|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
-
KINH TRƯỜNG
A HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật
Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
- PHẦN II
-
14. THÍCH ĐỀ-HOÀN NHẤN VẦN
-
-
Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở tại nước
Ma-kiệt-đà, trong hang Nhân-đà-bà-la, núi Tỳ-la, phía Bắc thôn
Am-bà-la.
-
Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân
phát khởi thiện tâm vi diệu, muốn đến thăm Phật: “Nay ta hãy đi đến
chỗ Thế Tôn”.
-
Khi ấy, chư Thiên Đao-lợi
hay rằng Thích Đề-hoàn Nhân phát khởi thiện tâm vi diệu muốn đi đến
đến chỗ Phật, bèn tìm gặp Đế Thích, tâu rằng:
-
“Lành thay, Đế Thích! Ngài
phát khởi thiện tâm vi diệu muốn đến Như Lai. Chúng tôi cũng rất vui
sướng nếu được theo hầu ngài đi đến chỗ Thế Tôn”.”
-
Thích Đề-hoàn Nhân liền nói
với thần chấp nhạc là Ban-giá-dực rằng:
-
“Ta nay muốn đi đến chỗ Thế
Tôn. Ngươi có thể đi theo. Chư Thiên Đao-lợi này cũng muốn theo ta đến
chỗ Phật”.”
-
Đáp: “Thưa vâng”.
-
Rồi Ban-giá-dực cầm cây đàn
lưu ly, ở trong chúng, trước mặt Đế Thích, gảãy đàn cúng dường.
-
Rồi Thích Đề-hoàn Nhân, chư
Thiên Đao-lợi, cùng Ban-giá-dực, bỗng nhiên biến mất khỏi PPháp đường.
Trong khoảnh khắc như lực sĩ co duỗi cánh tay họ đến phía Bắc nước
Ma-kiệt-đà, trong núi Tỳ-đà.
-
Bấy giờ Thế Tôn nhập hỏa
diệm tam muộitam-muội, khiến cho cả núi Tỳ-đà đồng một màu lửa. Khi
ấy, người trong nước thấy vậy, bảo nhau rằng:
-
“Núi Tỳ-đà này đồng một màu
lửa. Phải chăng là do thần lực của chư Thiên?”
-
Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân
nói với Ban-giá-dực rằng:
-
“Đức Như Lai, Chí Chân, rất
khó được gặp. Nhưng nay có thể rũ lòng đi xuống chỗ thanh vắng này,
lặng lẽ không tiếng động, làm bạn với muông thú. Chỗ này thường có các
Đại Thiên thần thị vệ Thế Tôn. Ngươi hãy đi trước tấu đàn lưu ly để
làm vui lòng Thế Tôn. Ta cùng chư Thiên sẽ đến sau”.”
-
Đáp: “Kính vâng”.
-
Tức thì cầm đàn lưu ly đến
Phật trước. Cách Phật không xa, ông tấu đàn lưu ly và hát lên bài kệ
rằng:
-
Bạt-đà ơi, kính lễ phụ thân
nàng.
-
Cha nàng đẹp rực rỡ,
-
Sinh ra nàng cát tường
-
Tâm ta rất thương yêu.
-
Vốn do nhân duyên nhỏ,
-
Dục tâm sinh trong đó;
-
Càng ngày càng lớn thêm.
-
Như cúng dường La La-hán ;
-
Thích tử chuyên Tứ thiền,
-
Thường ưa chốn thanh vắng,
-
Chánh ý cầu cam lồ;
-
Tâm niệm ta cũng vậy.
-
Năng Nhân phát đạo tâm,
-
Tất muốn thành Chánh giác;
-
Như tôi nay cũng vậy,
-
Ước hội họp với nàng.
-
Tâm tôi đã đắm đuối,
-
Yêu thương không dứt được;
-
Muốn bỏ, không thể bỏ,
-
Như voi bị móc câu.
-
Như nóng gặp gió mát;
-
Như khát gặp suối lạnh;
-
Như người nhập Niết-bàn;
-
Như nước rưới tắt lửa;
-
Như bệnh, gặp lương y;
-
Đói, gặp thức ăn ngon,
-
No đủ, khoái lạc sanh;
-
Như La- hán trú Pháp.
-
Như voi bị kềm chặt,
-
Mà vẫn chưa khứng phục,
-
Bươn chạy, khó chế ngự,
-
Buông lung chẳng chịu dừng.
-
Cũng như ao trong mát,
-
Mặt nước phủ đầy hoa;
-
Voi mệt, nóng, vào tắm,
-
Toàn thân cảm mát rượi.
-
Trước, sau, tôi bố thí,
-
Cúng dường các La- hán;
-
Phước báo có trong đời;
-
Thảy mong được cùng nàng.
-
Nàng chết, tôi cùng chết;
-
Không nàng, sống làm gì?
-
Chẳng thà tôi chết đi,
-
Còn hơn sống không nàng.
-
Chúa tể trời Đao-lợi,
-
Thích chúa, cho tôi nguyện.
-
Tôi ngợi ca đủ lễ.
-
Xin người suy xét kỹ.
-
Khi ấy, Thế Tôn từ tam-muội
dậy, nói với Ban-giá-dực rằng:
-
“Lành thay, lành thay,
Ban-giá-dực, ngươi đã có thể bằng âm thanh thanh tịnh cùng với đàn lưu
ly mà tán thán Như Lai. Tiếng của đàn và giọng của ngươi không dài,
không ngắn, buồn và thương uyển chuyển, làm rung động lòng người. Cây
đàn mà ngươi tấu hàm đủ các ý nghĩa. Nó được nói là sự trói buộc của
dục và cũng được nói là phạm hạnh, cũng được nói là Sa-môn, cũng được
nói là Niết-bàn”.”
-
Khi ấy Ban-giá-dực bạch
Phật rằng:
-
“Con nhớ lại, thuở xưa khi
Thế Tôn vừa mới thành đạo dưới gốc cây A-du-ba-đà ni-câu-luật, bên
dòng sông Ni-liên-thiền, thôn Uất-bệ-la ; lúc ấy có người con trai của
Thiên đại tướng là Thi-hán-đà và con gái của Chấp nhạc Thiên vương
đang cùng ở một chỗ, chỉ tổ chức những cuộc vui chơi. Con khi ấy thấy
được tâm tư họ, bèn làm một bài tụng. Bài tụng ấy nói đến sự trói buộc
của dục; và cũng nói đến phạm hạnh, cũng nói Sa-môn, cũng nói
Niết-bàn. Vị Thiên nữ kia khi nghe bài kệ của con, đưa mắt lên cười và
nói với con rằng: Ban-giá-dực, tôi chưa hề thấy Như Lai. Tôi ở trên
Pháp đường của trời Đao-lợi đã từng nghe chư Thiên xưng tán Như Lai,
có công đức như vậy, năng lực như vậy. Ông hằng có lòng thành tín,
thân cận Như Lai. Nay tôi muốn cùng ông làm bạn. Thế Tôn, con lúc ấy
có nói với nàng một lời, rồi sau đó không hề nói với nàng nữa”.”
-
Lúc bấy giờ Thích Đề-hoàn
Nhân suy nghĩ như vầy: “Ban-giá-dực này đã làm vui lòng Thế Tôn rồi,
nay ta hãy nghĩ đến người ấy”. Rồi Thiên Đế Thích tức thì nghĩ đến
người ấy. Lúc ấy Ban-giá-dực lại có ý nghĩ như vầy: “Thiên Đế Thích
đang nghĩ đến ta”. Tức thì cầm cây đàn lưu ly đi đến chỗ Đế Thích. Đế
Thích bảo rằng:
-
“Ngươi mang danh ta cùng ý
của trời Đao-lợi đến thăm hỏi Thế Tôn: Đi đứng có nhẹ nhàng không? Lui
tới có khỏe mạnh không?”
-
Ban-giá-dực vâng lời chỉ
giáo của Đế Thích, đi đến chỗ Thế Tôn, đầu mặt lễ chân Phật, rồi đứng
sang một bên, bạch Thế Tôn rằng:
-
“Thích Đề-hoàn Nhân và chư
Thiên Đao-lợi sai con đến thăm Thế Tôn, hỏi Ngài đi đứng có nhẹ nhàng
không? Lui tới có khỏe mạnh không?”
-
Thế Tôn trả lời:
-
“Mong Đế Thích của ngươi và
chư Thiên Đao-lợi thọ mạng lâu dài, khoái lạc, không bệnh. Sở dĩ như
vậy là vì chư Thiên, Người đời, A-tu-luân và các chúng sanh khác đều
ham sống lâu, an lạc, không bệnh hoạn”.”
-
Bấy giờ Đế Thích lại suy
nghĩ: “Chúng ta nên đến lễ viếng Thế Tôn”. Tức thì cùng với chư Thiên
Đao-lợi đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi đứng sang một bên.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật rằng:
-
“Không biết nay con có thể
ngồi cách Thế Tôn bao xa?”
-
Phật bảo Đế Thích:
-
“Thiên chúng các ngươi
nhiều. Nhưng ai gần Ta thì ngồi”.”
-
Khi ấy, hang Nhân-đà-la mà
Thế Tôn đang ở tự nhiên trở nên rộng rãi, không bị ngăn ngại. Bấy giờ
Đế Thích cùng chư Thiên Đao-lợi và Ban-giá-dực đều lễ chân Phật, rồi
ngồi sang một bên. Đế Thích bạch Phật:
-
“Một thời, Phật ở tại nhà
một người Bà-la-môn ở nước Xá-vệ. Lúc bấy giờ Thế Tôn nhập hỏa diệm
tam muộitam-muội. Con khi ấy nhân có chút việc, cưỡi xe báu ngàn căm,
đi đến chỗ Tỳ-lâu-lặc Thiên vương. Bay ngang không trung, trông thấy
một Thiên nữ chắp tay đứng trước Thế Tôn. Con liền nói với Thiên nữ ấy
rằng: Khi Thế Tôn ra khỏi tam muộitam-muội, nàng hãy xưng tên ta mà
thăm hỏi Thế Tôn, đi đứng có nhẹ nhàng không, lui tới có khỏe mạnh
không? Không biết Thiên nữ ấy sau đó có chuyển đạt tâm tư ấy giùm con
không?”
-
Phật nói:
-
“Ta có nhớ. Thiên nữ ấy sau
đó có xưng tên ngươi mà thăm hỏi Ta. Ta ra khỏi thiền định mà còn nghe
tiếng xe của ngươi”.”
-
Đế Thích bạch Phật:
-
“Thuở xưa, nhân có chút
duyên sự, con cùng chư Thiên Đao-lợi tập họp tại Pháp đường. Các vị
Thiên thần cố cựu khi ấy đều nói rằng: Nếu Như Lai xuất hiện ở đời,
thì Thiên chúng gia tăng, mà chúng A-tu-la giảm thiểu. Nay con chính
tự thân gặp Thế Tôn, tự thân biết, tự thân chứng nghiệm, rằng Như Lai
xuất hiện ở đời thì các Thiên chúng gia tăng, mà chúng A-tu-la giảm
thiểu.
-
“Có Cù-di Thích nữ này,
theo Thế Tôn tu hành phạm hạnh, thân hoại mạng chung, sanh lên cung
trời Đao-lợi, làm con của con. Chư Thiên Đao-lợi đều khen: Cù-di con
cả của trời có công đức lớn, có uy lực lớn.
-
Lại có ba Tỳ-kheo khác theo
Thế Tôn tịnh tu phạm hạnh, thân hoại mạng chung, sanh trong hàng các
thần chấp nhạc thấp kém, hằng ngày đến để con sai khiến. Cù-di thấy
vậy, làm bài kệ chọc tức rằng:
-
Ông là đệ tử Phật;
-
Khi tôi là tại gia,
-
Cúng dường ông cơm áo,
-
Lễ bái rất cung kính.
-
Các ông là những ai?
-
Tự thân được Phật dạy.
-
Lời dạy Đấng Tịnh Nhãn,
-
Mà ông không suy xét.
-
Ta xưa lễ kính ông,
-
Nghe Phật pháp vô thượng,
-
Sinh trời Tam thập tam,
-
Làm con trời Đế Thích.
-
Các ông sao không xét,
-
Công đức mà tôi có.
-
Trước vốn là thân gái,
-
Nay là con Đế Thích.
-
Trước vốn cùng các ông
-
Đồng tu nơi phạm hạnh;
-
Nay riêng sinh chỗ thấp
kém,
-
Để cho tôi sai khiến.
-
Xưa ông hành vi xấu,
-
Nên nay chịiụu báo này.
-
Riêng sinh chỗ ti tiện,
-
Để cho tôi sai khiến.
-
Sinh chỗ bất tịnh này,
-
Bị người khác xúc phạm.
-
Nghe vậy, hãy nhàm chán
-
Chỗ đáng nhàm tởm này.
-
Từ nay hãy siêng năng,
-
Chớ để làm tôi người .
-
Hai ông siêng tinh tấn,
-
Tư duy pháp Như Lai.
-
Xả bỏ điều mê luyến,
-
Hãy quán, dục bất tịnh,
-
Dục trói, không chân thật,
-
Chỉ lừa dối thế gian.
-
Như voi bứt xiềng xích,
-
Siêu việt trời Đao-lợi.
-
Đế Thích, trời Đao-lợi,
-
Tập pháp trên giảng đường.
-
Kia với sức dũng mãnh,
-
Siêu việt trời Đao-lợi.
-
Thích khen chưa từng có.
-
Chư Thiên cũng thấy qua.
-
Đấy con nhà họ Thích,
-
Siêu việt trời Đao-lợi.
-
Đã chán dục trói buộc;
-
Cù-di nói như vậy.
-
Nước Ma-kiệt có Phật,
-
Hiệu là Thích-ca Văn.
-
Người kia vốn thất ý;
-
Nay phục hồi chánh niệm.
-
Một trong số ba người,
-
Vẫn làm thần Chấp nhạc.
-
Hai người thấy Đạo đế,
-
Siêu việt trời Đao-lợi.
-
Pháp Thế Tôn đã dạy,
-
Đệ tử không hoài nghi.
-
Cũng đồng thời nghe pháp;
-
Hai người hơn người kia.
-
Tự mình thấy thù thắng,
-
Đều sinh trời Quang âm.
-
Con quan sát họ rồi,
-
Nên nay đến chỗ Phật.
-
Đế Thích bạch Phật:
-
“Kính mong Thế Tôn bỏ chút
thời gian, giải quyết cho con một điều nghi ngờ”.”
-
Phật nói:
-
“Ngươi cứ hỏi, Ta sẽ giải
thích cho từng điều một”.”
-
Bấy giờ Đế Thích liền bạch
Phật rằng:
-
“Chư Thiên, người thế gian,
Càn-đạp-hòa, A-tu-la cùng các chúng sanh khác, tất cả tương ưng với
kết phược gì mà cho đến thù địch nhau, dao gậy nhắm vào nhau?”
-
Phật nói với Đế Thích:
-
“Sự phát sanh của oán kết
đều do tham lam, tật đố. Vì vậy, chư Thiên, người thế gian, cùng các
chúng sanh khác dùng dao gậy nhắm vào nhau”.”
-
Đế Thích liền bạch Phật:
-
“Thật vậy, bạch Thế Tôn.
Oán kết sanh do bởi tham lam, tật đố; khiến cho chư Thiên, người đời,
A-tu-la và các chúng sanh khác, sử dụng dao gậy đối với nhau. Con nay
nghe lời Phật dạy, lưới nghi đã được dứt bỏ, không còn nghi ngờ nữa.
Nhưng con không hiểu sự phát sanh của tham lam tật đố do đdâu mà khởi
lên; do bởi nhân duyên gì; cái gì làm nguyên thủ, từ cái gì mà có, do
cái gì mà không?”
-
Phật bảo Đế Thích:
-
“Sự phát sanh của tham lam,
tật đố, tất cả đều do bởi yêu và ghét ; yêu ghét là nhân; yêu ghét là
nguyên thủ; từ đó mà có, từ đó mà không “.”
-
Bấy giờ, Đế Thích liền bạch
Phật:
-
“Thật vậy, Thế Tôn! Tham
lam, tật đố phát sanh do bởi yêu ghét; yêu ghét là nhân; yêu ghét làm
duyên; yêu ghét làm nguyên thủ; từ đó mà có, từ đó mà không. Con nay
nghe lời Phật dạy, mê hoặc đã được dứt bỏ, không còn nghi ngờ nữa.
Nhưng con không hiểu yêu ghét do đâu mà sanh; do bởi nhân gì, duyên
gì; cái gì làm nguyên thủ; từ cái gì mà có, do cái gì mà không?”
-
Phật bảo Đế Thích:
-
“Yêu ghét phát sanh ở nơi
dục ;; do nhân là dục, do duyên là dục; dục là nguyên thủ, từ đó mà
có; không cái này thì không”.”
-
Đế Thích liền bạch Phật:
-
“Thật vậy, Thế Tôn, yêu
ghét phát sanh ở nơi dục; do nhân là dục, do duyên là dục; dục là
nguyên thủ, từ đó mà có; không cái này thì không. Con nay nghe lời
Phật dạy, mê hoặc đã được dứt bỏ, không còn nghi ngờ nữa. Nhưng con
không hiểu dục này do dâu mà sanh; do bởi nhân gì, duyên gì; cái gì
làm nguyên thủ, do cái gì mà có, do cái gì mà không?”
-
Phật bảo Đế Thích:
-
“Ái do tưởng sanh ;; do
nhân là tưởng, duyên là tưởng; tưởng làm nguyên thủ, từ đó mà có; cái
đó không thì không”.”
-
Đế Thích liền bạch Phật:
-
“Thật vậy, Thế Tôn, ái do
tưởng sanh; do nhân là tưởng, do duyên là tưởng; tưởng là nguyên thủ,
từ đó mà có; không cái này thì không. Con nay nghe lời Phật dạy, mê
hoặc đã được dứt bỏ, không còn nghi ngờ nữa. Nhưng con không hiểu
tưởng do đâu mà sanh; do bởi nhân gì, duyên gì; cái gì làm nguyên thủ,
do cái gì mà có, do cái gì mà không?”
-
Phật bảo Đế Thích:
-
“Tưởng phát sanh do nơi
điệu hý ; nhân điệu hý, duyên điệu hý; điệu hý làm nguyên thủ, từ đó
mà có, cái đó không thì không.
-
“Này Đế Thích, nếu không có
điệu hý thìí không có tưởng. Không có tưởng thì không có dục. Không có
dục thì không có yêu ghét. Không có yêu ghét thì không có tham lam tật
đố. Nếu không có tham lam tật đó thì tất cả chúng sanh không tàn hại
lẫn nhau.
-
“Này Đế Thích, chỉ duyên
điệu hý làm gốc; nhân điệu hý, duyên điệu hý; điệu hý làm nguyên thủ,
từ đó có tưởng. Từ tưởng có dục. Từ dục có yêu ghét. Từ yêu ghét có
tham lam tật đố. Do tham lam tật đố, chúng sanh tàn hại lẫn nhau”.”
-
Đế Thích bạch Phật:
-
“Thật vậy, Thế Tôn, do điệu
hý mà có tưởng; nhân điệu hý, duyên điệu hý; điệu hý làm nguyên thủ,
từ đó có tưởng. Từ tưởng có dục. Từ dục có yêu ghét. Từ yêu ghét có
tham lam tật đố. Do tham lam tật đố, chúng sanh tàn hại lẫn nhau. Nếu
vốn không có điệu hý thì không có tưởng. Không có tưởng thì không có
dục. Không có dục thì không có yêu ghét. Không có yêu ghét thì không
có tham lam tật đố. Nếu không có tham lam tật đố thì tất cả chúng sanh
không tàn hại lẫn nhau. Nhưng tưởng do điệu hý sanh; nhân điệu hý,
duyên điệu hý; điệu hý làm nguyên thủ, từ đó có tưởng. Từ tưởng có
dục. Từ dục có yêu ghét. Từ yêu ghét có tham lam tật đố. Do tham lam
tật đố, chúng sanh tàn hại lẫn nhau. Con nay nghe những điều Phật dạy,
mê hoặc đã trừ, không còn nghi ngờ gì nữa.”
-
Rồi Đế Thích bạch Phật:
-
“Hết thảy Sa-môn, Bà-la-môn
đều ở trên con đường diệt trừ điệu hý chăng? Hay không ở trên con
đường diệt trừ điệu hý?"?”
-
Phật nói:
-
“Không phải hết thảy
Sa-môn, Bà-la-môn đều ở trên con đường diệt trừ điệu hý. Sở dĩ như
vậy, này Đế Thích, vì thế gian có nhiều chủng loại giới khác nhau. Mỗi
chúng sanh y trên giới của mình, ôm giữ chặt cứng, không thể dứt bỏ;
cho rằng điều của mình là thật, ngoài ra là dối. Vì vậy, Đế Thích,
không phải hết thảy Sa-môn, Bà-la-môn đều ở trên con đường diệt trừ
điệu hý”..”
-
Đế Thích liền bạch Phật:
-
“Thật vậy, Thế Tôn, thế
gian có nhiều chủng loại giới khác nhau. Mỗi chúng sanh y trên giới
của mình, ôm giữ chặt cứng, không thể dứt bỏ; cho rằng điều của mình
là thật, ngoài ra là dối. Vì vậy, không phải hết thảy Sa-môn,
Bà-la-môn đều ở trên con đường diệt trừ điệu hý. Con nay nghe những
điều Phật dạy, mê hoặc đã trừ, không còn nghi ngờ gì nữa.”
-
Đế Thích lại bạch Phật:
-
“Trong chừng mực nào là con
đường diệt trừ điệu hý?”
-
Phật bảo Đế Thích:
-
“Điệu hý có ba; một là
miệng, hai là tưởng, ba là cầu. Những gì do miệng người nói, hại mình,
hại người, hại cả hai; xả bỏ lời nói ấy. Như những gì được nói không
hại mình, không hại người, không hại cả hai; Tỳ-kheo biết thời, đúng
như những điều được nói, chuyên niệm không tán loạn. Tưởng cũng hại
mình, hại người, hại cả hai; xả bỏ tưởng ấy. Đúng như những gì được
tưởng mà không hại mình, không hại người, không hại cả hai; Tỳ-kheo
biết thời, đúng như những điều được tưởng, chuyên niệm không tán loạn.
Đế Thích, cầu cũng hại mình, hại người, hại cả hai; sau khi xả bỏ cầu
ấy, đúng những gì được tìm cầu, không hại mình, không hại người, không
hại cả hai, Tỳ-kheo biết thời đúng như những gì được tìm cầu chuyên
niệm không tán loạn”.”
-
Bấy giờ, Đế Thích bạch
Phật:
-
“Con nghe những điều Phật
dạy, không còn hồ nghi nữa”.”
-
Lại hỏi:
-
“Trong chừng mực nào thì
gọi là Xả tâm của Hiền thánh?”
-
Phật nói với Đế Thích:
-
“Xả tâm có ba: một là hỷ
thân, hai là ưu thân, ba là xả thân. Đế Thích; hỷ thân kia hại mình,
hại người, hại cả hai. Sau khi xả bỏ hỷ ấy, như điều được hoan hỷ,
không hại mình, không hại người, không hại cả hai; Tỳ-kheo biết thời,
chuyên niệm không tán loạn, liền được gọi là thọ giới Cụ túc. Đế
Thích, ưu thân kia hại mình, hại người, hại cả hai. Sau khi xả bỏ ưu
ấy, như điều ưu tư, không hại mình, không hại người, không hại cả hai,
Tỳ-kheo biết thời, chuyên niệm không tán loạn, liền được gọi là thọ
giới Cụ túc. Lại nữa, Đế Thích, xả thân kia hại mình, hại người, hại
cả hai. Sau khi xả bỏ xả thân ấy, như điều được xả, không hại mình,
không hại người, không hại cả hai, Tỳ-kheo biết thời, chuyên niệm
không tán loạn, liền được gọi là thọ giới Cụ túc”.”
-
Đế Thích bạch Phật:
-
“Con nghe những điều Phật
dạy, không còn hồ nghi nữa”.”
-
Lại bạch Phật:
-
“Trong chừng mực nào thì
được gọi là sự đầy đủ các căn của bậc Hiền thánh??”
-
Phật bảo Đế Thích:
-
“Con mắt biết sắc, Ta nói
có hai: đáng thân và không đáng thân. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương,
lưỡi nếm vị, thân xúc chạm ý biết pháp, Ta nói có hai: đáng thân và
không đáng thân”.”
-
Đế Thích bạch Phật:
-
“Thế Tôn, Như Lai nói vắn
tắt mà không phân biệt rộng rãi. Theo chỗ hiểu biết đầy đủ của con thì
như thế này: Mắt biết sắc, Ta nói có hai: đáng thân và không đáng
thân. Tai nghe tiếng, mũi ngửữi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý
biết pháp, Ta nói có hai: đáng thân và không đáng thân. Thế Tôn, như
con mắt quán sát sắc, mà pháp thiện tổn giảm, pháp bất thiện tăng. Mắt
thấy sắc như thế, Ta nói không đáng thân. Tai nghe tiếng, mũi ngửữi
hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp, mà pháp thiện tổn
giảm, pháp bất thiện tăng trưởng, Ta nói không đáng thân. Như mắt biết
sắc mà pháp thiện tăng trưởng, pháp bất thiện giảm; sự biết sắc của
mắt như vậy, Ta nói đáng thân. Tai nghe tiếng, mũi ngửữi hương, lưỡi
nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp, mà pháp thiện tăng trưởng, pháp
bất thiện tổn giảm, Ta nói đáng thân”.”
-
Phật bảo Đế Thích:
-
“Lành thay, lành thay, đó
gọi là sự đầy đủ các căn của Hiền thánh”.”
-
Đế Thích bạch Phật:
-
“Con nghe những điều Phật
nói, không còn hồ nghi nữa.”
-
Lại bạch Phật:
-
“Trong chừng mực nào
Tỳ-kheo được nói là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu
cánh vô dư?”
-
Phật bảo Đế Thích:
-
“Thân bị khổ bởi ái đã diệt
tận, là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô
dư.”.”
-
Đế Thích bạch Phật:
-
“Những mối hoài nghi mà con
ôm ấp lâu dài nay đã được Như Lai mở bày, không còn gì nghi ngờ nữa”.”
-
Phật nói với Đế Thích:
-
“Trước đây ngươi có bao giờ
đi đến các Sa-môn, Bà-la-môn hỏi ý nghĩa này chưa?”
-
Đế Thích bạch Phật:
-
“Con nhớ lại, thuở xưa, con
đã từng đến Sa-môn, Bà-la-môn để hỏi nghĩa này. Xưa, có một thời,
chúng con tập họp tại giảng đường, cùng các Thiên chúng bàn luận: Như
Lai sẽ ra xuất hiện ở đời chăng? Chưa xuất hiện ở đời chăng? Rồi chúng
con cùng suy tìm, không thấy có Như Lai xuất hiện ở đời. Mỗi vị trở về
cung điện của mình, hưởng thụ ngũ dục. Thế Tôn, về sau, con lại thấy
các Đại Thiên thần sau khi tự thỏa mãn với ngũ dục, dần dần từng vị
mạng chung. Lúc ấy, bạch Thế Tôn, con rất kinh sợ, lông tóc dựng đứng.
Khi gặp các Sa-môn, Bà-la-môn sống nơi thanh vắng, lìa bỏ gia đình,
lìa bỏ dục lạc, con bèn tìm đến hỏi họ rằng: Thế nào là cứu cánh? Con
hỏi ý nghĩa ấy, nhưng họ không thể trả lời. Đã không thể trả lời, họ
hỏi ngược lại con: Ông là ai? Con liền đáp: Tôi là Thích Đề-hoàn Nhân.
Kia lại hỏi: Ông là Thích nào?Con đáp: Tôi là Thiên Đế Thích. Trong
lòng có mối nghi nên đến hỏi. Rồi con và vị ấy theo chỗ thấy biết của
mình cùng giải thích ý nghĩa. Kia nghe con nói, kia lại nhận làm đệ tử
của con. Nay con là đệ tử Phật, chứng đắc Tu-đà-hoàn đạo, không còn
đọa cõi dữ; tái sanh tối đa bảy lần tất thành đạo quả. Cúi mong Thế
Tôn thọ ký con là Tư-đà-hàm”.”
-
Nói xong, Đế Thích lại làm
bài tụng:
-
Do kia nhiễm uế tưởng ,
-
Khiến con sanh nghi ngờ.
-
Cùng chư Thiên, lâu dài
-
Suy tìm đến Như Lai.
-
Gặp những người xuất gia
-
Thường ở nơi thanh vắng,
-
Tưởng là Phật Thế Tôn,
-
Con đến cúi đầu lễ.
-
Con đến và hỏi họ
-
“Thế nào là cứu cánh?”
-
Hỏi, nhưng không thể đáp,
-
Đường tu đi về đâu.
-
Ngày nay đĐấng Vô Đẳng,
-
Mà con đợi từ lâu,
-
Đã quán sát, thực hành,
-
Tâm đã chánh tư duy.
-
Đấng Tịnh Nhãn đã biết
-
Sở hành của tâm con
-
Và nghiệp tu lâu dài,
-
Cúi mong thọ ký con.
-
Quy mạng Đấng Chí Tôn,
-
Đấng siêu việt tam giới,
-
Đã bứt gai ân ái.
-
Kính lễ Đấng Nhật Quang.
-
Phật bảo Đế Thích:
-
“Ngươi có nhớ trước đây khi
ngươi có hỷ lạc, cảm nghiệm lạc chăng? “?”
-
Đế Thích đáp:
-
“Đúng vậy, Thế Tôn. Con nhớ
hỷ lạc, cảm nghiệm lạc mà con có trước đây. Thế Tôn, xưa có lần con
đánh nhau với A-tu-la. Khi đó con chiến thắng, A-tu-la bại trận. Con
trở về với sự hoan hỷ, cảm nghiệm lạc. Nhưng hoan hỷ ấy, cảm nghiệm
lạc ấy duy chỉ là hỷ lạc của dao gậy uế ác, là hỷ lạc của đấu tranh.
Nay hỷ lạc, cảm nghiệm lạc mà con có được ở nơi Phật không phải là hỷ
lạc của dao gậy, của đấu tranh”.”
-
Phật hỏi Đế Thích:
-
“Hỷ lạc, cảm nghiệm lạc mà
ngươi có hiện nay, trong đó muốn tìm cầu những kết quả công đức gì?”
-
Bấy giờ, Đế Thích bạch
Phật:
-
“Con ở trong hỷ lạc, cảm
nghiệm lạc, muốn tìm cầu năm kết quả công đức. Những gì là năm? “Rồi
Đế Thích liền đọc bài kệ:
-
Nếu sau này con chết,
-
Xả bỏ tuổi thọ trời,
-
Đầu thai không lo lắng,
-
Khiến tâm con hoan hỷ.
-
Phật độ người chưa độ;
-
Hay nói đạo chân chánh;
-
Ở trong pháp Chánh giác,
-
Con cần tu phạm hạnh.
-
Sống với thân trí tuệ,
-
Tâm tự thấy chân đế;
-
Chứng đạt điều cần chứng,
-
Do thế sẽ giải thoát .
-
Nhưng phải siêng tu hành,
-
Tu tập chơn trí Phật.
-
Dù chưa chứng đạo quả;
-
Công đức vẫn hơn trời.
-
Các cõi trời thần diệu,
-
A-ca-ni, vân vân;
-
Cho đến thân cuối cùng,
-
Con sẽ sanh nơi ấy.
-
Nay con ở nơi này,
-
Được thân trời thanh tịnh;
-
Lại được tuổi thọ tăng;
-
Tịnh nhãn, con tự biết.
-
Nói bài kệ xong, Đế Thích
bạch Phật:
-
“Con ở trong hỷ lạc, cảm
nghiệm lạc, mà được năm kết quả công đức như vậy”.”
-
Bấy giờ Đế Thích nói với
chư Thiên Đao-lợi:
-
“Các ngươi ở trên trời
Đao-lợi đã cung kính hành lễ trước Phạm đồng tử. Nay trước Phật lại
cũng hành lễ cung kính như vậy, há không tốt đẹp sao?”
-
Nói xong, phút chốc Phạm
đồng tử bỗng xuất hiện giữa hư không, đứng bên trên các Thiên chúng,
hướng về phía Đế Thích mà đọc bài kệ rằng:
-
Thiên vương hành thanh
tịnh,
-
Nhiều lợi ích chúng sanh;
-
Ma-kiệt, Chúa Đế Thích,
-
Hỏi Như Lai ý nghĩa.
-
Bấy giờ, Phạm đồng tử sau
khi nói kệ, bỗng nhiên biến mất. Khi ấy Đế Thích rời chỗ ngồi đứng
dậy, lễ dưới chân Thế Tôn, đi quanh Phật ba vòng, rồi lui về. Chư
Thiên Đao-lợi cùng Ban-giá-dực cũng lễ dưới chân Phật rồi lui về.
-
Thiên Đế Thích đi trước một
đỗi, quay lại nói với Ban-giá-dực:
-
“Lành thay, lành thay!
Ngươi đã đi trước đến gảãy đàn trước Phật cho vui vẻ, sau đó ta mới
cùng chư Thiên Đao-lợi đến sau. Ta nay bổ ngươi vào địa vị của cha
ngươi, làm thượng thủ trong các Càn-đạp-hòa và sẽ gảã Bạt-đ con gái
của vua Càn-đạp-hòa cho ngươi làm vợ”.”
-
Khi Thế Tôn nói pháp này,
tám vạn bốn ngàn chư Thiên xa lìa trần cấu, con mắt Chánh pháp phát
sanh đối với các pháp.
-
Bấy giờ Thích Đề-hoàn Nhân,
chư Thiên Đao-lợi và Ban-giá-dực sau khi nghe những điều Phật dạy hoan
hỷ phụng hành.
|
|