|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH TRƯỜNG A
HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá &
Trúc Phật Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN I
1. KINH ĐẠI BẢN
Tôi nghe như
vầy:
Một thời Phật ở
động Hoa lâm vườn cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo
một ngàn hai trăm năm mươi người.
Bấy giờ, các
Tỳ-kheo sau khi khất thực, tụ họp ở Hoa lâm đường, cùng nhau bàn luận
rằng:
“Các Hiền giả Tỳ-kheo, duy chỉ Đấng Vô Thượng Tôn, rất kỳ
diệu, oai lực lớn lao, thần thông viễn đạt, mới biết rõ quá khứ vô số
Đức Phật nhập Niết-bàn, dứt sạch các kết sử, tiêu diệt các hý luận và
cũng biết rõ kiếp số các Đức Phật ấy dài hay ngắn, cho đến danh hiệu,
dòng họ thác sinh, sự ăn uống, thọ mạng dài ngắn, cảm thọ lạc và cảm
thọ khổ như thế nào ; lại biết rõ các Đức Phật ấy có giới như vậy, có
pháp như vậy, có trí tuệ như vậy, có giải thoát như vậy, an trụ như
vậy. Thế nào, này chư Hiền? Đó là do Đức Như Lai thông rõ các pháp
tính mà biết được hay do chư Thiên kể lại?”
Bấy giờ, Ðức Thế
Tôn đang ở chỗ thanh vắng, bằng thiên nhĩ thanh tịnh, nghe rõ các
Tỳ-kheo luận bàn như thế, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Hoa lâm
đường, ngồi vào chỗ ngồi dọn sẵn. Bấy giờ, Ðức Thế Tôn tuy đã biết
nhưng vẫn hỏi:
Này chư Tỳ-kheo,
các ngươi tụ tập nơi đây bàn luận chuyện gì?”
Các Tỳ-kheo bèn đem
hết mọi việc bạch lại với Phật. Rồi thì, Ðức Thế Tôn nói với các
Tỳ-kheo:
“Lành thay, lành
thay! Các ngươi đã với tâm chánh tín xuất gia học đạo, nên làm hai
việc: một là nói năng theo pháp Hiền thánh, hai là im lặng theo pháp
Hiền thánh. Những điều các ngươi luận bàn phải nên như thế. Như Lai
thần thông oai lực lớn lao, biết khắp mọi việc từ vô số kiếp quá khứ,
như thế là do thông rõ các pháp tính, đồng thời cũng do chư Thiên nói
lại.”
Bấy giờ Phật nói
bài tụng:
Tỳ-kheo họp pháp
đường
Giảng luận pháp
Hiền thánh.
Như Lai từ am
vắng
Nghe rõ bằng
thiên nhĩ.
Mặt trời Phật
rọi khắp,
Phân tích nghĩa
pháp giới.
Cũng biết việc
quá khứ,
Chư Phật
Bát-niết-bàn,
Tên, dòng họ,
chủng tộc.
Cũng biết thọ
sanh phần.
Vị ấy ở nơi nào,
Ghi nhận bằng
tịnh nhãn.
Chư Thiên uy lực
lớn,
Dung mạo rất
đoan nghiêm,
Cũng đến bẩm báo
Ta
Chư Phật
Bát-niết-bàn,
Chỗ sinh, tên,
chủng tộc
Ấm thanh vi diệu
tỏ.
Đấng Chí Tôn
trong đời
Biết rõ Phật quá
khứ.
Phật lại bảo các
Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo!
Các ngươi có muốn Như Lai, bằng trí túc mạng biết nhân duyên của chư
Phật quá khứ, nói cho nghe chăng?”
Các Tỳ-kheo liền
bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, nay
chính là lúc. Chúng con muốn nghe. Lành thay, Thế Tôn, lúc này thích
hợp để giảng thuyết. Chúng con phụng hành”.”
Phật bảo các
Tỳ-kheo:
“Hãy lắng nghe, hãy
suy gẫm kỹ. Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho các ngươi nghe”.”
Lúc bấy giờ, các
Tỳ-kheo vâng lời, lắng nghe.
Phật nói:
“Này các Tỳ-kheo!
Quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp có Đức Phật hiệu là Tỳ-bà-thi ,
Như Lai, Chí Chân, xuất hiện ở thế gian.
“Lại nữa, Tỳ-kheo,
trong quá khứ cách đây ba mươi mốt kiếp có Đức Phật hiệu là Thi-khí,
Như Lai, Chí Chân, xuất hiện ở thế gian.
“Lại nữa, Tỳ-kheo,
cũng trong ba mươi mốt kiếp đó có Đức Phật hiệu là Tỳ-xá-bà Như Lai,
Chí Chân, xuất hiện ở thế gian.
“Lại nữa, Tỳ-kheo,
trong hiền kiếp này có Phật hiệu là Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm, Ca-diếp.
Ta nay cũng ở trong hiền kiếp này mà thành Tối chánh giác.”
Bấy giờ, Phật
nói bài tụng:
Qua chín mươi
mốt kiếp
Có Phật
Tỳ-bà-thi.
Ba mươi mốt kiếp
kế
Có Phật hiệu
Thi-khí.
Cũng ở trong
kiếp này,
Xuất hiện Phật
Tỳ-xá.
Nay trong Hiền
kiếp này,
Vô số na-duy
tuổi,
Có bốn Đại Tiên
Nhân,
Xuất hiện vì
thương đời:
Câu-lưu-tôn,
Na-hàm,
Ca-diếp,
Thích-ca Văn.
“Các ngươi nên
biết, thời Đức Phật Tỳ-bà-thi, nhân loại sống đến tám vạn tuổi; thời
Đức Phật Thi-khí, nhân loại sống đến bảy vạn tuổi; thời Đức Phật
Tỳ-xá-bà, nhân loại sống đến sáu vạn tuổi; thời Đức Phật Câu-lưu-tôn,
nhân loại sống đến bốn vạn tuổi; thời Đức Phật Câu-na-hàm, nhân loại
sống đến ba vạn tuổi; thời Đức Phật Ca-diếp, nhân loại sống đến hai
vạn tuổi và nay Ta ra đời, nhân loại sống đến một trăm tuổi, tăng thì
ít mà giảm thì nhiều.”
Rồi Phật nói bài
tụng:
Người thời
Tỳ-bà-thi,
Thọ tám vạn bốn
ngàn,
Người thời Phật
Thi-khí
Thọ mạng bảy vạn
tuổi.
Người thời
Tỳ-xá-bà
Thọ mạng sáu vạn
tuổi.
Người thời
Câu-lưu-tôn
Thọ mạng bốn vạn
tuổi.
Người thời
Câu-na-hàm
Thọ mạng ba vạn
tuổi.
Người thời Phật
Ca-diếp
Thọ mạng hai vạn
tuổi.
Người thời Ta
hiện nay
Tuổi thọ không
quá trăm.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi
sinh về dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã . Phật Thi-khí và Phật Tỳ-xá-bà,
dòng họ cũng vậy. Phật Câu-lưu-tôn sinh về dòng Bà-la-môn họ Ca-diếp.
Phật Câu-na-hàm, Phật Ca-diếp, dòng họ cũng vậy. Còn nay Ta, Như Lai,
Chí Chân thì sinh về dòng Sát-lỵ, họ Cù-đàm “.”
Phật lại nói bài
tụng:
Tỳ-bà-thi Như
Lai,
Thi-khí,
Tỳ-xá-bà,
Ba vị Đẳng Chánh
Giác,
Sinh họ
Câu-lỵ-nhã.
Ba Đức Như Lai
kia,
Sinh vào họ
Ca-diếp
Ta nay, Bậc Vô
Thượng,
Dẫn dắt các
chúng sanh,
Bậc nhất trong
trời người,
Họ Cù-đàm dũng
mãnh.
Ba Đấng Chánh
Giác đầu,
Sinh vào dòng
Sát-lỵ.
Ba Đức Như Lai
sau
Thuộc dòng
Bà-la-môn.
Ta nay Đấng Tối
Tôn,
Dòng Sát-lỵ dũng
mãnh,.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi
ngồi dưới cây Ba-ba-la chứng thành Bậc Tối Chánh Giác. Phật Thi-khí
ngồi dưới cây Phân-đà-lỵ, thành Bậc Tối Chánh Giác. Phật Tỳ-xá-bà ngồi
dưới cây Sa-la thành Bậc Tối Chánh Giác. Phật Câu-lưu-tôn ngồi dưới
cây Thi-lỵ-sa thành Bậc Chánh Giác. Phật Câu-na-hàm ngồi dưới cây
Ô-tạm-bà-la thành Bậc Chánh Giác. Phật Ca-diếp ngồi dưới cây
Ni-câu-luật thành Bậc Chánh Giác.
Ta nay, Như Lai,
Chí Chân, ngồi dưới cây Bát-đa thành Bậc Chánh Giác”.”
Rồi Phật nói bài
tụng:
Tỳ-bà-thi Như
Lai
Đi đến cây Ba-la
Và ngay tại chỗ
ấy
Đắc thành Tối
chánh giác.
Thành đạo, dứt
nguồn hữu.
Tỳ-xá-bà Như Lai
Ngồi dưới gốc
Sa-la
Đắc giải thoát
tri kiến.
Thần túc không
trở ngại,
Câu-lưu-tôn Như
Lai
Ngồi gốc
Thi-lỵ-sa
Vô nhiễm, vô sở
trước.
Câu-na-hàm
Mâu-ni
Ngồi dưới gốc
Ô-tạm
Và ngay tại chỗ
ấy
Diệt các tham,
ưu não.
Đức Ca-diếp Như
Lai
Ngồi dưới
Ni-câu-luật
Và ngay tại chỗ
ấy
Trừ diệt gốc rễ
hữu.
Ta nay, Thích-ca
Văn
Ngồi dưới cây
Bát-đa
Đấng Như Lai,
mười lực,
Đoạn diệt các
kết sử,
Hàng phục đám ma
oán,
Diễn ánh sáng
giữa chúng.
Bảy Phật, sức
tinh tấn,
Phóng quang,
diệt tăm tối;
Mỗi mỗi ngồi gốc
cây,
Ở đó thành Chánh
giác.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi
có ba hội thuyết pháp: hội đầu có mười sáu vạn tám ngàn đệ tử; hội hai
có mười vạn đệ tử; hội ba có tám vạn đệ tử. Phật Thi-khí cũng có ba
hội thuyết pháp: hội đầu có mười vạn đệ tử; hội thứ hai có tám vạn đệ
tử; hội thứ ba có bảy vạn đệ tử. Phật Tỳ-xá-bà có hai hội thuyết pháp:
hội đầu có bảy vạn đệ tử; hội thứ hai có sáu vạn đệ tử. Đức
Câu-lưu-tôn Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử bốn vạn người. Đức
Câu-na-hàm Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử ba vạn người. Đức
Ca-diếp Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử hai vạn người. Ta nay một
hội thuyết pháp, đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi người”.”
Bấy giờ Phật nói
bài tụng rằng:
Tỳ-bà-thi tên
Quán,
Trí tuệ không
thể lường,
Thấy khắp, không
sợ hãi,
Ba hội chúng đệ
tử.
Thi-khí, sáng,
bất động,
Diệt trừ các
kiết sử,
Vô lượng đại oai
đức,
Không thể trắc
lượng được,
Ngài cũng có ba
hội,
Tụ hội các đệ
tử.
Tỳ-xá-bà đoạn
kết,
Đấng Đại Tiên tụ
hội,
Tiếng tăm khắp
các phương,
Pháp mầu được
tán thán;
Chúng đệ tử hai
hội,
Diễn rộng nghĩa
thâm áo.
Câu-lưu-tôn một
hội,
Thương xót trị
các khổ,
Đạo Sư dạy chúng
sanh,
Chúng đệ tử một
hội.
Câu-na-hàm Như
Lai,
Bậc Vô Thượng
cũng vậy,
Thân sắc vàng
ròng tía,
Dung mạo thảy
toàn hảo,
Chúng đệ tử một
hội,
Rộng diễn pháp
nhiệm mầu.
Ca-diếp, mỗi sợi
lông,
Nhất tâm không
loạn tưởng,
Một lời không
phiền trọng,
Chúng đệ tử một
hội.
Năng Nhân Ý Tịch
Diệt,
Ta, Sa-môn họ
Thích,
Chí Tôn, Trời
trên Trời,
Có một hội đệ
tử;
Hội ấy, Ta hiện
nghĩa,
Quảng diễn giáo
thanh tịnh.
Trong tâm thường
hoan hỷ,
Lậu tận, không
tái sinh,
Tỳ-bà, Thi-khí,
ba;
Phật Tỳ-xá-bà,
hai;
Bốn Phật mỗi vị
một
Hội Tiên nhân
diễn thuyết.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi
có hai đệ tử là Khiên-trà và Đề-xá. Đức Phật Thi-khí có hai đệ tử là
A-tỳ-phù và Tam-bà-bà. Phật Tỳ-xá-bà có hai đệ tử là Phò-du và
Uất-đa-ma. Phật Câu-lưu-tôn có hai đệ tử là Tát-ni và Tỳ-lâu . Đức
Phật Câu-na-hàm có hai đệ tử là Thư-bàn-na và Uất -đa-lâu. Đức Phật
Ca-diếp có hai đệ tử là Đề-xá và Bà-la-bà. Còn nay Ta có hai đệ tử là
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.”
Bấy giờ, Phật nói
bài tụng:
Khiên-trà và
Đề-xá
Đệ tử Tỳ-bà-thi.
A-tỳ-phù,
Tam-bà,
Đệ tử Phật
Thi-khí.
Phò-du,
Uất-đa-ma,
Bậc nhất hàng đệ
tử.
Cả hai hàng ma
oán,
Đệ tử Tỳ-xá-bà.
Tát-ni và
Tỳ-lâu,
Đệ tử
Câu-lưu-tôn.
Thư-bàn,
Uất-đa-lâu,
Đệ tử
Câu-na-hàm.
Đề-xá, Bà-la-bà,
Đệ tử Phật
Ca-diếp.
Xá-lợi-phất,
Mục-liên,
Bậc nhất đệ tử
Ta.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi
có vị đệ tử chấp sự là Vô Ưu ; Phật Thi-khí có vị đệ tử chấp sự là
Nhẫn Hành ; Phật Tỳ-xá-bà có vị đệ tử chấp sự là Tịch Diệt ; Phật
Câu-lưu-tôn có vị đệ tử chấp sự là Thiện Giác ; Phật Câu-na-hàm có vị
đệ tử chấp sự là An Hòa ; Phật Ca-diếp có vị đệ tử chấp sự là Thiện
Hữu ; còn Ta có vị đệ tử chấp sự là A-nan “.”
Vô Ưu và Nhẫn
Hành,
Tịch Diệt và
Thiện Giác,
An Hòa và Thiện
Hữu
Thứ bảy là
A-nan.
Ầy là thị giả
Phật
Đầy đủ các nghĩa
thú;
Ngày đêm không
buông lung.
Bảy Thánh đệ tử
ấy
Hầu tả hữu bảy
Phật
Hoan hỷ và cúng
dường,
Tịch nhiên vào
diệt độ.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi
có con tên Phương Ưng. Phật Thi-khí có con tên Vô Lượng. Tỳ-xá-bà có
con tên Diệu Giác. Câu-lưu-tôn có con tên Thượng Thắng. Câu-na-hàm có
con tên Đạo Sư. Ca-diếp có con tên Tập Quân. Ta nay có con tên là
La-hầu-la “.”
Phật lại nói bài
tụng:
Phương Ưng và Vô
Lượng,
Diệu Giác và
Thượng Thắng,
Đạo Sư và Tập
Quân,
Thứ bảy
La-hầu-la.
Các con hào quý
ấy
Nối dõi hạt
giống Phật;
Yêu Pháp, ưa bố
thí,
Trong Thánh
pháp, vô úy.
“Đức Phật Tỳ-bà-thi
có cha tên Bàn-đầu, dòng vua Sát-lỵ; mẹ tên Bàn-đầu-bà-đề. Quốc thành
của vua trị tên là Bàn-đầu-bà-đề “.”
Phật bèn nói bài
tụng:
Biến Nhãn, cha
Bàn-đầu,
Mẹ
Bàn-đầu-bà-đề.
Thành
Bàn-đầu-bà-đề,
Phật thuyết pháp
trong đó.
“Đức Phật Thi-khí
có cha tên Minh Tướng, dòng vua Sát-lỵ; mẹ tên Quang Diệu; quốc thành
vua cai trị tên là Quang tướng “.”
Phật lại nói tụng:
Thi-khí, cha
Minh Tướng,
Mẹ tên gọi Quang
Diệu;
Ở trong thành
Quang tướng,
Uy đức dẹp ngoại
địch.
“Đức Phật Tỳ-xá-bà
có cha tên Thiện Đăng, dòng vua Sát-lỵ; mẹ tên Xưng Giới, quốc thành
vua cai trị tên Vô dụ “.”
Phật nói tụng:
Cha Phật
Tỳ-xá-bà,
Vua Sát-lỵ Thiện
Đăng;
Mẹ tên gọi Xưng
Giới;
Quốc thành tên
Vô dụ.
“Đức Phật
Câu-lưu-tôn có cha tên Tự Đắc, dòng Bà-la-môn; mẹ tên Thiện Chi; vua
tên An Hòa và quốc thành cũng theo đó mà có tên là An hòa”.”
Bà-la-môn Tự
Đắc,
Mẹ tên gọi Thiện
Chi.
Vua tên là An
Hòa,
Cai trị thành An
hòa.
“Đức Phật
Câu-na-hàm có cha tên Đại Đức, dòng Bà-la-môn; mẹ tên Thiện Thắng, vua
tên Thanh Tịnh và quốc thành này cũng theo đó mà có tên là Thanh tịnh
“.”
Bà-la-môn Đại
Đức,
Mẹ tên là Thiện
Thắng;
Vua tên là Thanh
Tịnh,
Ở trong thành
Thanh tịnh.
“Đức Phật Ca-diếp
có cha tên Phạm Đức, dòng Bà-la-môn; mẹ tên Tài Chủ; vua thời đó tên
Cấp-tỳ, trị vì quốc thành tên Ba-la-nại.”
Bà-la-môn Phạm
Đức,
Mẹ tên là Tài
Chủ;
Thời vua tên
Cấp-tỳ,
Trị thành
Ba-la-nại.
“Còn Ta có thân phụ
tên là Tịnh Phạn dòng vua Sát-lỵ, mẹ tên Đại Thanh Tịnh Diệu ; trị sở
thành của vua là Ca-tỳ-la-vệ”.”
Cha, Sát-lỵ Tịnh
Phạn,
Mẹ tên Đại Thanh
Tịnh;
Đất rộng, dân
sung túc;
Ta sinh ra ở đó.
“Đó là nhân duyên,
danh hiệu, chủng tộc và chỗ xuất sinh của chư Phật. Kẻ trí nào nghe
đến nhân duyên đó mà không vui mừng sinh tâm ưa muốn!”
Bấy giờ, Phật bảo
các Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo!
Nay Ta muốn, bằng Túc mạng trí, sẽ nói về sự tích của chư Phật quá
khứ. Các thầy muốn nghe không?”
Các Tỳ-kheo trả
lời:
“Nay thật đúng lúc.
Chúng con muốn nghe”.”
Phật nói:
“Này các Tỳ-kheo,
hãy nghe kỹ, hãy suy ngẫm kỹ. Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho các
thầy.
“Này các Tỳ-kheo,
nên biết pháp thường của chư Phật.
“Đức Bồ-tát
Tỳ-bà-thi từ cõi trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, do hông phải mà
vào, chánh niệm không tán loạn. Ngay lúc ấy cõi đất rung chuyển; ánh
sáng rực rỡ soi khắp thế gian; những chỗ mặt trời mặt trăng không soi
tới cũng đều mong nhờ chiếu sáng. Chúng sanh chốn u minh nhờ đó được
trông thấy lẫn nhau và tự biết mình hiện đang sinh ở chỗ nào. Ánh
quang minh đó lại soi đến cung điện Ma vương. Phạm thiên, Đế Thích,
Sa-môn, Bà-la-môn và các chúng sanh khác, cũng đều được mong nhờ ánh
sáng. Ánh sáng của chư Thiên tự nhiên biến mất”.”
Rồi Phật nói bài
tụng:
Mây dày kín hư
không,
Ánh chớp chiếu
thiên hạ;
Tỳ-bà-thi giáng
thai,
Ánh sáng chiếu
cũng vậy.
Chỗ nhật nguyệt
không tới,
Thảy đều được
chiếu sáng,
Thai thanh tịnh,
vô nhiễm,
Pháp chư Phật
đều vậy.
“Này các Tỳ-kheo,
nên biết pháp thường của chư Phật. Bồ-tát Tỳ-bà-thi, lúc ở thai mẹ,
chuyên niệm không tán loạn, thường có bốn vị Thiên thần tay cầm qua
mâu, hộ vệ cho mẹ ngài, dẫu loài người hay loài phi nhân đều không thể
xâm phạm. Đó là pháp thường”.”
Rồi Phật nói bài
tụng:
Bốn phương bốn
Thiên thần,
Có tiếng tăm, uy
đức,
Thiên Đế Thích
sai khiến,
Khéo thủ hộ
Bồ-tát.
Tay thường cầm
qua mâu,
Hộ vệ không chút
rời.
Nhân, phi nhân
không hại;
Ầy pháp thường
chư Phật.
Được chư Thiên
hộ vệ,
Như Thiên nữ hầu
Trời,
Quyến thuộc đều
hoan hỷ,
Ầy pháp thường
chư Phật.
“Lại nữa, này các
Tỳ-kheo, đây là pháp thường của chư Phật: Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời
Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến
thân mẹ được an ổn, không có các não loạn, trí tuệ ngày càng thêm. Mẹ
tự xem thai mình thấy rõ thân Bồ-tát đủ các căn tốt đẹp như chất vàng
tía không chút tỳ tích, khác nào kẻ có mắt sáng, xem vào đồ lưu ly
trong sạch, thấy suốt cả trong ngoài không chút ngăn ngại. Này các
Tỳ-kheo, đó là pháp thường của chư Phật”.”
Bấy giờ Thế Tôn nói
bài kệ:
Như ngọc lưu ly
sáng,
Ánh sáng như
trời trăng,
Nhân Tôn trong
thai mẹ,
Khiến mẹ không
não hoạn.
Trí tuệ càng
tăng thêm,
Xem thai như
vàng ròng;
Mẹ mang thai an
lạc,
Ầy pháp thường
chư Phật.
“Này các Tỳ-kheo,
Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm
không tán loạn, khiến tâm mẹ lúc nào cũng thanh tịnh, không có các dục
tưởng, không bị lửa dục thiêu đốt. Ầy là pháp thường của chư Phật”.”
Thế Tôn lại nói bài
kệ:
Bồ-tát trụ thai
mẹ;
Phước trời trên
cõi trời;
Tâm mẹ ngài
thanh tịnh,
Không có các dục
tưởng.
Dứt bỏ các dâm
dục,
Không nhiễm,
không gần gũi,
Không bị lửa dục
thiêu,
“Này các Tỳ-kheo,
pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất giáng thần
vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến mẹ ngài giữ trọn năm
giới, phạm hạnh thanh tịnh, thuần tín và nhân từ, thành tựu mọi điều
lành, an lạc không sợ hãi và khi thân hoại mệnh chung, được sanh cõi
trời Đao-lợi. Ầy là pháp thường của chư Phật”.”
Bấy giờ Thế Tôn lại
nói kệ:
Hoài thai Đấng
Chí Tôn,
Tinh tấn, Giới
đầy đủ,
Mạng chung lại
sinh thiên;
Duyên ấy, nói mẹ
Phật.
“Này các Tỳ-kheo,
pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh từ hông phải của
mẹ mà ra, cõi đất rung động, ánh sáng chiếu khắp nơi. Khi mới vào
thai, những chỗ tối tăm thảy đều được chiếu sáng. Ầy là pháp thường
của chư Phật”.”
Thái tử sinh,
đất động,
Ánh sáng rọi
khắp nơi,
Cõi này và cõi
khác,
Trên dưới và các
phương.
Phóng quang, cho
mắt sáng,
Trọn đủ nơi thân
trời,
Bằng tịnh tâm
hoan hỷ,
Chuyển xưng tên
Bồ-tát.
“Này các Tỳ-kheo,
pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, lúc sanh, do hông phải của
mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn. Khi ấy mẹ Bồ-tát tay vin cành
cây, không ngồi không nằm, có bốn Thiên thần bưng nước hương đứng
trước mẹ mà thưa rằng: “Tâu Thiên mẫu, nay ngài sanh Thánh tử, chớ có
ưu lo. Đó là pháp thường của chư Phật.”
Mẹ Phật không
nằm, ngồi;
Trụ giới, tu
phạm hạnh;
Không lười; sinh
Chí Tôn,
Được trời người
phụng thờ.
“Này các Tỳ-kheo,
pháp thường chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi lúc sanh, do hông phải của mẹ
mà ra, chuyên niệm không tán loạn, thân Ngài thanh tịnh không bị ô
nhiễm bởi các thứ ô uế. Ví như kẻ có mắt sáng, liệng hạt minh châu
sáng sạch lên lụa trắng, thấy rõ cả hai đều không làm bẩn nhau, vì cả
hai đều sạch. Bồ-tát ra khỏi thai cũng như vậy. Đó là pháp thường của
chư Phật”.”
Như minh châu
sáng sạch,
Trên lụa, không
vấy bẩn;
Bồ-tát khi xuất
thai,
Thanh tịnh,
không nhiễm ô.
“Này các Tỳ-kheo,
pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh, do hông phải của
mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn. Ngài từ hông phải ra, vừa đến
đất, không cần người đỡ, liền đi bảy bước, ngó khắp bốn phương, rồi đa
tay lên nói rằng: Trên trời dưới đất, duy Ta là tôn quý, Ta sẽ cứu độ
chúng sanh khỏi sinh, già, bệnh, chết. Ầy là pháp thường của chư
Phật”.”
Giống như sư tử
bước,
Ngó khắp cả bốn
phương;
Nhân Sư Tử khi
sanh,
Đi bảy bước cũng
thế.
Lại như rồng lớn
đi,
Khắp ngó cả bốn
phương,
Đấng Nhân Long
khi sanh,
Đi bảy bước cũng
thế.Khi Đâng Lưỡng Túc sanh,
Đi thong thả bảy
bước,
Ngó bốn phương
rồi nói.:
Sẽ dứt khổ sinh
tử.
Ngay lúc mới
sanh ra,
Đã không ai sánh
bằng,
Tự xét gốc sinh
tử,
Thân này thân
tối hậu.
“Này các Tỳ-kheo,
pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh do hông phải của
mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn, tức thì có hai suối nước, một
ấm, một mát, tự nhiên ở dưới đất tuôn ra, để cúng dường tắm rửa cho
Bồ-tát. Đó là pháp thường của chư Phật”.”
Đấng Lưỡng Túc
khi sinh,
Hai suối tự tuôn
ra,
Để cúng Bồ-tát
dùng;
Biến Nhãn tắm
sạch sẽ.
Hai suối tự tuôn
ra,
Nước suối rất
trong sạch;
Một ấm, một lạnh
mát,
Tắm Đấng Nhất
Thiết Trí.
“Lúc Thái tử mới
sanh, phụ vương Bàn-đầu mời các tướng sư và đạo sĩ đến xem tướng Thái
tử để biết sự tốt xấu. Bấy giờ, các tướng sư vâng lệnh đến xem và ngay
trước khi chưa mặc áo, họ nhìn rõ các tướng đầy đủ. Bèn đoán rằng:
“Người có tướng này sẽ có hai con đường, chắc chắn không nghi ngờ. Nếu
tại gia thì sẽ làm Chuyển luân tthánh vương, trị vì bốn châu thiên hạ,
đủ bốn thứ quân binh, dùng chánh pháp trị dân, không thiên lệch; thi
ân khắp thiên hạ, tự nhiên có bảy thứ báu qui tụ, có ngàn người con
dũng kiện hay dẹp trừ ngoại địch, không cần dùng đao binh mà thiên hạ
thái bình. Còn nếu xuất gia học đạo, thì sẽ thành Bậc Chánh Giác, đầy
đủ mười hiệu.”
Rồi các tướng sư
tâu vua:
“Con trai của đức
vua có ba mươi hai tướng, sẽ có hai con đường, chắc chắn không nghi
ngờ. Nếu tại gia sẽ là vị Chuyển luân thánh vương. Nếu xuất gia sẽ
thành Bậc Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu”.”
Thái tử trăm
phước sinh,
Được tướng sư
ghi nhận,
Như chép trong
điển sách,
Chắc chắn theo
hai đường.
Nếu ngài vui tại
gia,
Sẽ làm Chuyển
luân vương
Được bảy báu
hiếm có,
Báu tự hiện cho
vua.
Bánh xe vàng
ngàn căm,
Với lưới vàng
bao quanh,
Bánh xe hay bay
khắp,
Nên gọi bánh xe
trời.
Khéo luyện voi
bảy ngà,
Cao lớn trắng
như tuyết,
Khéo bay qua hư
không,
Voi báu là thứ
hai.
Ngựa đi khắp
thiên hạ,
Sớm đi chiều về
ăn,
Lông đỏ, bờm
khổng tước,
Là báu vật thứ
ba.
Ngọc lưu ly
trong sáng,
Chiếu rọi một
do-tuần,
Đêm sáng như ban
ngày,
Là báu vật thứ
tư.
Sắc, thanh,
hương, vị, xúc,
Không ai có thể
sánh,
Bậc nhất hàng nữ
nhân;
Đó là báu thứ
năm.
Hiến vua ngọc
lưu ly,
Châu ngọc các
thứ quý,
Hoan hỷ mà phụng
cống,
Đó là báu thứ
sáu.
Theo ý niệm Luân
vương,
Quân binh tiến
thoái nhanh,
Nhậm lẹ theo ý
vua,
Đó là báu thứ
bảy.
Đó là bảy báu
vật,
Bánh xe, voi,
ngựa trắng,
Cư sĩ báu, nữ
báu,
Quân binh báu
thứ bảy;
Nhìn xem mà
không chán,
Ngũ dục tự vui
đùa,
Như voi bứt dây
trói,
Xuất gia thành
Chánh giác.
Vua có con như
thế,
Đấng Lưỡng Túc
loài người,
Ở đời Chuyển
Pháp luân,
Đạo thành không
biếng nhác.
“Lúc bấy giờ, Phụ
vương ân cần hỏi lại tướng sư ba lần: Các ngươi hãy xem lại ba mươi
hai tướng của Thái tử là những gì? Các tướng sư bèn khoác áo lại cho
Thái tử và kể rõ ba mươi hai tướng:
1. Bàn chân bằng
phẳng đầy đặn, đi đứng vững vàng.
2. Dưới bàn chân có
dấu chỉ như bánh xe có ngàn căm, ánh sáng xen nhau.
3. Có màng lưới
mỏng giữa kẽ ngón tay, chân như chân ngỗng chúa.
4. Tay chân mềm mại
như áo trời.
5. Ngón tay chân
thon dài không ai bằng.
6. Gót chân đầy đặn
trông không chán.
7. Ống chân thon
dài như của nai.
8. Các khớp xương
móc lấy nhau như xích chuyền.
9. Mã âm tàng.
10. Đứng thẳng tay
duỗi dài quá gối.
11. Mỗi chân lông
đều có một sợi lông. Sợi lông ấy xoáy hữu, màu lưu ly xanh biếc.
12. Lông mọc xoay
phía hữu, màu xanh biếc thẳng lên.
13. Thân sắc huỳnh
kim.
14. Da thịt mịn
màng không dính bụi nhơ.
15. Hai vai ngang
bằng đầy đặn tròn đẹp.
16. Giữa ngực có
chữ vạn.
17. Thân cao gấp
đôi người thường.
18. Bảy chỗ trong
người đầy đặn.
19. Mình cao to lớn
như cây Ni-câu-lô.
20. Hai má như sư
tử.
21. Ngực vuông đầy
như ngực sư tử.
22. Có bốn mươi cái
răng.
23. Răng ngang bằng
đầy đặn.
24. Răng khít nhau
không hở.
25. Răng trắng,
trong sáng.
26. Yết hầu thanh
sạch, ăn thức gì cũng thích hợp.
27. Lưỡi rộng dài
có thể liếm tới mép tai.
28. Tiếng nói trong
rõ như tiếng Phạm thiên.
29. Con mắt màu
xanh biếc.
30. Mắt như mắt
trâu chúa, trên dưới có hai mí.
31. Có lông trắng
giữa hai chân mày, mềm mại kéo ra dài một tầm, thả thì xoáy trôn ốc về
phía hữu như trân châu.
32. Trên đỉnh có
chỗ thịt nổi.
“Ầy là ba mươi hai
tướng Đại nhân”.
“Bèn nói bài tụng:
Đứng vững chân
mềm mại,
Không dẫm đất,
có dấu,
Tướng ngàn căm
trang nghiêm,
Màu sắc rất tươi
sáng.
Thân cao rộng
ngay thẳng,
Như cây
Ni-câu-loại.
Như Lai, chưa
từng có,
Mã âm tàng ẩn
kín.
Vàng báu trang
nghiêm thân,
Các tướng chói
lẫn nhau.
Tuy mồ hôi như
thường,
Song bụi đất
không dính.
Như sắc trời mịn
màng
Lọng trời tự
nhiên che,
Phạm âm, thân
vàng tía,
Như hoa vươn
khỏi ao.
Vua bèn hỏi
tướng sư
Tướng sư kính
tâu vua
Ngợi khen tướng
Bồ-tát,
Sáng chói khắp
toàn thân,
Các gân khớp tay
chân,
Trong ngoài đều
hiện rõ.
Thực vị thảy vi
diệu,
Thân ngay ngắn
không vẹo,
Bánh xe hiện
dưới chân,
Tiếng nói như
chim oanh,
Tướng bắp đùi
đầy đặn,
Ầy do túc nghiệp
thành.
Cùi chỏ tròn đầy
đẹp,
Mày mắt rất đoan
nghiêm,
Đấng Sư Tử giữa
người,
Có oai lực hơn
hết.
Hai má đều đầy
đặn,
Nằm nghiêng như
sư tử,
Bốn mươi răng
đều đặn,
Dày khít không
kẽ hở
Tiếng Phạm âm ít
có,
Xa gần tùy duyên
nghe.
Đứng thẳng thân
không nghiêng,
Hai tay sờ đến
gối,
Ngón tay đều,
mềm mại,
Đủ các tướng tôn
quý,
Mỗi chân lông
một sợi,
Màng lưới kẽ tay
chân,
Nhục kế, mắt
xanh biếc,
Mắt trên dưới
hai mí,
Hai vai ngang,
tròn, đầy.
Đủ ba mươi hai
tướng.
Gót chân không
cao thấp,
Đùi thon như đùi
nai,
Đấng Chí Tôn
xuất hiện,
Như voi bứt dây
trói,
Độ chúng sanh
thoát khổ,
Khỏi sanh già
bệnh chết.
Ngài đem tâm đại
bi,
Truyền dạy Bốn
chân đế,
Diễn bày các
pháp nghĩa,
Được mọi người
tôn quý.”
Phật lại bảo các
Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo,
lúc Phật Tỳ-bà-thi sinh ra, chư Thiên ở phía trên, giữa hư không, tay
cầm lọng trắng, quạt báu, để ngăn che lạnh, nóng, gió, mưa, bụi bặm”.”
Hiếm có trong
loài người,
Đấng Lưỡng Túc
ra đời,
Được chư Thiên
cung kính,
Dâng lọng báu,
quạt báu.
“Bấy giờ, Phụ vương
cấp bốn người vú: một, cho bú; hai, tắm rửa; ba, bôi hương; bốn, vui
đùa. Họ vui vẻ nuôi nấng không hề biếng nhác”.”
Nhũ mẫu lòng từ
ái,
Nuôi dưỡng con
mới sinh,
Cho bú và tắm
rửa,
Bôi hương và vui
đùa.
Hương bậc nhất
trong đời,
Bôi xoa Đấng Chí
Tôn.
“Lúc còn là đồng
tử, con trai con gái cả nước ngắm nhìn Ngài không chán”.”
Được nhiều người
thương kính,
Như tượng vàng
mới thành,
Trai gái cùng
nhìn ngắm,
Nhìn mãi không
biết chán.
“Lúc còn là đồng
tử, con trai và con gái cả nước đều ẵm bồng, như ngắm hoa báu”.
Phật nói bài kệ:
Khi Lưỡng Túc
Tôn sanh,
Được nhiều người
thương kính,
Chuyền tay nhau
bồng ẵm,
Như ngắm hương
hoa báu.
“Bồ-tát khi mới
sanh mắt Ngài không nháy như chư Thiên trời Đao-lợi. Do cặp mắt không
nháy mà có hiệu là Tỳ-bà-thi.”
Đấng Chí Tôn
không nháy,
Như chư Thiên
Đao-lợi,
Thấy sắc mà
chánh quán,
Nên hiệu
Tỳ-bà-thi.
“Bồ-tát khi sanh âm
thanh của Ngài trong suốt êm dịu hòa nhã như tiếng chim Ca-la-tần-già
“.”
Như chim trên
núi Tuyết,
Uống nước hoa mà
hót,
Đấng Lưỡng Túc
Tôn ấy,
Tiếng trong suốt
cũng vậy.
“Bồ-tát khi mới
sinh, mắt có thể nhìn thấy suốt một do-tuần.”
Do nghiệp quả
thanh tịnh,
Ánh sáng trời
mầu nhiệm,
Mắt Bồ-tát nhìn
thấy,
Khắp suốt một
do-tuần.
“Bồ-tát khi sinh,
tuổi lớn dần, ở tại Thiên chánh đường để khai hóa. Ấn đức ban đến thứ
dân, đức lớn đồn xa “.”
Thơ ấu, ở chánh
đường,
Để khai hóa
thiên hạ,
Quyết đoán các
sự vụ,
Nên gọi
Tỳ-bà-thi.
Trí thanh tịnh
quảng bác,
Sâu thẳm như
biển cả,
Hài lòng với mọi
người,
Khiến trí tuệ
tăng trưởng.
“Một hôm, Bồ-tát
muốn ra khỏi thành để dạo chơi và quan sát, bèn ra lệnh sửa soạn xe
báu để Ngài đi đến viên lâm tuần hành và du ngoạn. Người đánh xe sau
khi sửa soạn xa giá xong, tâu Thái tử: Giờ đã đến lúc. Thái tử cưỡi xe
báu đi đến khu vườn công cộng kia. Giữa đường Ngài gặp một người già,
đầu bạc răng rụng, lưng còm, mặt nhăn, rung rinh trên chiếc gậy, thở
khò khè theo nhịp bước khó khăn. Thái tử liền xoay hỏi quân hầu: Đó là
người gì? Đáp rằng: Đó là người già. Lại hỏi:
Già là thế nào?
Đáp: Già là người mà tuổi thọ sắp hết, không còn sống bao lăm nữa.
Thái tử lại hỏi: Ta đây cũng sẽ như thế, không tránh khỏi hoạn này
chăng? Đáp: Phàm đãã có sinh tất có già, đâu kể chi sang hèn. Nghe vậy
Thái tử buồn bã không vui, liền bảo quân hầu đánh xe về. Ngài lặng lẽ
suy nghĩ về nỗi già khổ mà chính Ngài cũng chưa tránh khỏi”.”
Bấy giờ Phật bèn
nói bài kệ:
Nhìn mạng già
sắp chết,
Chống gậy bước
đi run,
Bồ-tát tự suy
ngẫm,
Ta chưa khỏi nạn
này.
“Bấy giờ Phụ vương
hỏi quân hầu: Thái tử xuất du có vui không? Đáp: Không vui. Lại hỏi lý
do: Tại sao vậy? Đáp: Tại giữa đường Ngài gặp người già nên không vui.
Phụ vương mới âm thầm nhớ tới lời tướng sư ngày trước, đoán Thái tử sẽ
xuất gia, nay Thái tử không vui, hẳn đúng như thế chăng? Ta hãy dùng
mọi cách giữ Thái tử lại thâm cung, đem ngũ dục làm nguôi lòng Thái
tử, để Thái tử đừng xuất gia. Nghĩ xong vua liền hạ lệnh trang sức
cung quán, chọn hàng thế nữ để giúp vui Thái tử”.”
Phật lại nói bài
tụng:
Phụ vương nghe
lời ấy,
Sai trang hoàng
cung quán,
Tăng thêm bằng
ngũ dục
Muốn để không
xuất gia.
“Lại một lúc khác,
Thái tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo và trên đường đi, Ngài gặp một
người bệnh, thân gầy, bụng lớn, mày mặt sạm đen, nằm lăn trên nhơ bẩn,
không ai ngó ngàng chăm sóc. Bệnh rất trầm trọng, miệng không thốt
được một lời. Thái tử xoay lại hỏi quân hầu: Đó là người gì? Đáp: Đó
là người bệnh. Hỏi: Bệnh là thế nào? Đáp: Bệnh là sự đau đớn bứt rứt,
chết sống không biết lúc nào. Hỏi: Ta cũng sẽ như thế, chưa tránh khỏi
cái hoạn này sao? Đáp: Phải. Phàm có sanh thì có bệnh, không kể gì
sang hèn. Nghe vậy Thái tử trở nên buồn bã không vui, liền bảo quân
hầu đánh xe trở về. Ngài lặng lẽ suy nghĩ tới cái khổ bệnh mà Ngài
cũng không tránh khỏi”.”
Rồi Phật nói bài
kệ:
Nhìn người bệnh
lâu kia,
Nhan sắc bị suy
tổn.
Im lặng tự suy
ngẫm
Ta chưa khỏi
hoạn này.
“Bấy giờ, Phụ vương
lại hỏi quân hầu: Thái tử đi dạo có vui không? Không vui. Quân hầu
đáp. Tại sao thế? Tại giữa đường Ngài gặp người bệnh, nên không vui.
Phụ vương âm thầm suy nghĩ: Ngày trước tướng sư xem tướng Thái tử có
đoán sẽ đi xuất gia. Ngày nay Thái tử không vui, hẳn đúng thế chăng?
Ta sẽ tìm cách tăng thêm mọi thứ dục lạc làm nguôi lòng Thái tử khiến
cho khỏi xuất gia”. Vua liền hạ lệnh nghiêm sức cung quán, chọn thêm
thể nữ để giúp vui”.”
Phật lại nói kệ:
Sắc, thanh,
hương, vị, xúc,
Vi diệu đáng ưa
thích,
Bồ-tát phước tột
cùng,
Nên sống trong
hoan lạc.
“Lại một lúc khác,
Thái tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo và giữa đường lần này, Ngài gặp
một người chết, phan lụa nhiều màu dẫn đường trước sau; dòng họ thân
quyến tiếc thương than khóc, đưa ra khỏi thành. Thái tử lại hỏi: Đó là
người gì? Đó là người chết, quân hầu đáp. Hỏi: Chết là thế nào? Đáp:
Chết tức là hết. Hết gió đến lửa cứ tiếp tục làm cho xác thân bại
hoại. Kẻ còn kẻ mất đôi đường, gia đình ly biệt. Thái tử lại hỏi người
đánh xe: Ta đây cũng sẽ như thế, chưa khỏi cái hoạn này chăng? Đáp:
Phải. Phàm đã có sanh tất có chết, chẳng kể sang hèn. Nghe vậy Thái tử
lại càng buồn bãã không vui, bảo đánh xe về. Ngài trầm ngâm suy nghĩ
tới cái chết khổ mà Ngài cũng không tránh khỏi.
Phật liền dạy bài
kệ:
Vừa trông thấy
người chết,
Biết họ còn tái
sanh;
Thầm lặng tự suy
nghĩ:
“Ta chưa khỏi
hoạn này”.
“Phụ vương lại hỏi
quân hầu: Thái tử đi dạo lần này có vui không?. -Không vui, quân hầu
đáp.- Tại sao thế?. -Tại giữa đường Ngài gặp người chết, nên không
vui. Phụ vương âm thầm suy nghĩ: Ngày trước tướng sư xem Thái tử có
đoán sẽ đi xuất gia, ngày nay Thái tử không vui, hẳn là đúng thế
chăng? Ta hãy tìm cách tăng thêm các thứ kỹ nhạc để làm nguôi lòng
Thái tử, khỏi xuất gia. Liền hạ lệnh trang sức cung cấm, chọn thêm thể
nữ để khiến cho giúp vui”.”
Tuổi thơ đã nổi
tiếng,
Các thể nữ vây
quanh,
Tự vui trong ngũ
dục,
Như thú vui
Thiên đế.
“Lại một lúc khác,
Thái tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo và lần này giữa đường Ngài gặp một
vị Sa-môn, mang y cầm bát, mắt ngó xuống đất, chân bước khoan thai.
Thái tử liền hỏi quân hầu: Đó là người gì?. Đó là vị Sa-môn, quân hầu
đáp. -Sao gọi là Sa-môn?. Sa-môn là người xa lìa ân ái, xuất gia học
đạo, chế ngự các căn, không nhiễm mê ngoại dục, lòng xót thương hết
thảy, không làm tổn hại vật gì, gặp khó cũng không phiền, gặp vui cũng
không mong, hay nhẫn như đất, nên gọi là Sa-môn. Thái tử bèn nói: Lành
thay, đó là đạo chân chính, tuyệt hẳn mọi trần lụy, vi diệu thanh hư.
Chỉ có thế là khoái thích thôi! Thái tử liền bảo quân hầu đưa xe đến
gần và hỏi Sa-môn rằng: Ông cắt tóc, cạo râu mang y cầm bát như vậy,
chí ông muốn cầu chuyện gì? Sa-môn đáp: Phàm người xuất gia là cốt
điều phục tâm ý, xa lìa trần cấu, thương cứu quần sanh, kh ông làm
điều nhiễu hại, trong lòng rỗng rang tịch mịch, chỉ có bề giữ đạo mà
thôi”. Thái tử khen: Hay lắm! Đạo này rất chân chính. Liền bảo quân
hầu: Mang áo trân bảo của Ta và xa giá về, tâu lại phụ vương biết rằng
ngay tại đây, Ta sẽ cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Vì
Ta muốn điều phục tâm ý, xa lìa trần cấu, giữ mình thanh tịnh để cầu
Chánh đạo. Quân hầu liền đem xa giá và y phục của Thái tử về tâu lại
phụ vương, còn Thái tử thì cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu
đạo”.”
Phật bảo các
Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo!
Thái tử nhân thấy người già, bệnh mà thấu rõ cõi đời là khổ não; nhân
thấy người chết mà lòng tham luyến thế gian tiêu tan; nhân thấy vị
Sa-môn mà tâm được hoát nhiên đại ngộ. Trong khi Thái tử xuống xe bước
đi, cứ mỗi bước tiến tới là mỗi bước rời xa triền phược. Thế ấy là
chân xuất gia, chân viễn ly.
“Bấy giờ, nhân dân
trong nước nghe Thái tử đã cạo bỏ râu tóc, mang y cầm bát, xuất gia
hành đạo, họ bảo nhau rằng: Đạo ấy chắc là đạo chân chính, mới khiến
Thái tử từ bỏ vương vị vinh hoa cùng mọi sự quý trọng để đi theo. Lúc
ấy có tới tám vạn bốn ngàn84000 người trong nước đến xin Thái tử cho
làm đệ tử xuất gia tu đạo”.”
Lựa chọn pháp
thâm diệu,
Nghe xong liền
xuất gia,
Thoát khỏi ngục
ân ái,
Không còn các
trói buộc.
“Thái tử bèn thâu
nhận, cho cùng đi theo giáo hóa khắp nơi, từ thôn này sang thôn khác,
từ nước nọ đến nước kia. Họ đến chỗ nào cũng được cung kính, cúng
dường tứ sự. Bồ-tát nghĩ rằng: Ta cùng đại chúng thường đi qua các
nước, chỗ nhân gian ồn ào, việc này không thích hợp với ta lắm. Lúc
nào ta mới xa được đám đông này ở chỗ nhàn tịnh mà suy tầm đạo lý?
“Ngài liền theo ý
nguyện đi đến chỗ nhàn tịnh, chuyên tinh tu đạo. Ngài lại suy nghĩ:
Chúng sanh thật đáng thương, thường ở trong hôn ám, thọ thân nguy
khốn, mong manh, nào sanh, nào già, nào bệnh, nào chết, đủ mọi thứ khổ
não. Họ chết đây sanh kia, chết kia sanh đây, cứ duyên theo cái khổ ấm
đó mà trôi nổi không biết bao giờ cùng. Ta lúc nào mới có thể thấu
triệt khổ ấm, diệt hết sanh già chết?
“Ngài lại suy nghĩ
rằng: Sanh tử từ đâu, duyên đâu mà có ra? Liền dùng trí tuệ quán sát
nguyên do, thấy rằng do sanh mà có già và chết; sanh là duyên của già
chết. Sanh lại do hữu mà có; hữu là duyên của sanh. Hữu do thủ mà có;
thủ là duyên của hữu. Thủ do ái mà có; ái là duyên của thủ. Ái do thọ
mà có; thọ là duyên của ái. Thọ do xúc mà có; xúc là duyên của thọ.
Xúc do lục nhập mà có; lục nhập là duyên của xúc. Lục nhập do danh sắc
mà có; danh sắc là duyên của lục nhập. Danh sắc do thức mà có; thức là
duyên của danh sắc. Thức do hành mà có, hành là duyên của thức. Hành
do si mà có, si là duyên của hành. Thế tức là do duyên là si có hành,
do duyên là hành có thức, do duyên là thức có danh sắc, do duyên là
danh sắc có lục nhập, do duyên là lục nhập có xúc, do duyên là xúc có
thọ, do duyên là thọ có ái, do duyên là ái có thủ, do duyên là thủ có
hữu, do duyên là hữu có sanh, do duyên là sanh có già, bệnh, chết,
sầu, buồn, khổ, não. Cái ấm thân đầy dẫy khổ não này do duyên là sanh
mà có. Chính đó là sự tập khởi của khổ.
“Khi Bồ-tát suy
nghĩ tới cái khổ tập ấm ấy, liền phát sinh trí, phát sinh nhãn, phát
sinh giác, phát sinh minh, phát sinh thông, phát sinh tuệ, phát sinh
chứng ngộ.
“Bồ-tát lại suy
nghĩ: Do cái gì không có thì già chết không có? Do cái gì diệt thì già
chết diệt? Rồi bằng trí tuệ, Ngài quán sát nguyên do, biết rằng, do
sanh không có nên già chết không có; do sanh diệt nên già chết diệt;
do hữu không có nên sanh không có, hữu diệt nên sanh diệt; do thủ
không có nên hữu không có, thủ diệt nên hữu diệt; do ái không có nên
thủ không có, ái diệt nên thủ diệt; do thọ không có nên ái không có,
thọ diệt nên ái diệt; do xúc không có nên thọ không có, xúc diệt nên
thọ diệt; do lục nhập không có nên xúc không có, lục nhập diệt nên xúc
diệt; do danh sắc không có nên lục nhập không có, danh sắc diệt nên
lục nhập diệt; do thức không có nên danh sắc không có, thức diệt nên
danh sắc diệt; do hành không có nên thức không có, hành diệt nên thức
diệt; do si không có nên hành không có, si diệt nên hành diệt. Thế tức
là vì si diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên
danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập diệt, lục nhập diệt nên xúc
diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ
diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên già
chết ưu bi khổ não diệt.
“Khi Bồ-tát suy
nghĩ về khổ ấm diệt như thế liền phát sinh trí, phát sinh nhãn, phát
sinh giác, phát sinh minh, phát sinh thông, phát sinh tuệ, phát sinh
chứng.
“Sau khi Bồ-tát
quán mười hai nhân duyên theo hai chiều thuận nghịch, biết như thật,
thấy như thật, ngay tại chỗ, Ngài chứng được đạo quả
A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề “.”
Phật bèn nói bài
tụng:
Lời này nói giữa
chúng,
Các ngươi nên
lắng nghe.
Bồ-tát quá khứ
quán
Mà vốn chưa từng
nghe:
“Già chết từ
duyên gì,
Nhân gì mà có
ra?
Quán sát đúng
như vậy,
Biết già chết do
sanh;
Sanh lại từ
duyên gì,
Nhân gì mà có
ra?
Suy nghĩ đúng
như vậy,
Liền biết sanh
do hữu;
Chấp thủ, chấp
thủ rồi,
Hữu lần lượt
chồng chất.
Vậy nên Như Lai
dạy:
Thủ là duyên của
hữu.
Như đống chứa dơ
bẩn.
Gió thổi, ác
tuôn chảy,
Như vậy nhân của
thủ,
Do ái mà rộng
sâu.
Ái do từ thọ
sanh,
Nảy sinh gốc
lưới khổ,
Vì nhân duyên
nhiễm trước,
Cùng tương ưng
khổ lạc.
Thọ vốn do duyên
gì,
Nhân gì mà có
thọ?
Suy nghĩ như thế
rồi,
Biết thọ do xúc
sanh.
Xúc vốn do duyên
gì,
Nhân gì mà có
xúc?
Suy nghĩ như thế
rồi,
Biết xúc từ lục
nhập.
Lục nhập do
duyên gì,
Nhân gì có lục
nhập?
Suy nghĩ như
vậy, biết,
Lục nhập do danh
sắc.
Danh sắc do
duyên gì,
Nhân gì có danh
sắc?
Suy nghĩ như vậy
biết
Danh sắc từ thức
sanh.
Thức vốn do
duyên gì,
Nhân gì mà có
thức?
Suy nghĩ như vậy
rồi,
Biết thức từ
hành sanh;
Hành vốn do
duyên gì,
Nhân gì mà có
hành?
Suy nghĩ như vậy
rồi
Biết hành từ si
sanh.
Nhân duyên như
vậy đó,
Mới thật nghĩa
nhân duyên.
Dùng trí tuệ
phương tiện,
Quán thấy gốc
nhân duyên.
Khổ không do
Thánh hiền,
Cũng không phải
vô cớ.
Nên với khổ biến
dịch,
Kẻ trí lo đoạn
trừ.
Nếu vô minh dứt
sạch,
Lúc đó không còn
hành.
Nếu đã không có
hành,
Thời cũng không
có thức;
Nếu thức hết
vĩnh viễn,
Thì danh sắc
không còn.
Danh sắc đã dứt
rồi,
Làm gì có lục
nhập.
Nếu lục nhập
trọn dứt,
Thời cũng không
có xúc.
Nếu xúc đã dứt
hẳn,
Thời cũng không
có thọ.
Nếu thọ dứt hết
rồi,
Thời cũng không
có ái
Nếu ái dứt hết
rồi
Thời cũng không
có thủ.
Nếu thủ đã dứt
rồi,
Thời cũng không
có hữu.
Nếu hữu dứt hết
rồi,
Thời cũng không
có sanh.
Nếu sanh dứt hết
rồi,
Thời không khổ
già chết.
Hết thảy đều dứt
sạch.
Đó lời người trí
nói.
Mười hai duyên
sâu xa,
Khó thấy khó
hiểu biết
Duy Phật mới
biết rõ,
Tại sao có, sao
không.
Nếu hay tự quán
sát,
Thời không còn
các nhập.
Người thấu triệt
nhân duyên
Không cần tìm
thầy ngoài.
Đối với ấm,
giới, nhập,
Lìa dục, không,
nhiễm trước;
Xứng đáng nhận
bố thí;
Thí chủ được báo
lành.
Nếu đặng bốn
biện tài,
Thành tựu quyết
định chứng;
Giải trừ mọi
ràng buộc,
Đoạn trừ, không
buông lung.
Sắc, thọ, tưởng,
hành, thức,
Giống như xe cũ
mục;
Quán rõ được như
vậy,
Thời thành Bậc
Chánh Giác.
Như chim bay
giữa không,
Đông tây theo
ngọn gió;
Bồ-tát đoạn kết
sử,
Như gió thổi áo
nhẹ.
Tỳ-bà-thi tịch
tịnh,
Quán sát rõ các
pháp;
Già chết duyên
đâu có,
Từ đâu già chết
dứt,
Ngài quán như
vậy rồi,
Phát sanh trí
thanh tịnh,
Biết già chết do
“sanh”
Sanh dứt, già
chết dứt.
“Lúc Phật Tỳ-bà-thi
vừa mới thành đạo, Ngài tu tập nhiều về hai phép quán là An ẩn quán và
Xuất ly quán “.”
Phật liền dạy bài
tụng:
Như Lai, Bậc Tối
Thượng,
Thường tu hai
phép quán,
An ẩn và Xuất
ly,
Đại Tiên sang bờ
kia,
Tâm Ngài được tự
tại,
Đoạn trừ mọi kết
sử
Lên núi nhìn bốn
phương,
Nên hiệu
Tỳ-bà-thi.
Ánh đại trí trừ
tối,
Như gương sáng
soi mình.
Trừ ưu khổ cho
đời.
Dứt khổ sanh già
chết.
“Phật Tỳ-bà-thi,
lại ở chỗ nhàn tịnh suy nghĩ như vầy: “Ta nay đã chứng được pháp vô
thượng thậm thâm vi diệu là pháp khó thấy khó hiểu, tịch tĩnh, thanh
tịnh, chỉ có người trí mới thấu biết chứ kẻ phàm phu không thể nào
hiểu thấu được. Bởi vì chúng sanh có những nhẫn dị biệt, kiến dị biệt,
chấp thủ dị biệt, sở kiến dị biệt. Dựa theo kiến thức dị biệt đó mỗi
người chỉ thích điều mình mong cầu, làm theo tập quán của mình, cho
nên đối với lý nhân duyên thâm diệu này chúng còn không thể thấu hiểu,
huống chi cảnh Niết-bàn dứt hết mọi tham ái, lại càng khó hiểu gấp bội
phần. Ta dầu vì chúng mà nói ra thì chắc chúng không hiểu nổi còn trở
lại gây phiền nhiễu”. Suy nghĩ như thế rồi, Ngài im lặng không muốn
thuyết pháp.
“Lúc ấy vị vua trời
Phạm thiên, biết Đức Tỳ-bà-thi đã nghĩ gì, liền tự nhủ: Cõi thế gian
này đang bị sụp đổ, rất đáng thương xót. Đức Phật Tỳ-bà-thi vừa chứng
được pháp mầu như thế mà không muốn nói ra. Tức thì, trong khoảnh
khắc, như lực sĩ co duỗi tay, từ cung Phạm thiên bỗng nhiên hiện
xuống, đến trước mặt Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, đứng lui
một bên, rồi đầu gối mặt quỳ sát đất, chắp tay bạch rằng: Ngưỡng mong
Ðức Thế Tôn kịp thời thuyết pháp. Các chúng sanh hiện nay, trần cấu
mỏng nhẹ, các căn lanh lợi nhiều, có lòng cung kính, dễ bề khai hóa.
Chúng đã biết sợ những tội lỗi không ai cứu trong tương lai, biết dứt
trừ điều ác, phát sinh điều lành.
“Phật bảo Phạm
vương: Thật vậy, thật vậy, đúng như lời ngươi nói. Nhưng ta ở chỗ nhàn
tịnh, thầm lặng suy nghĩ: Chánh pháp ta vừa chứng được vi diệu thậm
thâm, nếu đem nói cho chúng sanh, chắc họ không hiểu nổi lại sanh tâm
báng bổ, nên ta mặc nhiên không muốn thuyết pháp. Ta nhờ từ vô số
a-tăng-kỳ kiếp cần khổ không biếng nhác tu tập những hạnh vô thượng,
nay mới chứng ngộ được pháp khó chứng ngộ này, nếu vì hạng chúng sanh
còn dâm, nộ, si mà nói ra, chắc chúng không làm theo, chỉ thêm luống
uổng. Pháp vi diệu này trái nghịch với đời. Chúng sanh bị dục nhiễm
ngu si che ngăn không tin hiểu nổi. Này Phạm vương, Ta thấy rõ như
thế, nên mặc nhiên không muốn thuyết pháp.
“Khi ấy, Phạm vương
lại ân cần khẩn thiết thưa thỉnh một lần nữa, rồi một lần nữa, ân cần
khẩn thiết thỉnh cầu đến ba lần rằng: Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn không
thuyết pháp, thì nay cõi thế gian này phải bị sụp đổ, rất đáng thương
xót. Ngưỡng mong Thế Tôn, kịp thời giảng dạy, chớ để chúng sanh sa đọa
đường mê.
“Ðức Thế Tôn nghe
Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế
giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng, căn
tánh có lanh lợi, có chậm lụt; có kẻ dễ khai hóa, có người khó khai
hóa. Hạng người dễ khai hóa, biết sợ tội lỗi đời sau, nên gắng lo dứt
trừ điều ác, làm phát sanh đường lành. Chúng như hoa Ưu-bát-la, hoa
Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ, có cái vừa ra khỏi bùn
nhưng chưa tới mặt nước, có cái đã ra khỏi bùn lại lên ngang mặt nước,
có cái tuy lên khỏi mặt nước mà chưa nở, nhưng cái nào cũng không bị
dính bẩn, mà dễ dàng nở ra. Chúng sanh trong thế gian này cũng như
thế.
“Ðức Thế Tôn bảo
Phạm vương: Ta vì thương tưởng các ông sẽ khai diễn pháp môn cam lồ là
pháp thâm diệu khó hiểu, khó biết. Nay vì những người tín thọ, muốn
nghe, mà nói chứ không phải vì hạng người bài báng vô ích.
“Phạm vương biết
Phật đã nhận lời thỉnh cầu, nên vui mừng hớn hở đi quanh Phật ba vòng,
cúi đầu đảnh lễ rồi biến mất.
“Phạm vương đi chưa
bao lâu, Đức Như Lai lại tĩnh mặc suy nghĩ: Nay ta nên nói pháp cho ai
trước hết? Rồi Ngài lại suy nghĩ: Ta hãy đi vào thành Bàn-đầu, trước
hết mở cánh cửa cam lộ cho vương tử Đề-xá và con đại thần là Khiên-đồ.
Rồi thì, liền trong khoảnh khắc như lực sĩ co duỗi tay, Thế Tôn bỗng
biến mất khỏi cây đại thọ, Ngài đã đến thành Bàn-đầu, vào vườn Lộc dã
của vua Bàn-đầu, trải tọa rồi ngồi.”
Bấy giờ, Phật nói
bài tụng:
Như sư tử trong
rừng,
Mặc tình mà đi
dạo.
Phật kia cũng
như vậy,
Du hành không
trở ngại.
“Phật Tỳ-bà-thi bảo
người giữ vườn: Ngươi hãy vào thành bảo với vương tử Đề-xá và Khiên-đồ
con đại thần rằng: Các ngài có biết không, Đức Phật Tỳ-bà-thi hiện ở
trong vườn Lộc dã, muốn gặp các ngài? Các ngài nên biết bây giờ là
phải thời. Người giữ vườn vâng mệnh tìm đến chỗ hai người trình đủ
những điều Phật dạy. Hai người nghe xong, liền đến chỗ Phật, cúi đầu
đảnh lễ, rồi đứng lại một bên. Phật lần lượt thuyết pháp cho họ nghe,
chỉ bày, giáo huấn, khiến cho lợi ích, hoan hỷ. Ngài giảng về bố thí,
trì giới, sanh thiên; dục là xấu ác, bất tịnh; phiền não là nguy hiểm
; tán dương sự xuất ly là pháp rất vi diệu tối thượng, thanh tịnh bậc
nhất. Khi Phật thấy hai người đã có một tâm ý mềm mại, hoan hỷ tin
vui, đủ sức lãnh thọ chánh pháp, thì dạy tiếp về Khổ thánh đế; phân
tích, giảng giải, mở bày rành rẽ về Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh
đế và Khổ xuất yếu thánh đế. Bấy giờ vương tử Đề-xá và con trai đại
thần là Khiên-đồ ngay tại chỗ, xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh
tịnh, như tấm vải trắng dễ nhuộm sắc màu.
“Lúc ấy, địa thần
bèn xướng lên rằng: Đức Tỳ-bà-thi Như Lai ở vườn Lộc dã, thành
Bàn-đầu, chuyển Pháp luân vô thượng mà các Sa-môn, Bà-la-môn, chư
Thiên, Ma, Phạm và các Người thế gian khác không thể chuyển được.
Tiếng nói ấy lần lượt vang đến cõi Tứ thiên vương, cho đến cõi trời
Tha hóa tự tại, rồi trong khoảnh khắc vang đến cõi Phạm thiên “.”
Phật liền dạy bài
kệ:
Tâm vui mừng hớn
hở,
Xưng tán Đức Như
Lai.
Tỳ-bà-thi thành
Phật,
Chuyển Pháp luân
vô thượng.
Bắt đầu từ đạo
thọ,
Đi đến thành
Bàn-đầu.
Vì Đề-xá,
Khiên-đồ
Chuyển Pháp luân
Tứ đế.
Đề-xá và
Khiên-đồ
Nghe xong lời
Phật dạy
Ở trong pháp
thanh tịnh
Được phạm hạnh
tối cao.
Thiên chúng trời
Đao-lợi
Cho đến Thiên Đế
Thích,
Vui mừng bảo lẫn
nhau,
Nghe khắp cả chư
Thiên:
Phật xuất hiện
thế gian,
Chuyển Pháp luân
vô thượng;
Tăng thêm hàng
chư Thiên;
Giảm bớt
A-tu-la.
Đấng Thế Tôn
danh vang
Thiện trí lìa
thế biên.
Tự tại đối các
pháp,
Đại Trí chuyển
Pháp luân.
Quán sát pháp
bình đẳng,
Tâm dứt sạch cấu
bẩn,
Để lìa ách sanh
tử,
Đại Trí chuyển
Pháp luân.
Diệt khổ lìa các
ác,
Ly dục được tự
tại,
Xa lìa ngục ái
ân,
Đại Trí chuyển
Pháp luân.
Đấng Chánh Giác
Tối Tôn,
Đấng Điều Ngự
Lưỡng Túc,
Giải thoát mọi
ràng buộc,
Đại Trí chuyển
Pháp luân.
Đạo Sư khéo giáo
hóa,
Hay uốn dẹp oán
ma,
Xa lìa mọi điều
ác,Đại Trí chuyển Pháp luân.
Sức vô lậu hàng
ma,
Các căn định,
không lười,
Lậu tận, lìa ma
trói,
Đại Trí chuyển
Pháp luân.
Nếu học pháp
quyết định,
Biết các pháp vô
ngã,
Đó là pháp cao
tột,
Đại Trí chuyển
Pháp luân.
Không vì cầu lợi
dưỡng
Cũng chẳng vì
danh dự,
Chỉ vì thương
chúng sanh,
Đại Trí chuyển
Pháp luân.
Thấy chúng sanh
khổ ách,
Già, bệnh, chết
bức bách,
Vì ba đường ác
đó,
Đại Trí chuyển
Pháp luân.
Đoạn tham, sân
nhuế, si;;
Nhổ sạch gốc
tham ái,
Được giải thoát
bất động,
Đại Trí chuyển
Pháp luân.
Ta thắng việc
khó thắng
Thắng để tự hàng
phục,
Đã thắng ma khó
thắng,
Đại Trí chuyển
Pháp luân.
Pháp luân vô
thượng đó,
Chỉ Phật hay
chuyển nói.
Hàng Thiên, Ma,
Thích, Phạm,
Không ai chuyển
nói được.
Thân cận chuyển
Pháp luân,
Làm ích lợi
Thiên, Nhân;
Bậc Thiên Nhân
Sư đó,
Đã vượt đến bờ
kia.
“Lúc ấy vương tử
Đề-xá và công tử Khiên-đồ đã thấy pháp, đắc quả, chân thật không dối
thành tựu vô úy, liền bạch Phật rằng: Chúng con muốn ở trong giáo pháp
của Như Lai tịnh tu phạm hạnh. Phật nói: Hãy đến đây, Tỳ-kheo. Pháp ta
thanh tịnh, tự tại; hãy tự mình tu hành để dứt trừ hết thống khổ. Ngay
lúc ấy hai người liền đắc Cụ túc giới. Họ đăc giới chưa bao lâu, Như
Lai lại thị hiện ba việc: một là Thần túc, hai là Quán tha tâm, ba là
Giáo giới, tức thì chứng đắc Tâm giải thoát vô lậu, phát sinh Vô nghi
trí.
“Bấy giờ số đông
nhân dân ở thành Bàn-đầu nghe hai người xuất gia học đạo, mang y cầm
bát, tịnh tu phạm hạnh, họ nói nhau rằng: Đạo ấy chắc là đạo chân
thật, mới khiến các người kia bỏ vinh vị ở đời, bỏ các thứ quý trọng
để tu theo. Rồi thì, trong thành có tám vạn bốn ngàn người đi đến vườn
Lộc dã, chỗ Phật Tỳ-bà-thi, cúi đầu đảnh lễ, ngồi lại một bên. Phật
lần lượt thuyết pháp, chỉ bày, giáo huấn, khiến cho lợi ích, hoan hỷ ;
nói về bố thí, về trì giới, về sinh thiên; chỉ rõ dục là xấu ác bất
tịnh phiền não là nguy hiểm tán thán sự xuất ly là vi diệu tối thượng,
thanh tịnh bậc nhất. Khi Ðức Thế Tôn thấy đại chúng có một tâm ý mềm
mại, hoan hỷ tín thọ, đủ sức lãnh thọ Chánh pháp, Ngài liền nói về Khổ
thánh đế; phân tích, giảng giải, công bố Khổ tập thánh đế, Khổ diệt
thánh đế, Khổ xuất yếu thánh đế. Ngay tại chỗ, cả bốn vạn tám ngàn
người đều xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, như tấm vải
trắng dễ nhuộm sắc màu. Họ được thấy pháp chứng quả, chân thật không
dối, thành tựu vô úy, liền bạch Phật rằng: Chúng con muốn ở trong giáo
pháp Như Lai mà tịnh tu phạm hạnh. Phật dạy: Hãy đến đây, Tỳ-kheo!
Pháp ta thanh tịnh, tự tại; hãy theo đó tu hành để dứt trừ thống khổ.
Khi đó tám vạn bốn ngàn người đều đắc Cụ túc giới. Đắc giới chưa bao
lâu Như Lai lại thị hiện ba việc để giáo hóa: một là Thần túc, hai là
Quán tha tâm, ba là Giáo giới. Họ tức thì chứng đắc Tâm giải thoát vô
lậu, phát sinh Trí vô nghi.
“Hiện tiền có tám
vạn bốn ngàn người khác, nghe Phật ở trong vườn Lộc dã chuyển Pháp
luân vô thượng mà hàng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma, Phạm và các
người thế gian khác không thể chuyển được, liền đến thành Bàn-đầu chỗ
Phật Tỳ-bà-thi, cúi đầu đảnh lễ, ngồi lại một bên”.”
Phật lại nói bài
tụng:
Như người cứu
đầu cháy,
Nhanh chóng tìm
chỗ dập;
Người kia cũng
như vậy,
Vội đến trước
Như Lai.
“Phật cũng vì họ
nói pháp như trước.
“Đến lúc này tại
thành Bàn-đầu đã có mười sáu vạn tám ngàn vị Đại Tỳ-kheo. Tỳ-kheo
Đề-xá và Tỳ-kheo Khiên-đồ ở trong đại chúng bỗng bay lên không trung,
thân phóng xuất nước lửa, hiện các thần thông biến hóa, nói pháp vi
diệu cho đại chúng nghe. Bấy giờ Đức Như Lai thầm nghĩ: Nay tại trong
thành này đã có mười sáu vạn tám ngàn Đại Tỳ-kheo, ta nên sai đi du
hóa; chớ đi hai người một nhóm, đến khắp các nơi, đúng sáu năm lại trở
về thành này để thuyết Cụ túc giới.
“Bấy giờ, trời
Thủ-đà-hội biết được tâm tư của Như Lai, trong khoảnh khắc như lực sĩ
co duỗi cánh tay, biến mất khỏi cõi trời kia mà hiện đến nơi này, đến
trước Ðức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ, đứng lại một bên; giây lát, bạch
Phật rằng: Bạch Thế Tôn, thật như vậy, trong thành Bàn-đầu này có
nhiều Tỳ-kheo, Ngài nên phân bố đi khắp mọi nơi, đúng sáu năm sẽ trở
lại thành này để thuyết giới, con sẽ ủng hộ, khiến không ai tìm cơ hội
phá khuấy các vị được. Như Lai sau khi nghe lời ấy, làm thinh nhận
lời. Trời Thủ-đà-hội thấy Phật làm thinh nhận lời, đảnh lễ Phật xong,
bỗng biến trở lại cõi trời. Không bao lâu sau, Phật bảo các Tỳ-kheo:
Nay trong thành này Tỳ-kheo đã đông, nên mỗi người phân bố đi mỗi
hướng du hành giáo hóa. Sau sáu năm hãy trở về tập họp thuyết giới.
Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, mang y cầm bát, đảnh lễ Phật rồi đi”.”
Phật bèn nói bài
tụng:
Phật sai chúng
không loạn,
Ly dục, không
luyến ái,
Oai như chim kim
sí;
Như hạc bỏ ao
hoang.
“Sau đó một năm,
trời Thủ-đà-hội nhắc lại các Tỳ-kheo: Các ngài đi du hóa đã qua một
năm, còn năm năm nữa, các ngài nên nhớ trọn sáu năm rồi hãy nhóm về
thành mà thuyết giới. Cứ như thế, đến năm thứ sáu, trời lại nhắc rằng:
Sáu năm đã mãn, nên trở về thành mà thuyết giới. Các Tỳ-kheo nghe lời
nhắc xong, thu xếp y bát, trở lại thành Bàn-đầu, đến Lộc dã chỗ Phật
Tỳ-bà-thi, cúi đầu đảnh lễ, ngồi lui một bên”.”
Phật nói bài tụng:
Như voi khéo
huấn luyện,
Tùy ý sai khiến
đi;
Đại chúng cũng
như vậy,
Vâng lời mà trở
về.
“Bấy giờ, ở trước
mặt đại chúng, Như Lai bay lên không trung, ngồi kiết già, giảng nói
giới kinh:
Nhẫn nhục là bậc
nhất,
Niết-bàn là tối
thượng,
Cạo tóc, não hại
người,
Không phải là
Sa-môn.
“Trời Thủ-đà-hội
lúc ấy ở cách Phật không xa, dùng bài kệ tán Phật rằng:
Như Lai đại trí,
Vi diệu độc tôn,
Chỉ, quán đầy
đủ,
Thành Tối chánh
giác.
Vì thương quần
sanh,
Ở đời thành Đạo.
Đem Bốn chân đế
Dạy hàng
Thanh-văn.
Khổ cùng khổ
nhân,
Chân lý diệt
khổ;
Tám đạo Thánh
hiền;
Đưa đến an lạc.
Phật Tỳ-bà-thi
Xuất hiện thế
gian;
Ở giữa đại chúng
Như ánh mặt
trời.
“Nói xong bài kệ,
bỗng nhiên biến mất.”
Bấy giờ, Phật lại
bảo các Tỳ-kheo:
“Ta nhớ lại, thuở
xưa, khi ở tại núi Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt, có một lần sinh tâm
nghĩ rằng: Chỗ Ta sinh ra, đâu đâu cũng có, duy trừ cõi trời
Thủ-đà-hội. Giả sử Ta sanh cõi trời kia, thời đã không trở lại đây.
“Này các Tỳ-kheo,
khi ấy Ta lại nghĩ rằng: khi Ta muốn đến cõi trời Vô tạo, tức thì
trong khoảnh khắc như tráng sĩ co duỗi cánh tay, Ta biến mất ở đây mà
hiện ở kia. Chư Thiên lúc đó thấy ta đến, liền đảnh lễ, đứng lại một
bên, bạch với ta rằng: Chúng con đều là đệ tử Đức Phật Tỳ-bà-thi.
Chúng con nhờ sự giáo hóa của Ngài mà được sanh đến cõi này. Rồi họ kể
đủ nhân duyên gốc ngọn của Đức Phật Tỳ-bà-thi. Họ lại nói: Các Đức
Phật Thi-khí, Tỳ-xá-bà, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm, Ca-diếp, Thích-ca
Mâu-ni, thảy đều là Thầy của con. Con chịu sự giáo hóa ấy mà sinh ở
đây. Họ cũng nói nhân duyên bản mạt chư Phật. Cho đến chư Thiên ở cõi
trời A-ca-nị-trá, cũng kể với ta như thế “.”
Bấy giờ Phật nói
bài tụng:
Ví như lực sĩ,
Co duỗi cánh tay
Ta, bằng thần
thông,
Đến trời Vô tạo.
Đại Tiên thứ
bảy,
Hàng phục hai
ma,
Vô nhiệt vô kiến
Chắp tay kính
lễ.
Như cây trú đạc
Tiếng đồn Thích
Sư,
Tướng tốt đầy
đủ,
Đến trời Thiện
kiến.
Ví như hoa sen,
Không bị dính
nước.
Thế Tôn vô
nhiễm,
Đến Đại thiện
kiến.
Mặt trời mới
mọc,
Không chút bụi
che;
Sáng như trăng
thu,
Đến Nhất cứu
cánh.
Năm Tịnh cư này,
Chúng sanh hành
tịnh,
Tâm tịnh nên đến
Trời không phiền
não.
Tịnh tâm mà đến,
Làm đệ tử Phật.
Xả ly nhiễm thủ,
Vui nơi vô thủ,
Thấy pháp quyết
định,
Đệ tử Tỳ-bà-thi.
Tịnh tâm mà đến
Với Đại Tiên
Nhân.
Đệ tử Thi-khí
Vô cấu, vô vi.
Tịnh tâm mà đến
Với Đấng Ly Hữu.
Đệ tử Tỳ-xá,
Các căn đầy đủ.
Tịnh tâm đến Ta,
Như mặt trời
chiếu.
Con Câu-lưu-tôn,
Xả ly các dục.
Tịnh tâm đến Ta,
Sáng mầu rực
ánh.
Đệ tử
Câu-na-hàm,
Vô cấu vô vi.
Tịnh tâm đến Ta,
Sáng như trăng
đầy.
Đệ tử Ca-diếp,
Các căn đầy đủ.
Tịnh tâm đến Ta,
Như bắc thiên
niệm
Đại Tiên bất
loạn.
Thần túc bậc
nhất,
Bằng tâm kiên
cố,
Làm đệ tử Phật.
Tịnh tâm mà đến,
Làm đệ tử Phật;
Kính lễ Như Lai,
Kể rõ Chí Tôn,
Chỗ sinh, thành
đạo,
Danh tánh, chủng
tộc,
Tri kiến thâm
pháp,
Thành đạo Vô
thượng.
Tỳ-kheo nơi
vắng,
Xa lìa bụi dơ,
Siêng năng không
lười.
Đoạn chư hữu kết
Ầy là nhân
duyên,
Sự tích chư
Phật,
Mà được diễn
giải,
Bởi Đức
Thích-ca.
Phật nói kinh “Đại
nhân duyên" xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều Phật nói hoan hỷ phụng
hành.
- --o0o--
|
|