|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
-
KINH TRƯỜNG
A HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật
Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN II
-
9. KINH CHÚNG TẬP
-
-
Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời, Phật du hành ở
Mạt-la cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, rồi đi dần đến
thành Ba-bà, vườn Am-bà của Xà-đầu.
-
Bấy giờ, vào ngày mười lăm
lúc trăng tròn, Thế Tôn ngồi ở giữa khoảng đất trống với các Tỳ-kheo
vây quanh trước sau. Thế Tôn, sau khi đã thuyết pháp nhiều qua đêm,
nói với Xá-lợi-phất:
-
“Các Tỳ-kheo bốn phương tụ
tập về, thảy đều siêng năng, dẹp bỏ ngủ nghỉ. Nhưng Ta đau lưng, muốn
nghỉ một chút, ngươi nay hãy thuyết pháp cho các Tỳ-kheo”.
-
Xá-lợi-phất đáp:
-
“Kính vâng. Con sẽ làm theo
Thánh giáo”.”
-
Thế Tôn gấp tư y
Tăng-già-lê nằm nghiêng phía hữu như con sư tử, hai chân chồng lên
nhau.
-
Khi ấy Xá-lợi-phất nói với
các Tỳ-kheo:
-
“Nay trong thành Ba-bà này
có Ni-kiền Tử mạng chung chưa bao lâu, nhưng các đệ tử chia ra làm hai
bộ, luôn luôn tranh chấp nhau, tìm sở trường và sở đoản của nhau, mắng
nhiếc nhau, thị phi với nhau rằng: Ta biết pháp này. Ngươi không biết
pháp này. Ngươi theo tà kiến. Ta theo chánh kiến. Ngươi nói năng hỗn
loạn, chẳng có trước sau, tự cho điều mình nói là chân chính. Lập ngôn
của ta thắng. Lập ngôn của ngươi bại. Nay ta làm chủ cuộc đàm luận,
ngươi có điều muốn hỏi thì đến hỏi ta.
-
“Này các Tỳ-kheo, lúc bấy
giờ nhân dân trong nước những ai theo Ni-kiền Tử đều chán ghét những
tiếng cãi vã của bọn này. Đó là vì pháp ấy không chân chính. Pháp
không chân chính thì không có con đường xuất ly. Ví như ngôi tháp đã
đổ thì không còn đổ nữa. Đó không phải là điều mà Đấng Chánh Giác đã
dạy.
-
“Các Tỳ-kheo, duy chỉ Pháp
vô thượng tôn của Đức Thích- cCa Ta là chân chánh mới có thể có con
đường xuất ly. Cũng như ngôi tháp mới có thể được dễ dàng trang hoàng.
Vì đó là điều mà Đấng Chánh Giác giảng dạy.
-
“Các Tỳ-kheo, hôm nay chúng
ta cần phải kiết tập pháp luật để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho
phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đông, cho chư Thiên và
nhân loại được an lạc.
-
“Như Lai nói một chánh
pháp: hết thảy chúng sanh đều do thức ăn mà tồn tại.
-
“Như Lai lại nói một chánh
pháp: tất cả chúng sanh đều do các hành mà tồn tại.
-
“Đó là một pháp đã được Như
Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi,
khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đông, cho chư
Thiên và nhân loại được an lạc.
-
“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói
hai chánh pháp: một là danh, hai là sắc.
-
“Lại có hai pháp: một là
si, hai là ái.
-
“Lại có hai pháp: hữu kiến
và vô kiến.
-
“Lại có hai pháp: không
biết tàm và không biết quý.
-
“Lại có hai pháp: có tàm và
có quý.
-
“Lại có hai pháp: tận trí
và vô sanh trí.
-
“Lại có hai pháp, hai nhân
hai duyên sanh ra ái dục: một, sắc tịnh diệu; hai, không tư duy.
-
“Lại có hai pháp, hai nhân,
hai duyên sanh nơi sân nhuế: thù ghét và không tư duy.
-
“Lại có hai pháp, hai nhân,
hai duyên sanh nơi tà kiến: nghe từ người khác và tà tư duy.
-
“Lại có hai pháp, hai nhân,
hai duyên sanh nơi chánh kiến: nghe từ người khác và chánh tư duy.
-
“Lại có hai pháp, hai nhân,
hai duyên: giải thoát hữu học và giải thoát vô học.
-
“Lại có hai pháp hai nhân,
hai duyên: hữu vi giới và vô vi giới.
-
“Các Tỳ-kheo, đó là hai
pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn
ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho
số đông, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc.
-
“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói
ba pháp, tức là ba bất thiện căn: tham dục, sân nhuế và ngu si.
-
“Lại có ba pháp, tức là ba
thiện căn: không tham, không nhuế và không si.
-
“Lại có ba pháp, tức là ba
bất thiện hành: thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện và ý hành bất
thiện.
-
“Lại có ba pháp, tức là ba
bất thiện hành: bất thiện hành của thân, bất thiện hành của khẩu và
bất thiện hành của ý.
-
“Lại nữa, có ba pháp, tức
là ba ác hành: ác hành của thân, ác hành của khẩu và ác hành của ý.
-
“Lại có ba pháp, tức là ba
thiện hành: thiện hành của thân, thiện hành của khẩu và thiện hành của
ý.
-
“Lại có ba pháp, tức là ba
tưởng bất thiện: dục tưởng, sân tưởng và hại tưởng.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
tưởng thiện: vô dục tưởng, vô sân tưởng và vô hại tưởng.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
tư bất thiện: dục tư, nhuế tư và hại tư
-
“Lại có ba pháp tức là ba
tư thiện: vô dục tư, vô nhuế tư và vô hại tư.
-
“Lại có ba loại phước
nghiệp: nghiệp bố thí, nghiệp bình đẳng và nghiệp tư duy.
-
“Lại có ba pháp, tức là ba
thọ: lạc thọ, khổ thọ và phi khổ phi lạc thọ.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
ái: dục ái, hữu ái, vô hữu ái.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
hữu lậu: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.
-
“Lại có ba pháp, tức là ba
thứ lửa: lửa dục, lửa sân và lửa si.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
cầu:: dục cầu, hữu cầu và phạm hạnh cầu.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
tăng thịnh: ngã tăng thịnh, thế tăng thịnh và pháp tăng thịnh.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
giới: dục giới, sân giới và hại giới.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
giới: xuất ly giới, vô sân giới và vô hại giới.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
giới: sắc giới, vô sắc giới, tận giới.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
tụ: giới tụ, định tụ và huệ tụ.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
giới: tăng thịnh giới (cấm), tăng thịnh ý, tăng thịnh tuệ.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
tam muộitam-muội: không tam muộitam-muội, vô nguyện tam muộitam-muội
và vô tướng tam muộitam-muội.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
tướng: chỉ tức tướng, tinh cần tướng và xả tướng.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
minh: tự thức túc mạng trí minh, thiên nhãn trí minh và lậu tận trí
minh.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
biến hóa: thần túc biến hóa, biết tâm người mà tùy ý thuyết pháp và
giáo giới.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
căn bổn dục sinh: do hiện dục hiện tiền sinh trời người, do hóa dục
sinh trời Hóa tự tại, do tha hóa dục sinh trời Tha hóa tự tại.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
lạc sinh::
-
“1./ Chúng sanh tự nhiên
thành biện sanh hoan hỷ tâm như trời Phạm quang âm vào lúc mới sinh.
-
“2. Có chúng sanh lấy niệm
làm an vui tự xướng lành thay như trời Quang âm.
-
“3./ Lạc do được chỉ tức
như trời Biến tịnh.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
khổ: dục khổ, hành khổ và biến dịch khổ.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
căn: vị tri dục tri căn, tri căn, tri dĩ căn.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
đường: Hiền thánh đường, thiên đường, phạm đường.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
sự phát hiện: phát hiện do thấy, phát hiện do nghe và phát hiện do
nghi.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
luận: Quá khứ có sự như thế, có luận như thế. Vị lai có sự như thế, có
luận như thế. Hiện tại có sự như thế có luận như thế.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
tụ: chánh định tụ, tà định tụ và bất định tụ.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
ưu: thân ưu, khẩu ưu và ý ưu.
-
“Lại có ba pháp tức ba
trưởng lão: trưởng lão do tuổi tác, trưởng lão do pháp và trưởng lão
do tác thành,.
-
“Lại có ba pháp tức là ba
con mắt: con mắt thịt, con mắt trời và con mắt tuệ.
-
“Các Tỳ-kheo, đó là ba pháp
đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự
tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số
đông, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc.
-
“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói
bốn pháp, tức là bốn ác hành do miệng:
-
“1. Nói dối.
-
“2. Hai lưỡi.
-
“3. Ác khẩu.
-
“4. Ỷ ngữ.
-
“Lại có bốn pháp, tức là
bốn thiện hành của miệng:
-
“1. Nói sự thật.
-
“2. Nói dịu dàng.
-
“3. Không ỷ ngữ.
-
“4. Không hai lưỡi.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
phi Thánh ngôn:
-
“1. Không thấy nói thấy.
-
“2. Không nghe nói nghe.
-
“3. Không cảm thấy nói cảm
thấy.
-
“4. Không biết nói biết.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
Thánh ngôn:
-
“1. Thấy nói thấy.
-
“2. Nghe nói nghe.
-
“3. Hay nói hay.
-
“4. Biết nói biết.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
thức ăn:
-
“1. Thức ăn vo nắm.
-
“2. Thức ăn bởi xúc.
-
“3. Thức ăn bởi niệm.
-
“4. Thức ăn bởi thức.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
thọọ:
-
“1. Khổ hành trong hiện tại
thọ khổ báo về sau.
-
“2. Khổ hành hiện tại thọ
lạc báo về sau.
-
“3. Lạc hành hiện tại thọ
khổ báo về sau.
-
“4. Lạc hành hiện tại thọ
lạc báo về sau.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
thọ::
-
“1. Dục thọ.
-
“2. Ngã thọ.
-
“3. Giới thọ.
-
“4. Kiến thọ.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
phược:
-
“1. Thân phược bởi dục
tham.
-
“2. Thân phược bởi sân
nhuế.
-
“3. Thân phược bởi giới
đạo.
-
“4. Thân phược bởi ngã
kiến.
-
“Lại có bốn pháp, tức bốn
gai nhọn:
-
“1. Gai nhọn dục.
-
“2. Gai nhọn nhuế.
-
“3. Gai nhọn kiến.
-
“4. Gai nhọn mạn.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
sanh:
-
“1. Sanh từ trứng.
-
“2. Sanh từ bào thai.
-
“3. Sanh do ẩm thấp.
-
“4. Sanh do biến hóa.
-
“Lại có bốn pháp tức Bốn
niệm xứ:
-
“1. Ở đây, Tỳ-kheo quán
thân trên nội thân tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ
bỏ tham ưu ở đời; quán thân trên ngoại thân tinh cần không biếng nhác,
ức niệm không quên, trừ bỏ tham ưu ở đời; quán thân trên nội ngoại
thân tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ bỏ tham ưu ở
đời.
-
“2. Quán thọ.
-
“3. Quán ý.
-
“4. Quán pháp, cũng vậy.
-
“Lại có bốn pháp tức là Bốn
ý đoạn:
-
“: 1. Ở đây Tỳ-kheo ác pháp
chưa khởi, phương tiện khiến không khởi.
-
“2. ÁÁc pháp đã khởi phương
tiện khiến diệt.
-
“3. Thiện pháp chưa khởi
pháp, phương tiện khiến khởi.
-
“4. Thiện pháp đã khởi
phương tiện khiến tăng trưởng.
-
“Lại có bốn pháp tức là Bốn
thần túc:
-
“1. Ở đây Tỳ-kheo tư duy
dục định diệt hành thành tựu.
-
“2. Tinh tấn định.
-
“3. Ý định.
-
“4. Tư duy định cũng vậy.
-
“Lại có bốn pháp tức là Bốn
thiền:
-
“1. Ở đây, Tỳ-kheo trừ dục,
ác bất thiện pháp, có giác có quán, hỷ lạc phát sanh do viễn ly, nhập
Sơ thiền.
-
“2. Diệt giác và quán, nội
tịnh nhất tâm, không giác không quán, có hỷ lạc do định sanh, nhập đệ
Nhị thiền.
-
“3. Lìa hỷ tu xả, niệm
tiến, tự giác thân lạc, có lạc và xả niệm, mà bậc Thánh tìm cầu, nhập
đệ Tam thiền.
-
“4. Lìa các hạnh khổ và
lạc, hỷ và ưu đã diệt từ trước không khổ không lạc xả niệm thanh tịnh,
nhập đệ Tứ thiền.
-
“Lại có bốn pháp tức là Bốn
phạm đường: Từ, Bi, Hỷ và Xả.
-
“Lại có bốn pháp tức là Bốn
vô sắc định:
-
“1. Ở đây, Tỳ-kheo siêu
việt hết thảy sắc tưởng, sân tưởng đã diệt từ trước, không niệm các
tưởng khác, tư duy vô lượng không xứ.
-
“2. Sau khi xả không xứ,
nhập thức xứ.
-
“3. Sau khi xả thức xứ nhập
vô hữu xứ.
-
“4. Sau khi xả vô hữu xứ
nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ.
-
“Lại có bốn pháp
tức là bốn pháp túc:: Pháp túc không tham, pháp túc không sân, pháp
túc chánh niệm và pháp túc chánh định.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
dòng dõi Hiền thánh:
-
“: 1. Ở đây, Tỳ-kheo tri
túc về y thực, được thứ tốt không mừng, được cái xấu không buồn; không
nhiễm không trước, biết điều cấm kỵ, biết con đường xuất yếu; ở trong
pháp này tinh cần không biếng nhác; thành tựu sự ấy không khuyết không
giảm và cũng dạy người thành tựu sự ấy. Đó là thứ nhất; tri túc, an
trú trong sự truyền thừa của Hiền thánh, từ xưa đến nay chưa thường
não loạn. Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Trời và Người không
ai có thể chê trách.
-
“2. Thức ăn.
-
“3. Vật dụng nằm ngồi.
-
“4. Thuốc thang trị bệnh,
tất cả đều cũng tri túc như thế.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
-
“Lại có bốn pháp, tức là
bốn chi của Tu-đà-hoàn: Tỳ-kheo thành tựu tín tâm bất hoại đối với
Phật, đối với Pháp, đối với Tăng và đối với giới.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
thọ chứng:
-
“1. Thọ chứng do thấy sắc.
-
“2. Thọ chứng do thân hoại
diệt.
-
“3. Thọ chứng do nhớ về túc
mạng.
-
“4. Thọ chứng do biết hữu
lậu đã bị diệt tận.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
đạo: khổ đắc chậm, khổ đắc nhanh, lạc đắc chậm và lạc đắc nhanh.
-
“Lại có bốn pháp tức là Bốn
thánh đế: Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế, Khổ xuất
yếu thánh đế.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
Sa-môn quả: Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm quả, A-la-hán quả.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
xứ: thật xứ, thí xứ, trí xứ, chỉ tức xứ..
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
trí: pháp trí, vị tri trí, đẳng trí và tha tâm trí.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
biện tài: pháp biện tài, nghĩa biện tài, từ biện tài, ứng thuyết biện
tài.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
trú xứ của thức: sắc là trú xứ của thức, duyên sắc mà trú, sắc và ái
cùng tăng trưởng. Thọ, tưởng, hành, cũng đều như vậy.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
ách: dục là ách, hữu là ách, kiến là ách, vô minh là ách.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
vô ách: vô dục ách, vô hữu ách, vô kiến ách, vô minh ách.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
tịnh: giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh và độ nghi tịnh.
-
“Lại nữa có bốn pháp tức là
bốn sự biết: đáng thọ biết thọ, đáng hành biết hành, đáng lạc biết
lạc, đáng xả biết xả.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
oai nghi: đáng đi biết đi, đáng đứng biết đứng, đáng ngồi biết ngồi,
đáng nằm biết nằm.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
tư duy: tư duy ít, tư duy rộng, tư duy vô lượng, không tư duy gì cả.
-
“Lại có bốn pháp tức là bốn
ký luận:: quyết định ký luận, phân biệt ký luận, cật vấn ký luận, chỉ
trúừ ký luận.
-
“Lại có bốn tức là bốn pháp
không cần phòng hộ của Phật:
-
“1. Như Lai thân hành thanh
tịnh, không khiếm khuyết, không rò rỉ; có thể tự phòng hộ.
-
“2. Khẩu hành thanh tịnh.
-
“3. Ý hành thanh tịnh..
-
“4. Mạng hành thanh tịnh
cũng đều như vậy.
-
“Các Tỳ-kheo, đó là bốn
pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn
ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho
số đông cho chư Thiên và nhân loại được an lạc.
-
“Như Lai nói năm chánh
pháp, tức là năm nhập: mắt, sắc; tai, tiếng; mũi, hương; lưỡi, vị;
thân, xúc.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
thọ ấm: sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn.
-
“Lại có năm pháp, tức là
năm cái: tham dục cái, sân nhuế cái, thùy miên cái, trạo cử cái, nghi
cái.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
hạ phần kết: thân kiến, giới đạo, nghi, tham dục và sân nhuế.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
thuận thượng phần kết: sắc ái, vô sắc ái, vô minh, mạn, trạo hối.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
căn: tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
lực: tín, tấn, niệm, định, tuệ.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
diệt tận chi::
-
“1. Tỳ-kheo tin Phật, Như
Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười hiệu thành tựu.
-
“2. Tỳ-kheo không bệnh,
thân thường an ổn.
-
“3. Chất trực, không dua
xiểm. Được như thế thì Như Lai chỉ bày con đường đi đến Niết-bàn .
-
“4. Tự chuyên tâm không để
thác loạn. Những điều đã tụng đọc từ trước ghi nhớ không quên.
-
“5. Khéo quán sát sự sinh
và diệt của các pháp bằng sự thực hiện của Hiền thánh mà diệt tận gốc
rễ của khổ.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
sự phát ngôn:: phát phi thời, phát hư dối, phát phi nghĩa, phát hư
ngôn, phát không từ tâm.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
thiện phát: phát đúng thời, phát sự thật, phát có nghĩa, phát lời nói
hòa, phát khởi Từ tâm.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
sự tật đố: tật đốó về trú xứ, tật đố về thí chủ, tật đố về lợi dưỡng,
tật đố về sắc, tật đố về pháp.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
thú hướng giải thoát: tưởng về thân bất tịnh, tưởng về thức ăn bất
tịnh, tưởng hết thảy các hành vô thường, tưởng hết thảy thế gian không
đáng vui, tưởng về sự chết.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
xuất ly giới:
-
“1. Tỳ-kheo đối với dục
không hoan hỷ, bất động, cũng không thân cận, mà chỉ niệm sự thoát ly,
hoan hỷ nơi sự viễn ly, thân cận không giải đãi, tâm mềm mại, xuất ly,
ly dục. Vị ấy đối với các lậu triền do nhân dục mà khởi, cũng dứt
sạch, xả ly diệt trừ mà được giải thoát. Đó gọi là dục thoát ly.
-
“2. Sân nhuế xuất ly.
-
“3. Tật đố xuất ly.
-
“4. Sắc xuất ly.
-
“5. Thân kiến xuất ly cũng
vậy.
-
“Lại có năm pháp tức năm hỷ
giải thoát nhập. Nếu Tỳ-kheo tinh cần không biếng nhác, ưa ở nơi nhàn
tĩnh, chuyên niệm nhất tâm, chưa giải thoát thì được giải thoát, chưa
an thì được an. Những gì là năm?
-
“1. Ở đây Tỳ-kheo nghe Như
Lai thuyết pháp, hoặc nghe đồng phạm hạnh thuyết pháp, hoặc nghe sư
trưởng thuyết pháp, tư duy, quán sát, phân biệt pháp nghĩa, tâm đắc
hoan hỷ. Sau khi được hoan hỷ thì được pháp ái, sau khi được pháp ái
thân tâm an ổn, sau khi thân tâm an ổn thì chứng đắc thiền định. Đắc
thiền định rồi, đắc như thật kiến. Đó là giải thoát xứ thứ nhất.
-
“2. Ở đây, Tỳ-kheo sau khi
nghe pháp hoan hỷ.
-
“3. Thọ trì đọc tụng cũng
lại hoan hỷ.
-
“4. Thuyết cho người khác
cũng lại hoan hỷ.
-
“5. Tư duy phân biệt cũng
lại hoan hỷ, ở nơi pháp mà đắc định cũng như vậy.
-
“Lại có năm pháp tức là năm
hạng người: Trung Bát-niết-bàn, Sanh Bát-niết-bàn, Vô hành
Bát-niết-bàn, Hữu hành Bát-niết-bàn, Thượng lưu sắc cứu cánh.
-
“Các Tỳ-kheo, đó là năm
chánh pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để
ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi
ích cho số đông cho chư Thiên và nhân loại được an lạc.
-
“Lại nữa, các Tỳ-kheo, Như
Lai nói sáu chánh pháp tức là sáu nội nhập: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý.
-
“Lại có sáu pháp tức là sáu
ngoại nhập: sắc, tiếng, hương, vị, xúc, pháp.
-
“Lại có sáu pháp tức là sáu
thức thân: nhãn thức thân, nhĩ thức thân, tỷ thức thân, thiệt thức
thân, thân thức thân, ý thức thân.
-
“Lại nữa có sáu pháp tức là
sáu xúc thân: nhãn xúc thân, nhĩ xúc thân, tỷ xúc thân, thiệt xúc
thân, thân xúc thân, ý xúc thân.
-
“Lại có sáu pháp tức là sáu
thọ thân: nhãn thọ thân, nhĩ thọ thân, tỷ thọ thân, thiệt thọ thân,
thân thọ thân, ý thọ thân.
-
“Lại có sáu pháp tức là sáu
tưởng thân: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tưởng thân.
-
“Lại có sáu pháp tức sáu tư
thân: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tư thân.
-
“Lại có sáu pháp tức là sáu
ái thân: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ái thân.
-
“Lại có sáu pháp tức là gốc
rễ tranh cãi::
-
“1. Nếu Tỳ-kheo ưa sân
không bỏ, không kính Như Lai, cũng không kính Pháp, cũng không kính
chúng Tăng, ở nơi giới có lọt có rỉ, nhiễm ô bất tịnh, ở trong chúng
ưa gây tranh cãi mà ai cũng ghét, tranh chấp nhiễu loạn, trời và người
bất an. Các Tỳ-kheo, các ngươi hãy tự mình quán sát bên trong, giả sử
có sự sân hận như kẻ nhiễu loạn kia, hãy tập hợp hòa hợp chúng, rộng
đặt phương tiện, nhổ sạch gốc rễ tranh cãi ấy. Các ngươi lại hãy
chuyên niệm, tự quán sát. Nếu kết hận đã diệt lại hãy thêm phương tiện
ngăn cản tâm ấy không để sinh khởi trở lại.
-
“2. Các Tỳ-kheo ngoan cố
không chịu nghe.
-
“3. Xan tham tật đố.
-
“4. Xảo ngụy hư vọng.
-
“5. Cố chấp kiến giải của
mình không chịu bỏ.
-
“6. Nghe lầm nơi tà kiến
cùng với biên kiến cũng như vậy.
-
“Lại có sáu pháp tức là sáu
giới: địa giới, hỏa giới, thủy giới, phong giới, không giới, thức
giới.
-
“Lại có sáu pháp tức là sáu
sát hành:: con mắt sát hành sắc, tai đối với tiếng, mũi đối với hương,
lưỡi đối với vị, thân đối với xúc, ý đối với pháp.
-
“Lại có sáu pháp tức là sáu
xuất ly giới:
-
“1. Nếu Tỳ-kheo nói như
vầy: Tôi tu Từ tâm nhưng lại tâm sanh sân nhuế. Các Tỳ-kheo khác bảo:
Ngươi chớ nói như vậy. Chớ báng bổ Như Lai. Như Lai không nói như vậy:
muốn khiến tu từ giải thoát mà sanh sân nhuế tưởng, không có trường
hợp ấy. Phật nói: trừ sân nhuế rồi sau mới đắc từ.
-
“2. Nếu Tỳ-kheo nói: Tôi
thực hành bi giải thoát nhưng tâm sanh tật đố.
-
“3. Thực hành hỷ giải thoát
nhưng sanh tâm ưu não.
-
“4. Thực hành xả giải thoát
nhưng sanh tâm yêu ghét.
-
“5. Thực hành vô ngã nhưng
sanh tâm hồ nghi.
-
“6. Thực hành vô tưởng
nhưng sanh tâm loạn tưởng; cũng giống như vậy.
-
“Lại có sáu pháp tức là sáu
vô thượng: kiến vô thượng, văn vô thượng, lợi dưỡng vô thượng, giới vô
thượng, cung kính vô thượng, ức niệm vô thượng.
-
“Lại có sáu pháp tức là sáu
tư niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm
thiên.
-
“Các Tỳ-kheo, đó là sáu
pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn
ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho
số đông, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc..
-
“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói
bảy chánh pháp, tức là bảy phi pháp: không có tín, không có tàm, không
có quý, ít học hỏi, biếng nhác, hay quên, vô trí.
-
“Lại có bảy pháp tức là bảy
chánh pháp: có tín, có tàm, có quý, đa văn, tinh tấn, tổng trì, đa
trí.
-
“Lại có bảy pháp tức là bảy
thức trụ:
-
“1. Hoặc có chúng sanh với
thân sai biệt, với tưởng sai biệt, tức là chư Thiên và loài người đó
là trú xứ thứ nhất của thức.
-
“2. Hoặc có chúng sanh với
nhiều thân khác nhau nhưng chỉ một tưởng, đó là trời Phạm quang âm,
lúc đầu tiên mới thọ sinh. Đó là trú xứ thứ hai của thức.
-
“3. Hoặc có chúng sanh với
một thân nhưng nhiều tưởng sai biệt tức là trời Quang âm. Đó là trú xứ
thứ ba của thức.
-
“4. Hoặc có chúng sanh với
một thân và một tưởng đó là trời Biến tịnh. Đó là trú xứ thứ tư của
thức.
-
“5. Hoặc có chúng sanh trú
ở không xứ.
-
“6. Trú ở thức xứ.
-
“7. Trú ở vô hữu xứ.
-
“Lại có bảy pháp tức là bảy
tinh cần:
-
“1. Tỳ-kheo tinh cần nơi sự
thực hành giới.
-
“2. Tinh cần diệt tham dục.
-
“3. Tinh cần phá tà kiến.
-
“4. Tinh cần nơi đa văn.
-
“5. Tinh cần nơi tinh tấn.
-
“6. Tinh cần nơi chánh
niệm.
-
“7. Tinh cần nơi thiền
định.
-
“Lại có bảy pháp tức là bảy
tưởng: tưởng về thân bất tịnh, tưởng về thức ăn bất tịnh, tưởng về hết
thảy thế gian không đáng ưa thích, tưởng về sự chết, tưởng về vô
thường, tưởng về vô thường là khổ, tưởng về khổ là vô ngã.
-
“Lại có bảy pháp tức là bảy
tam muộitam-muội thành tựu: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm.
-
“Lại có bảy pháp tức là bảy
giác chi: niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ
giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, tuệ xả giác chi.
-
“Các Tỳ-kheo, đó là bảy
pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn
ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho
số đông, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc.
-
“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói
tám chánh pháp tức là tám pháp ở đời: đắc, thất, vinh, nhục, khen,
chê, lạc và khổ.
-
“Lại có tám pháp tức là tám
giải thoát:
-
“1. Sắc quán sắc giải
thoát.
-
“2. Nội không sắc tưởng
quán ngoại sắc giải thoát.
-
“3. Tịnh giải thoát.
-
“4. Vượt quá sắc tưởng,
diệt sân nhuế tưởng, an trú Hư không xứ giải thoát.
-
“5. Vượt Hư không xứ an trú
Hư không xứ giải thoát.
-
“6. Vượt Thức xứ an trú Vô
hữu xứ giải thoát.
-
“7. Vượt Vô sở hữu xứ an
trú Phi phi tưởng xứ giải thoát.,
-
“8. Vượt Phi tưởng phi phi
tưởỏng xứ, an trú Diệt tận định giải thoát.
-
“Lại có tám pháp tức là Tám
thánh đạo: chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định.
-
“Lại có tám pháp tức tám
nhân cách: Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả; Tư-đà-hàm hướng,
Tư-đà-hàm quả; A-na-hàm hướng, A-na-hàm quả; A-la-hán hướng, A-la-hán
quả.
-
“Các Tỳ-kheo, đó là tám
pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn
ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài, làm lợi ích
cho số đông cho chư Thiên và nhân loại được an lạc.
-
“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói
chín chánh pháp, tức là chín chúng sanh cư:
-
“1. Hoặc có chúng sanh có
nhiều thân khác nhau, với nhiều tưởng khác nhau, tức là chư Thiên và
loài người. Đó là nơi cư trú thứ nhất của chúng sanh.
-
“2. Lại có chúng sanh có
nhiều thân khác nhau, nhưng với một tưởng giống nhau, tức là trời Phạm
quang âm lúc mới sanh. Đó là cư trú thứ hai của chúng sanh.
-
“3. Lại có chúng sanh với
một thân giống nhau, nhưng với nhiều tưởng khác nhau, tức là trời
Quang âm. Đó là cư trú thứ ba của chúng sanh.
-
“4. Lại có chúng sanh với
một thân một tưởng giống nhau, tức là trời Biến tịnh. Đó là cư trú thứ
tư của chúng sanh.
-
“5. Lại có chúng sanh không
có tưởng và không có giác tri, tức là trời Vô tưởng. Đó là cư trú thứ
năm của chúng sanh.
-
“6. Lại có chúng sanh an
trú hư không xứ. Đó là cư trú thứ sáu của chúng sanh.
-
“7. Lại có chúng sanh an
trú thức xứ. Đó là cư trú thứ bảy của chúng sanh.
-
“8. Lại có chúng sanh an
trú vô sở hữu xứ. Đó là cư trú thứ tám của chúng sanh.
-
“9. Lại có chúng sanh an
trú phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là cư trú thứ chín của chúng sanh.
-
“Các Tỳ-kheo, đó là chín
pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn
ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài, làm lợi ích
cho số đông, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc.
-
“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói
mười chánh pháp, tức là mười pháp vô học: vô học chánh kiến, vô học
chánh tư duy, vô học chánh ngữ, vô học chánh nghiệp, vô học chánh
mạng, vô học chánh niệm, vô học chánh phương tiện, vô học chánh định,
vô học chánh trí, vô học chánh giải thoát.
-
“Các Tỳ-kheo, đó là mười
pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn
ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài, làm lợi ích
cho số đông, cho chư Thiên và nhân loại được an lạc.”
-
Bấy giờ, Thế Tôn ấn khả
những điều Xá-lợi-phất đã nói. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều
Xá-lợi-phất đã nói, hoan hỷ phụng hành.
|
|