, sanh tử đã hết, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm
đã làm xong, không thọ thân sau, như thật mà biết". Bạt-đề-bà-la liền thành
A-la-hán.
-
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Trong hàng đệ tử Ta, người ăn
uống nhiều đệ nhất trong số Thanh văn là Tỳ-kheo Cát-Hộ.
-
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
-
8. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở thôn Ương Nghệ,
cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.
-
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Dân chúng đều gọi các Thầy là
Sa-môn, giả sử có ai hỏi các Thầy có phải Sa-môn chăng thì các thầy cũng đáp
là Sa-môn. Nay Ta bảo càc Thầy về hạnh Sa-môn, sau ắt thành quả như thật không
khác. Vì sao thế? Có hai hạng Sa-môn: tập hạnh Sa-môn, thệ nguyện Sa-môn.
-
Thế nào gọi là tập hạnh Sa-môn? Là
Tỳ-kheo tới lui, đi đứng, nhìn ngó, dung mạo, đắp y mang bát, thảy đều đúng
như pháp, không đắm trước vào tham dục, sân nhuế, ngu si, chỉ trì giới tinh
tấn không phạm phi pháp, học tập các giới. Ðó là tập hạnh Sa-môn.
-
Thế nào gọi là thệ nguyện Sa-môn? Ở
đây, hoặc có Tỳ-kheo oai nghi giới luật, đi đứng ra vào, dung mạo, nhìn ngó,
cử động thảy đều như pháp, chấm dứt hữu lậu thành tựu vô lậu, ở trong hiện
pháp tự thân chứng đắc và đi du hóa, sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã lập, việc
phải làm đã làm xong, không thọ thân sau, mà biết như thật. Ðó là thệ nguyện
Sa-môn.
-
Tỳ-kheo, đó là hai hạng Sa-môn.
-
Tôn giả A-nan bạch Phật:
-
- Thế nào gọi là pháp hạnh Sa-môn,
pháp hạnh Bà-la-môn?
-
Phật bảo A-nan:
-
- Ở đây, Tỳ-kheo ăn uống biết vừa
đủ, ngày đêm đi kinh hành, tu tập các đạo phẩm không để mất thời tiết. Thế nào
gọi là Tỳ-kheo các căn vắng lặng? Ở đây, Tỳ-kheo mắt thấy sắc không khởi tưởng
đắm trước, không dấy các loạn niệm, trong ấy mà nhãn căn được thanh tịnh, trừ
các niệm ác, không nghĩ nhớ pháp bất thiện, hoặc khi tai nghe tiếng, mũi ngửi
mùi, lưỡi nếm vị, thân biết cảm giác, ý biết pháp không khởi tưởng đắm trước,
không dấy các loạn niệm, nơi ý căn được thanh tịnh. Như thế gọi là Tỳ-kheo sáu
căn được thanh tịnh.
-
Thế nào là Tỳ-kheo ăn uống biết vừa
đủ? Ở đây, Tỳ-kheo ăn uống vừa đủ lượng, không cầu mập, trắng, chỉ muốn thân
này sống mà thôi, trừ bệnh cũ, bệnh mới không sanh, chỉ muốn thân này sống mà
thôi, trừ bệnh cũ, bệnh mới không sanh, được tu Phạm hạnh. Cũng như người nam
nữ, thân sanh ghẻ, tùy thời dùng thuốc thoa xức điều trị, vì muốn vết thương
lành. Nay Tỳ-kheo cũng lại như thế, lượng vào sức mà ăn. Sở dĩ dùng dầu bôi
vào xe vì muốn đi xa, Tỳ-kheo ăn vừa đủ lượng là muốn duy trì mạng sống. Như
thế gọi là Tỳ-kheo ăn uống biết vừa đủ.
-
Thế nào là Tỳ-kheo thường biết tỉnh
thức? Ở đây, Tỳ-kheo vào đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm biết tỉnh thức, tư duy Ba
mươi bảy đạo phẩm; ngày thời kinh hành trừ bỏ niệm ác, các tưởng kiết sử, lại
vào đầu đêm, cuối đêm kinh hành trừ bỏ kiết sử, các tưởng bất thiện, vào giữa
đêm nằm nghiêng hông bên mặt, hai chân duỗi xếp lên nhau, chỉ tưởng về ánh
sáng, rồi vào cuối đêm kinh hành tới lui, trừ bỏ niệm bất thiện. Như thế là
Tỳ-kheo biết thời tỉnh thức.
-
Như thế, này A-nan! Ðây là hạnh cần
yếu của Sa-môn.
-
Thế nào gọi là hạnh cần yếu của
Bà-la-môn? Ở đây, Tỳ-kheo Khổ đế biết như thật là Khổ đế; Khổ tập, Khổ tận,
Khổ xuất yếu, như thật biết như thế. Sau do mở được tâm dục lậu, tâm hữu lậu,
tâm vô minh lậu nầy mà được giải thoát. Ðã được giải thoát liền được giải
thoát tri kiến, sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã xong, không
thọ thân lại, mà biết như thật. Ðây là hạnh cần yếu của Bà-la-môn. A-nan nên
biết! Ðây là ý nghĩa của hạnh cần yếu.
-
Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:
-
Sa-môn tên tâm dứt,
-
Các ác vĩnh viễn tận,
-
Phạm chí tên thanh tịnh,
-
Trừ bỏ các loạn tưởng.
-
Thế nên A-nan! Nên ghi nhớ tu hành
pháp hạnh của Sa-môn, pháp hạnh của Bà-la-môn. Chúng sanh nào làm các pháp
này, sau mới xưng là Sa-môn.
-
Lại vì có gì gọi là Sa-môn? Vì các
kết vĩnh viễn chấm dứt nên gọi là Sa-môn. Lại vì có gì gọi là Bà-la-môn? Trừ
sạch các ngu hoặc nên gọi là Phạm chí, cũng gọi là Sát-lợi. Lại vì cớ gì gọi
là Sát-lợi? Do đoạn trừ dâm, nộ, si nên gọi là Sát-lợi; cũng gọi là tắm gội.
Thế nào gọi là tắm gội? Do tẩy sạch hai mươi mốt kết nên gọi là tắm gội; cũng
gọi là giác. Vì cớ gì gọi là giác? Do biết rõ pháp ngu, pháp tuệ nên gọi là
giác; cũng gọi là bỉ ngạn. Vì cớ gì gọi là bỉ ngạn? Do từ bờ này đến bờ kia
nên gọi là bỉ ngạn.
-
Này A-nan! Hãy hành trì pháp này,
sau mới gọi là Sa-môn, Bà-la-môn. Ðây là nghĩa như thế, nên ghi nhớ vâng làm.
-
Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong,
vui vẻ vâng làm.
-
9. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở tại thành Thích-si
Ca-tỳ-la việt vườn Ni-câu-lưu, cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu
hội.
-
Bấy giờ, vương tử Ðề-bà-đạt-đa đến
chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên, Ðề-bà-đạt-đa bạch Phật:
-
- Cúi xin Thế Tôn cho con được làm
Sa-môn.
-
Phật bảo Ðề-bà-đạt-đa:
-
- Ông nên ở tại gia làm việc bố
thí, làm Sa-môn thật chẳng dễ.
-
Khi ấy, Ðề-bạt-đạt-đa lại ba phen
bạch Phật:
-
- Cúi xin Thế Tôn cho phép con theo
Ngài.
-
Phật lại bảo:
-
- Ông nên ở nhà, không nên xuất gia
tu hạnh Sa-môn.
-
Ðề-bà-đạt-đa khởi nghĩ rằng:
"Sa-môn này có lòng tật đố, nay ta có thể tự cạo tóc, tu Phạm hạnh, đâu cần
Sa-môn ấy làm gì?" Ðề-bà-đạt-đa liền lui về, tự cạo bỏ râu tóc, mặc cà sa, tự
xưng: "Ta là hàng Thích tử".
-
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo tên
Tu-la-đà, hành hạnh đầu đà, khất thực, mặc y vá, thông suốt ngũ thông.
Ðề-bà-đạt-đa liền đến chỗ Tỳ-kheo ấy, cúi đầu lễ dưới chân, bạch rằng:
-
- Cúi xin Tôn giả nói giáo pháp cho
tôi khiến cho được an ổn lâu dài.
-
Tỳ-kheo Tu-la-đà liền nói pháp cho,
các oai nghi lễ độ, suy nghĩ về pháp này, bỏ điều này được điều này. Khi ấy,
Ðề-bà-đạt-đa như lời Tỳ-kheo ấy dạy không để sai sót. Ðề-bà-đạt-đa lại bạch
với Tỳ-kheo ấy rằng:
-
- Cúi xin Tôn giả dạy cho tôi về
pháp thần túc, tôi có thể tu hành theo pháp ấy.
-
Bấy giờ, Tỳ-kheo lại dạy pháp thần
túc cho ông:
-
- Nay Ông nên học về tâm ý khinh
trọng, đã biết tam ý khinh trọng, lại nên phân biệt về tứ đại địa, thủy, hỏa,
phong khinh trọng. Ðã biết được tứ đại khinh trọng, lại nên tu hành về chánh
định tự tại. Ðã thực hành chánh định tự tại, lại nên tu chánh định dũng mãnh.
Ðã thực hành chánh định dũng mãnh, lại nên tu về chánh định tâm ý. Ðã thực
hành chánh định tâm ý, lại nên hành chánh định tự giới, đã tu hành chánh định
tự giới, như thế không bao lâu sẽ thành tựu thần túc.
-
Ðề-bà-đạt-đa vâng lời Tỳ-kheo ấy
dạy, tự biết về tâm ý khinh trọng, lại biết về tứ đại khinh trọng, tu hết các
chánh định không sai sót; không bao lâu liền thành tựu được thần túc. Như thế,
Ðề-bà-đạt-đa có vô số phương tiện tiến hóa vô lượng. Bấy giờ danh tiếng
Ðề-bà-đạt-đa lưu truyền lan xa bốn phương.
-
Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa dùng sức thần
túc bay lên cõi trời Ba mươi ba, hái các thứ hoa như hoa sen ưu-bát-la, hoa
câu-mâu-đầu, đem về dâng thái tử A-xà-thế, và bảo:
-
- Hoa này từ cõi trời Ba mươi ba,
Thích-đề-hoàn-nhân đem đến tặng Thái tử.
-
Thái tử thấy Ðề-bà-đạt-đa có thần túc như thế, liền tùy thời cúng dường, cung
cấp vật cần dùng. Thái tử lại khởi nghĩ: "Ðề-bà-đạt-đa lại tự ẩn thân, biến
thành đứa bé ngồi trên đùi gối thái tử. Các thể nữ đều khởi nghĩ: "Ðây là
người gì? Là Quỷ ư? Là Trời ư?". Bàn tán chưa xong, Ðề-bà lại hóa thân trở lại
như cũ. Khi đó, thái tử và các cung nhân đều khen rằng: "Ðây là Ðề-bà-đạt-đa",
liền cung cấp vật cần dùng, lại truyền tụng lời này: "Ðề-bà-đạt-đa danh đức
không thể nói hết được".
-
Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo nghe điều
này, đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ Phật, bạch:
-
- Ðề-bà-đạt-đa có thần túc rất lớn,
thường nhận được y phục, thức ăn uống, giường nệm, thuốc men.
-
Phật bảo các Tỳ-kheo:
-
- Các Thầy chớ khởi ý niệm này,
tham đắm lợi dưỡng của Ðề-bà-đạt-đa; lại cũng đừng khen ngợi sức thần túc của
ông ấy. Ông ấy do thần túc này rơi trong ba đường ác. Lợi dưỡng của
Ðề-bà-đạt-đa, và thần túc của ông ấy sẽ chấm dứt. Vì sao thế? Ðề-bà sẽ tự tạo
nghiệp thân, khẩu, ý.
-
Khi đó, Ðề-bà-đạt-đa lại khởi nghĩ
rằng: "Sa-môn Cù-đàm có thần túc, ta cũng có thần túc; Sa-môn Cù-đàm có tri
thức, ta cũng có tri thức; Sa-môn Cù-đàm dòng họ cao quý, ta cũng dòng họ cao
quý. Nếu Sa-môn Cù-đàm hiện một thần túc, ta sẽ hiện hai; Sa-môn Cù-đàm hiện
hai, ta sẽ hiện bốn, kia hiện tám, ta hiện mười sáu; kia hiện mười sáu, ta
hiện ba mươi hai; tùy theo sức hóa hiện của Sa-môn ấy, ta sẽ tăng gấp đôi".
-
Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo nghe
Ðề-bà-đạt-đa nói như vậy, hơn năm trăm Tỳ-kheo đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa và năm
trăm Tỳ-kheo nhận sự cúng dường của thái tử A-xá-thế.
-
Khi ấy, hai Tôn giả Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên nói với nhau rằng: "Chúng ta cùng đi đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa, nghe
ông ấy nói pháp, xem là luận thuyết gì", liền cùng đi đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa.
Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa xa thấy Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đi đến, liền bảo các
Tỳ-kheo.
-
- Hai người này là đệ tử của
Tất-đạt, rất được khen ngợi.
-
Hai Tôn giả đến rồi, cùng hỏi thăm,
ngồi một bên. Bấy giờ các Tỳ-kheo đều khởi nghĩ rằng: "Ðệ tử của Phật
Thích-ca, nay hướng hết về Ðề-bà-đạt-đa". Ðề-bà-đạt-đa bảo Tôn giả
Xá-lợi-phất:
-
- Nay Thầy có thể thuyết pháp cho
các Tỳ-kheo chăng? Tôi đau lưng muốn nghỉ một chút.
-
Ðề-bà-đạt-đa bèn nằm nghiêng hông
mặt, hai chân xếp lên nhau, do lòng vui mừng nên ngủ luôn. Bấy giờ,
Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên thấy Ðề-bà-đạt-đa ngủ, liền dùng thần túc đem các
vị Tỳ-kheo bay lên hư không mà đi.
-
Khi Ðề-bà-đạt-đa thức dậy, không
thấy các Tỳ-kheo, rất giận dữ nói:
-
- Nếu ta không trả được thù này thì
không gọi là Ðề-bà-đạt-đa.
-
Ðây là lần đầu Ðề-bà-đạt-đa phạm
tôi ngũ nghịch. Ðề-bà-đạt-đa vừa khởi ý ấy, liền bị mất thần túc.
-
Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo bạch Phật:
-
- Tỳ-kheo Ðề-bà-đạt-đa có thần túc
lớn mới có thể phá hoại Thánh chúng.
-
Phật bảo:
-
- Không phải chỉ hôm nay
Ðề-bà-đạt-đa mới phá hoại Thánh chúng. Ðời quá khứ ông ta cũng thường phá hoại
Thánh chúng. Vì sao thế? Về đời quá khứ ông ta cũng phá hoại Thánh chúng.
-
Ðề-bà-đạt-đa lại khởi ý ác: "Ta sẽ
giết Sa-môn Cù-đàm để làm Phật độc tôn trong ba cõi". Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa nói
với thái tử A-xà-thế:
-
- Người xưa thọ mạng rất dài, ngày
nay đã ngắn ngủi. Nếu như Thái tử chết, chắc lại sanh trong dân gian. Sao
không giết phụ vương, rồi lên ngôi vua? Tôi sẽ giết Như Lai và sẽ làm Phật.
Vua mới, Phật mới, cũng chẳng thích ư?
- Bấy
giờ, A-xà-thế bèn sai quân thị vệ bắt phụ vương giam vào ngục, tự lên làm vua
cai trị nhân dân. Khi đó, quần thần đều nói với nhau: "Người này khi sanh ắt
là oan gia". Nhân đó đặt tên là A-xà-thế.
-
Ðề-bà-đạt-đa thấy A-xà-thế đã hại
phụ vương xong, lại khởi nghĩ: "Ta sẽ hại Sa-môn Cù-đàm".
-
Bấy giờ, Thế Tôn đang ở tại một
ngọn núi nhỏ cạnh núi Kỳ-xà-quật, Ðề-bà-đạt-đa leo lên núi Kỳ-xà-quật, tay vác
một tảng đá lớn dài ba mươi khuỷu tay, rộng năm mươi khuỷu tay, ném vào Thế
Tôn. Khi đó, sơn thần, quỷ Kim-tỳ-la thường ở tại núi ấy, thấy Ðề-bà-đạt-đa
vác đá ném Phật, liền đưa tay đỡ lấy đến chỗ khác. Tảng đá bể văng ra một mảnh
nhỏ trúng chân Như Lai chảy máu. Thế Tôn thấy vậy nói với Ðề-bà-đạt-đa:
-
- Nay Ông khởi ý muốn hại Như Lai,
đây là tội ngũ nghịch thứ hai.
-
Ðề-bà-đạt-đa tự nghĩ: "Nay ta không
hại được Sa-môn Cù-đàm". Liền bỏ đi, đến chỗ A-xà-thế, tâu nhà vua rằng:
-
- Nên cho con voi uống rượu say,
khiến hại Sa-môn. Vì sao? Con voi ấy hung dữ chắc có thể hại được Sa-môn
Cù-đàm. Nếu Sa-môn có Nhất thiết trí, ngày mai sẽ không vào thành khất thực;
nếu không có Nhất thiết trí, ngày mai vào thành khất thực, ắt sẽ bị voi dữ này
làm hại.
-
Khi ấy, vua A-xà-thế liền đem rượu
mạnh cho voi uống say, ra lệnh cho dân chúng: "Ai muốn an ổn, thương mạng
mình, ngày mai đừng đi lại trong thành".
-
Bấy giờ, Thế Tôn đúng thời đắp y
mang bát vào thành La-duyệt khất thực. Hàng tứ chúng nam nữ già trẻ trong nước
nghe tin vua A-xà-thế cho voi uống rượu say muốn hại Thế Tôn, đều cùng nhau đi
đến chỗ Phật, làm lễ dưới chân, và bạch Phật:
-
- Cúi xin Thế Tôn, chớ vào thành
La-duyệt khất thực. Vì vua A-xà-thế phục rượu voi say muốn hại Thế Tôn.
-
Phật bảo các Ưu-bà-tắc:
-
- Phàm là bậc Ðẳng Chánh Giác trọn
không bị người khác làm hại.
- Thế
Tôn tuy nghe như thế vẫn đi vào thành. Voi dữ xa thấy Thế Tôn đến, sân giận
bừng bừng chạy về phía Phật, muốn làm hại. Song, Phật thấy voi chạy đến liền
nói kệ:
-
Voi chớ hại đến rồng,
-
Voi, rồng khó xuất,
-
Do không hại đến rồng,
-
Ðược sanh vào cõi lành,
-
Voi kia nghe Như Lai nói kệ xong,
liền đến trước quỳ mọp, liếm chân Như Lai. Voi kia vì tâm hối quá không an,
liền chết, sanh lên cõi trời Ba mươi ba. Vua A-xà-thế và Ðề-bà-đạt-đa thấy voi
đã chết, buồn rầu không vui. Ðề-bà-đạt-đa nói với vua:
-
- Sa-môn Cù-đàm đã giết voi chết.
-
Vua đáp:
-
- Sa-môn Cù-đàm này có sức thần
lớn, có nhiều kỹ thuật, mới có thể trù rủa voi chết.
-
Vua A-xà-thế lại nói:
-
- Sa-môn này chắc đầy đủ oai đức
mới không bị voi dữ làm hại.
-
Ðề-bà-đạt-đa đáp:
-
- Sa-môn Cù-đàm có chú thuật huyễn
hoặc, có thể khiến ngoại đạo dị học thảy đều hàng phục, huống chi loài súc
sanh.
-
Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa bèn suy nghĩ:
"Ta thấy vua A-xà-thế ý muốn thay đổi". Ðề-bà-đạt-đa lo buồn không vui, ra
khỏi thành La-duyệt. Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Pháp Thí xa thấy Ðề-bà-đạt-đa đến, nói
với Ðề-bà-đạt-đa:
-
- Nay điều Ông làm rất sai quấy,
hiện tại hối lỗi còn dễ, sợ sau khó.
-
Ðề-bà-đạt-đa nghe nói, lại thêm sân giận hỏi:
-
- Con ngốc! Ta có lỗi gì mà nay dễ,
sau khó?
-
Tỳ-kheo-ni Pháp Thí đáp:
-
- Nay Ông đi chung với ác và tạo
các điều chẳng lành.
-
Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa sân giận bừng
bừng, lấy tay đánh Tỳ-kheo-ni chết.
-
Ðề-bà-đạt-đa đã hại bậc Chân nhân,
về đến phòng mình bảo các đệ tử:
-
- Các Ông nên biết! Nay ta khởi ý
đối với Sa-môn Cù-đàm, song việc ấy không nên. Vì A-la-hán lại khởi ý ác đối
với A-la-hán. Nay ta có thể hướng về Cù-đàm sám hối.
-
Do đây Ðề-bà-đạt-đa lo buồn, bị
bệnh nặng. Ðề-bà-đạt-đa bảo các đệ tử:
-
- Ta không đủ sức đến gặp Sa-môn
Cù-đàm. Các Ông nên giúp ta đến chỗ Sa-môn.
-
Ðề-bà-đạt-đa bôi thuốc độc vào mười
đầu ngón tay, bảo các đệ tử:
-
- Các Ông khiêng ta đến chỗ Sa-môn
ấy.
-
Bấy giờ, các đệ tử liền khiêng
Ðề-bà-đạt-đa đến chỗ Thế Tôn. Tôn giả A-nan xa thấy Ðề-bà-đạt-đa đến liền bạch
Phật.
-
- Nay Ðề-bà-đạt-đa đến, chắc có tâm
hối hận muốn hướng về Thế Tôn cầu xin cải hối.
-
Phật bảo A-nan:
-
- Ðề-bà-đạt-đa trọn không thể đến
chỗ Thế Tôn.
-
A-nan ba phen bạch Phật:
-
- Nay Ðề-bà-đạt-đa đã muốn đến xin
hối lỗi.
-
Phật baỏ A-nan:
-
- Người ác ấy trọn không thể đến
chỗ Như Lai. Ngày nay mạng ông ấy đã hết.
-
Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa đến chỗ Thế
Tôn, bảo các đệ tử:
-
- Nay ta không nên nằm ra mắt Như
Lai, nên xuống võng mới đến gặp.
-
Ðề-bà-đạt-đa vừa bước chân xuống
đất, bấy giờ tại nơi ấy nổi lên gió lửa mạnh, đốt chân Ðề-bà-đạt-đa.
Ðề-bà-đạt-đa bị lửa đốt, liền khởi tâm hối hận, ở chỗ Phật chính muốn xưng
"Nam-mô Phật", song rốt cuộc không xưng được "Nam-mô Phật", bèn vào địa ngục.
-
A-nan thấy Ðề-bà-đạt-đa rơi vào địa
ngục, bạch Phật:
-
- Nay Ðề-bà-đạt-đa đã chết, rơi
trong địa ngục chăng?
-
Phật bảo:
-
- Ðề-bà-đạt-đa không được diệt tận
đến chỗ cứu cánh. Nay ông ấy khởi tâm ác đối với thân Như Lai, khi chết đọa
địa ngục A-tỳ.
-
A-nan buồn khóc rơi lệ không ngừng,
Phật bảo A-nan:
-
- Vì sao Thầy buồn khóc như thế?
-
A-nan bạch Phật:
-
- Tâm dục ái của con chưa dứt, chưa
thể đoạn kết sử nên buồn khóc vậy.
-
Thế Tôn liền nói kệ:
-
Như người tự gây tạo,
-
Tự xem lại gốc ngọn,
-
Người lành thọ báo lành,
-
Kẻ ác chịu ương lụy.
-
Người đời làm hạnh ác,
-
Chết bị khổ địa ngục,
-
Nếu lại làm hạnh lành,
-
Chuyển thân thọ phước trời.
-
Kia tự gây hạnh ác,
-
Tự rơi vào địa ngục,
-
Không phải lỗi của Phật.
-
Nay vì sao Thầy buồn?
-
A-nan bạch Phật:
-
- Ðề-bà-đạt-đa chết, thân sanh chỗ
nào?
-
Phật bảo A-nan:
-
- Nay Ðề-bà-đạt-đa chết, thân rơi
vào địa ngục A-tỳ. Vì sao? Do kia tạo tội ngũ nghịch nên cảm báo này.
-
A-nan lại bạch Phật:
-
- Ðúng thế, thưa Thế Tôn! Như lời
dạy của Thế Tôn, tự thân làm ác hiện thân vào địa ngục. Vì thế con buồn khóc
vậy. Do Ðề-bà-đạt-đa không quý tiếc danh xưng, dòng họ, cũng không nể cha mẹ
tôn trưởng, làm nhục dòng họ Thích, hủy hoại gia thế chúng ta.
-
Ðề-ba-đạt-đa hiện thân vào địa ngục
thực không đúng. Vì sao? Dòng họ chúng ta phát xuất từ địa vị Chuyển luân
Thánh vương, Ðề-bà-đạt-đa cũng xuất phát từ dòng vua, không nên hiện thân vào
địa ngục như thế. Ðề-bà-đạt-đa nên hiện thân chấm dứt hữu lậu thành vô lậu,
tâm giải thoát, tuệ giải thoát, nơi hiện thân này được chứng quả Sanh tử đã
tận, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không thọ thân sau, như thật
mà biết. Tập theo dấu của chân nhân, đắc A-la-hán, nơi Vô dư Niết-bàn mà nhập
Niết-bàn; vì sao mang thân này vào địa ngục? Ðề-bà-đạt-đa khi còn sống có oai
thần lớn, rất có thần đức, có thể lên cõi trời Ba mươi ba biến hóa tự do.
Người như thế lại rơi vào địa ngục ư? Bạch Thế Tôn! Chẳng biết Ðề-bà-đạt-đa ở
địa ngục trải qua bao nhiêu năm?
-
Phật bảo A-nan:
-
- Ông ấy ở địa ngục một kiếp.
-
A-nan lại bạch Phật:
-
- Kiếp có hai loại, đại kiếp và
tiểu kiếp. Ông ấy ở kiếp nào?
-
Phật bảo:
-
- Kiếp của ông ấy sẽ trải qua một
đại kiếp. Nói đại kiếp tức hết số kiếp của Hiền kiếp này. Hết nghiệp, mạng
chung trở lại thân người.
-
A-nan bạch Phật:
-
- Ðề-bà-đạt-đa mất thân Người mới
trở lại. Vì sao? Kiếp số dài lâu, đại kiếp không quá Hiền kiếp.
-
A-nan càng thêm buồn khóc than thở
không vui, lại bạch Phật:
-
- Ðề-bà-đạt-đa từ địa ngục ra, sẽ
sanh về chỗ nào?
-
Phật bảo A-nan:
-
- Ðề-bà-đạt-da mạng chung nơi ấy,
sẽ sanh lên cõi Tứ thiên vương.
-
A-nan lại hỏi:
-
- Ở đó mạng chung sẽ sanh về đâu?
-
Phật bảo:
-
- Ở đó mạng chung, lần lượt sẽ sanh
lên trời Ba mươi ba, trời Diệm-ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha
hóa tự tại.
-
A-nan lại hỏi:
-
- Ở nơi ấy mạng chung, sẽ sanh về
đâu?
-
Phật bảo:
-
- Khi Ðề-bà-đạt-đa từ địa ngục mạng
chung, sanh lên các cõi Trời lành trải qua trong sáu mươi kiếp không rơi vào
ba đường ác, qua lại trong cõi Trời, Người. Thân rốt sau, ông ta sẽ cạo râu
tóc, mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, thành vị Bích-chi
Phật hiệu là Nam-mô.
-
Bấy giờ, A-nan đến trước bạch Phật:
-
- Như thế, bạch Thế Tôn!
Ðề-bà-đạt-đa do ác báo nên chịu tội ở địa ngục, lại tạo đức gì mà trong sáu
mươi kiếp trải qua sanh tử, không bị khổ não, sau lại thành vị Bích-chi Phật,
hiệu là Nam-mô.
-
Phật bảo A-nan:
-
- Phước sanh ý lành trong khoảng
giây lát, phước ấy khó thí dụ. Hà huống Ðề-bà-đạt-đa thông suốt cổ kim, tụng
tập nhiều, giữ gìn các pháp, điều đã nghe không quên. Xưa Ðề-bà-đạt-đa do oán
thù mà khởi tâm sát hại đối với Như Lai. Lại do duyên báo xưa nên ông ta có
tâm vui vẻ với Như Lai, do nhân duyên này trong sáu mươi kiếp không rơi trong
ba đường ác. Lại do Ðề-bà-đạt-đa, vào lúc cuối khi mạng chung, khởi tâm hòa
vui xưng Nam-mô, nên sau làm vị Phật Bích-chi hiệu Nam-mô.
-
Bấy giờ, A-nan liền đến trước lễ
Phật, thưa rằng:
-
- Thưa vâng, bạch thế tôn! Như lời
dạy của Phật.
-
Khi ấy, Tôn giả Ðại-mục-kiền-liên
đến trước Phật bạch:
-
- Bây giờ con muốn xuống địa ngục
A-tỳ, nói về yếu hạnh nhẫn nhục, hoan hỷ cho Ðề-bà-đạt-đa.
-
Phật bảo Mục-liên:
-
- Thầy nên biết, chớ vội vàng hung
bạo, chuyên tâm chánh ý chớ khởi loạn tưởng. Vì sao? Hạng chúng sanh cực ác
khó điều phục, khó thành tựu, vậy sau mới đọa vào địa ngục A-tỳ. Lại, tội nhơn
kia không hiểu âm thanh đối đáp qua lại của cõi Người.
-
Mục-liên bạch Phật:
-
- Nay con hiểu được sáu mươi bốn âm
thanh, thông suốt ngôn ngữ, con sẽ dùng âm thanh ấy nói với ông ấy.
-
Phật bảo Mục-liên:
-
- Thầy nên biết đúng thời.
-
Khi ấy, A-nan nghe như vầy, vui
mừng phấn khởi không thể tự kềm. Đại-mục-kiền-liên lễ chân Phật, nhiễu quanh
ba vòng, liền ở trước chỗ Phật, sang địa ngục A-tỳ nhanh như trong khoảng lực
sĩ duỗi tay. Bấy giờ, Ðại Mục-liên đang ở địa ngục A-tỳ đứng trên không khảy
móng tay kêu:
-
- Ðề-bà-đạt-đa!
-
Ðề-bà-đạt-đa im lặng không đáp. Các
ngục tốt hỏi Mục-liên:
-
- Nay Tôn giả gọi Ðề-bà-đạt-đa nào?
-
Ngục tốt lại bảo:
-
- Trong đây cũng có Ðề-bà-đạt-đa
thời Phật Câu-lưu-tôn, Ðề-bà-đạt-đa thời Phật Câu-na-hàm-mâu-ni, Ðề-bà-đạt-đa
thời Phật Ca-diếp, cũng có Ðề-bà-đạt-đa cư sĩ, Ðề-bà-đạt-đa xuất gia. Nay Tôn
giả muốn gọi Ðề-bà-đạt-đa nào?
-
Mục-liên đáp:
-
- Nay ta muốn mời Ðề-bà-đạt-đa em
con nhà chú của Phật Thích-ca Văn, nên cần được gặp.
-
Khi đó, ngục tốt tay cầm xích sắt,
đốt lửa đổ chích vào thân Ðề-bà-đạt-đa để tỉnh giấc. Thân thế Ðề-bà-đạt-đa bị
lửa đốt cháy cao ba mươi khuỷu tay. Các ngục tốt bảo:
-
- Ông là kẻ ngu, ngủ gì như thế!
-
Ðề-bà-đạt-đa bị các khổ bức bách,
thưa rằng:
-
- Nay các Ông dạy bảo tôi điều gì?
-
Ngục tốt lại bảo:
-
- Ông hãy nhìn lên không trung!
-
Ðề-bà-đạt-đa theo lời ngước nhìn hư
không, thấy Ðạ Mục-kiền-liên ngồi kiết-già trên hoa sen báu, rực rỡ như mặt
trời vén mây, Ðề-bà-đạt-đa thấy rồi bèn nói kệ:
-
Ai hiện hào quang trời,
-
Như mặt trời vén mây,
-
Cũng như núi vàng chói.
-
Không có bụi nhơ nhớp?
-
Tôn giả Mục-liên dùng kệ đáp:
-
Ta, đệ tử Thích-ca,
-
Thuộc dòng dõi Cù-đàm,
-
Là Thanh văn trong ấy,
-
Tên là Ðại Mục-liên.
-
Ðề-bà-đạt-đa thưa với Mục-liên:
-
- Tôn giả Mục-liên! Cớ gì hạ cố đến
nơi này? Nơi đây chúng sanh tạo ác, sau khi mệnh chung sanh vào nơi này.
-
Mục-liên đáp:
-
- Tôi do Phật sai nên đến đây, muốn
thương xót nhổ sạch gốc khổ cho Ông.
-
Bấy giờ, Ðề-ba-đạt-đa nghe âm hưởng
Phật, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm, nói rằng:
-
- Cúi xin Tôn giả, đúng thời diễn
nói. Ðức Thế Tôn có lời dạy gì? Lại nói đến đường ác chăng?
-
Mục-liên đáp:
-
- Ðề-bà-đạt-đa chớ lo sợ, địa ngục
khổ nhất không hơn chốn này. Ðức Phật Thích-ca Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác,
thương xót tất cả các loài cho đến côn trùng nhỏ nhít, như mẹ thương con, tâm
không sai biệt, tùy thời điểm nói trọn không để mất, cũng không trái với điều
đã nói.
-
Nay chính từ miệng Phật dự ký. Ông
vốn khởi niệm ác muốn hại Thế Tôn, lại đem việc ấy dạy người khiến hướng về
đường ác; do nhân duyên tội báo ấy đọa vào địa ngục A-tỳ, sẽ trải qua một kiếp
trọn không ra khỏi. Kiếp số ấy hết nghiệp tận mạng chung, sẽ sanh lên cõi trời
Tứ thiên vương, lần lượt sanh lên cõi trời Ba mươi ba, trời Diệm-ma, trời
Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại trong sáu mươi kiếp không ở
trong con đường ác, lưu chuyển chốn Trời, Người. Thân cuối cùng được làm
người, cạo bỏ râu tóc mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, sẽ
thành Bích-chi Phật hiệu Nam-mô. Vì sao thế? Do khi Ông sắp chết, xưng
"Nam-mô" nên được danh hiệu ấy. Nay đức Như Lai quán sát lời nói lành "Nam-mô"
nên Ông được danh hiệu đó, trong sáu mươi kiếp làm Bích-chi Phật.
-
Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa nghe xong vui
mừng hớn hở, tâm lành phát sanh, lại bạch với Mục-liên:
-
- Lời nói của Như Lai quả nhiên
không nghi, thương xót chúng sanh mà cứu tế vô lượng, đại từ đại bi hóa độ kẻ
ngu. Dù cho ngày nay tôi nghiêng hông bên mặt trong địa ngục A-tỳ trải qua một
kiếp, tâm ý vẫn chuyên nhất, trọn không mệt nhọc.
-
Tôn giả Mục-liên lại bảo
Ðề-bà-đạt-đa:
-
- Thế nào, sự đau đớn của Ông nay
có tăng giảm gì không?
-
Ðề-bà-đạt-đa nói:
-
- Thân tôi chịu khổ chỉ tăng chớ
không giảm, nay được nghe Như Lai thọ ký danh hiệu, nỗi khổ giảm bớt không thể
nói hết.
-
Mục-liên hỏi:
-
- Nay hoạn nạn của Ông, nguyên lai
đau khổ giống như thế nào?
-
Ðề-bà-đạt-đa đáp:
-
- Bánh xe sắt nóng nghiền nát thân
hình, lại có chày sắt đập nát thân thể, có voi đen dữ dày đạp thân tôi, lại có
núi lửa đến dằn trên mặt tôi, Cà-sa ngày trước hóa làm lá đồng nóng quấn thân,
nguyên lai đau khổ tình trạng như thế.
-
Mục-liên bảo:
-
- Ông có tự biết cội gốc tội báo,
khiến chịu đau khổ chăng? Nay tôi phân biệt từng tội một, Ông muốn nghe chăng?
-
Ðề-bà-đạt-đa thưa:
-
- Xin vâng, đúng thời xin nói.
-
Tôn giả Mục-liên bèn nói kệ:
-
Xưa Ông ở chỗ Phật,
-
Phá hoại Tỳ-kheo Tăng,
-
Nay có chày sắt nóng,
-
Ðập quết trên thân Ông.
-
Vì hàng đại chúng kia,
-
Là Thanh văn bậc nhất,
-
Gây rối chúng Tỳ-kheo,
-
Nay có xe nóng nghiền.
-
Xưa Ông bảo vua thả,
-
Voi đen uống rượu say,
-
Nay có bầy voi đen,
-
Chà đạp trên thân mình.
-
Xưa ông vác đá lớn,
-
Xa ném đến Như Lai,
-
Nay quả báo núi lửa,
-
Ðốt Ông không chừa sót,
-
Xưa Ông dùng nắm tay,
-
Giết chết Tỳ-kheo-ni,
-
Nay bị lá đồng nóng,
-
Cuốn cháy không duỗi được.
-
Hành báo trọn không mất,
-
Cũng chẳng phải rỗng không,
-
Cho nên phải siêng năng,
-
Lìa các nguồn ác này.
-
Ðề-bà-đạt-đa! Ông vốn tạo cội gốc
chính là các điều này, nên nhất tâm hướng về Phật, được phước lâu dài.
-
Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa lại bạch với
Mục-liên:
-
- Nay xin nhờ Tôn giả Mục-liên cúi
đầu lễ chân Thế Tôn, kính thăm Thế Tôn ngồi đứng khinh an, dạo đi mạnh mẽ tôi
cũng lại lễ bái Tôn giả A-nan.
-
Tôn già Ðại-mục-kiền-liên phóng đại
thần túc, khiến các khổ não trong địa ngục A-tỳ dừng lại, lại nói kệ này:
-
Ðều xưng Nam-mô Phật,
-
Bậc họ Thích tối thắng,
-
Vị ấy ban an ổn,
-
Dẹp trừ các khổ não.
-
Bấy giờ, chúng sanh trong địa ngục
A-tỳ nghe Tôn giả Mục-liên nói kệ này rồi, hơn sáu vạn người được dứt quả báo
khổ, liền mạng chung nơi ấy, sanh lên trời Tứ Thiên vương.
-
Tôn giả Mục-liên liền thâu thần
túc, trở về tinh xá đến chỗ Thế Tôn, lễ chân Phật, đứng một bên Tôn giả bạch
Phật rằng:
-
- Ðề-bà-đạt-đa cung kính vô lượng,
thăm hỏi Thế Tôn ngồi đứng khinh an, dạo đi mạnh mẽ. Cũng lại hỏi thăm A-nan,
và nói thế này: "Như Lai thọ ký cho trong sáu mươi kiếp, thành Bích-chi Phật
hiệu Nam-mô, dù cho tôi nằm nghiêng hông mặt trong địa ngục A-tỳ, vẫn trọn
không mệt nhọc."
-
Bấy giờ Phật nói:
-
- Lành thay,lành thay! Mục-liên,
Thầy làm nhiều lợi ích, nhiều sự thấm nhuần, thương tưởng loài ngu tối, Trời
Người được an lạc, khiến cho hàng Thanh văn của Như Lai dần đến Niết-bàn.
-
Thế nên! Mục-liên! Nên siêng năng
thành tựu ba pháp. Vì sao thế? Nếu Ðề-bà-đạt-đa tu pháp lành về thân ba, miệng
bốn, ý ba, ông ấy trọn đời không tham lợi dưỡng, cũng không tạo tội ngũ nghịch
mà bị vào địa ngục A-tỳ. Vì sao? Phàm người tham lợi dưỡng, cũng không có tâm
cung kính đối với Tam bảo, cũng không vâng giữ giới cấm, không đầy đủ về thân,
khẩu, ý hành. Nên chuyên chú nhớ nghĩ về thân, khẩu, ý hành. Như thế,
Mục-liên, nên học điều này!
-
Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên nghe Phật
dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
10. Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ,
rừng Kỳ-đà, vườn Cấp cô Ðộc.
-
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Nếu có chúng sanh tu hành tâm từ
giải thoát, lưu truyền rộng nghĩa ấy, vì người diễn nói, sẽ được mười một quả
báo. Thế nào là mười một? Ngủ an ổn, thức an ổn, không chiêm bao dữ, Trời ủng
hộ, Người thương mến, không có độc hại, không bị binh đao, nước, lửa, đạo tặc
không xâm tổn, khi chết sanh lên trời Phạm thiên. Ðó gọi là Tỳ-kheo hay thực
hành tâm từ được mười một phước này.
-
Thế Tôn liền nói kệ này:
-
Nếu người hành lòng từ,
-
Không có hạnh phóng dật,
-
Các kết dần dần mỏng,
-
Dần thấy dấu vết đạo.
-
Do hay hành lòng từ,
-
Sẽ sanh lên Phạm thiên,
-
Ðược diệt độ mau chóng,
-
Hằng đến chỗ vô vi.
-
Không sát, không tâm hại,
-
Cũng không ý hơn thua,
-
Lòng từ trùm tất cả,
-
Trọn không tâm oán hận.
-
Thế nên, Tỳ-kheo nên tìm phương
tiện thực hành lòng từ, lưu truyền rộng nghĩa ấy. Như thế, này các Tỳ-kheo,
nên học điều này!
-
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy
xong, vui vẻ vâng làm.
- --o0o--
|
|