|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
-
KINH TRƯỜNG
A HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật
Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
- PHẦN II
-
-
16. KINH THIỆN SINH
-
-
Tôi nghe như vầy.
-
Một thời Phật ở tại núi
Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt-kỳ cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai
trăm năm mươi người.
-
Bấy giờ, vào lúc thích hợp
Ðức Thế Tôn khoác y cầm bát vào thành khất thực. Lúc bấy giờ tại thành
La-duyệt-kỳ có con trai của trưởng giả tên là Thiện Sinh, vào buổi
sáng sớm, ra khỏi thành, đi đến khu vườn công cộng sau khi vừa tắm gội
xong, cả mình còn ướt, hướng đến các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên,
Dưới mà lạy khắp cả.
-
Ðức Thế Tôn thấy Thiện
Sinh, con trai nhà trưởng giả, sau khi đi đến khu vườn công cộng, vừa
tắm xong, cả thân mình còn ướt sũng, bèn đến gần và hỏi:
-
“Vì sao, vào buổi sáng sớm,
ra khỏi thành, đi đến khu vườn công cộng, với cả người còn ướt đẫm, mà
ngươi lại lạy các phương như thế?”.”
-
Thiện Sinh bạch Phật:
-
“Khi cha tôi sắp chết có
dặn, “Nếu con muốn lạy, trước hết hãy lạy các phương Đông, Tây, Nam,
Bắc, Trên và Dưới”. Tôi vâng lời cha dạy không dám chống trái, nên sau
khi tắm gội xong, chắp tay hướng mặt về phương Đông mà lễ phương Đông
trước rồi tiếp lễ khắp các phương Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới”.”
-
Phật bảo Thiện Sinh:
-
“Này con trai trưởng giả!
Quả có cái tên các phương đó chứ không phải không. Nhưng trong pháp
của bậc Hiền thánh của ta chẳng phải lễ sáu phương như thế là cung
kính đâu”.”
-
Thiện Sinh thưa:
-
“Cúi xin Ðức Thế Tôn thương
dạy cho con cách lễ sáu phương theo pháp của Hiền thánh”.”
-
Phật bảo con trai trưởng
giả:
-
“Hãy lắng nghe, hãy suy
ngẫm kỹ, Ta sẽ nói cho ngươi nghe”.”
-
Thiện Sinh đáp:
-
“Thưa vâng. Con rất muốn
nghe”.”
-
Phật bảo Thiện Sinh:
-
“Nếu trưởng giả hay con
trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường
hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản .
-
“Như thế, này Thiện Sinh
nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là
lễ kính sáu phương; thì đời này tốt đẹp và cả đời sau cũng được quả
báo tốt đẹp; đời này có căn cơ và đời sau có căn cơ ; trong hiện tại
được người trí ngợi khen, được quả bậc nhất, sau khi chết được sanh
lên trời, cõi thiện.
-
“Này Thiện Sinh, nên biết,
hành bốn kết là: Sát sinh, trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ.
-
“Thế nào là bốn trường hợp?
áÁc? Đó là: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Ai làm những việc ác
theo bốn trường hợp đó sẽ bị hao tổn. Nói như vậy xong, Phật lại nói
bài tụng:
-
Ai làm theo bốn pháp,
-
Tham, sân, sợ hãi, si,
-
Thì danh dự mất dần,
-
Như trăng về cuối tháng.
-
“Này Thiện Sinh, người nào
không làm ác theo bốn trường hợp thì sự ích lợi ngày càng tăng thêm:
-
Người nào không làm ác,
-
Do tham, hận, sợ, si,
-
Thì danh dự càng thêm,
-
Như trăng hướng về rằm.
-
“Này Thiện Sinh, sáu nghiệp
tổn tài là:
-
“1 Đam mê rượu chè.
-
“2. Cờ bạc.
-
“3. Phóng đãng.
-
“4. Đam mê kỹ nhạc.
-
“5. Kết bạn người ác
-
“6. Biếng lười.
-
“Này Thiện Sinh, nếu trưởng
giả hay con trai trưởng giả biết rõ bốn kết hành, không làm ác theo
bốn trường hợp, lại biết sáu nghiệp tổn tài, ấy là, này Thiện Sinh,
tránh được bốn trường hợp là cúng dường sáu phương, thì đời này tốt
đẹp, đời sau tốt đẹp; đời này căn cơ và đời sau căn cơ; trong hiện tại
được người trí ngợi khen, được quả báo bậc nhất; sau khi chết được
sanh lên trời, cõi thiện.
-
“Lại nữa, này Thiện Sinh,
nên biết, uống rượu có sáu điều lỗi:
-
“1. Hao tài.
-
“2. Sanh bệnh.
-
“3. Đấu tranh.
-
“4. Tiếng xấu đồn khắp.
-
“5. Bộc phát nóng giận.
-
“6. Tuệ giảm dần.
-
“Này Thiện Sinh, nếu trưởng
giả hay con trai trưởng giả ấy uống rượu không thôi thì nghiệp gia sản
ngày mỗi tiêu tán.
-
“Này Thiện Sinh, cờ bạc có
sáu điều tai hại:
-
“1. Tài sản ngày một hao
hụt.
-
“2. Thắng thì gây thù oán.
-
“3. Bị kẻ trí chê.
-
“4. Mọi người không kính nễ
tin cậy.
-
“5. Bị xa lánh; và sáu,
sanh tâm trộm cắp.
-
“Thiện Sinh, nếu trưởng giả
hay con trai trưởỏng giả mê đánh bạc mãi thì gia sản ngày mỗi tiêu
tán.
-
“Này Thiện Sinh, phóng đãng
có sáu lỗi:
-
“1. Không tự phòng hộ mình.
-
“2. Không phòng hộ được tài
sản và hàng hóa.
-
“3. Không phòng hộ được con
cháu.
-
“4. Thường hay bị sợ hãi.
-
“5. Bị những điều khốn khổ
ràng buộc xác thân.
-
“6. Ưa sinh điều dối trá.
-
“Đó là sáu điều lỗi. Nếu
trưởng giả hay con trai trưởng giả phóng đãng mãi không thôi thì gia
sản ngày mỗi tiêu táan.
-
“Này Thiện Sinh, say mê kỹ
nhạc có sáu lỗi:
-
“1. Tìm đến chỗ ca hát.
-
“2. Tìm đến chỗ múa nhảy.
-
“3. Tìm đến chỗ đàn địch.
-
“4. Tìm đến chỗ tấu linh
tay.
-
“5. Tìm đến chỗ có âm thanh
vi diệu.
-
“6. Tìm đến chỗ đánh trống.
-
“Đó là sáu tai hại của kỹ
nhạc. Nếu trưởng giả hoặc con trai trưởng giả say mê kỹỷ nhạc mãi
không thôi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.
-
“Này Thiện Sinh, giao du
với bạn xấu có sáu lỗi:
-
“1. Tìm cách lừa dối.
-
“2. Ưa chỗ thầm kín.
-
“3. Dụ dỗ nhà người khác.
-
“4. Mưu đồ chiếm đoạt tài
sản của người khác.
-
“5. Xoay tài lợi về mình.
-
“6. Ưa phanh phui lỗi
người.
-
“Đó là sáu tai hại về bạn
xấu. Nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả làm bạn với kẻ ác mãi thì
gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán.
-
“Này Thiện Sinh, lười biếng
có sáu lỗi:
-
“1. Khi giàu sang không
chịu làm việc.
-
“2. Khi nghèo không chịu
siêng năng.
-
“3. Lúc lạnh không chịu
siêng năng.
-
“4. Lúc nóng không chịu
siêng năng.
-
“5. Lúc sáng trời không
chịu siêng năng.
-
“6. Lúc tối trời không chịu
siêng năng.
-
“Đó là sáu điều tai hại của
sự lười biếng. Nếu trưởng giả hay con trưởng giả lười biếng mãi, thì
gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.”
-
Nói như vậy xong, Phật làm
bài tụng:
-
Người mê say rượu chè,
-
Lại có bè bạn rượu,
-
Tài sản đã tích lũy,
-
Liền theo mình tiêu tan;
-
Uống rượu không tiết độ;
-
Thường ưa ca, múa, nhảy,
-
Ngày rong chơi nhà người,
-
Nhân thế tự đọa lạc.
-
Theo bạn ác không sửa;
-
Phỉ báng ra nhà người.
-
Tà kiến bị người chê;
-
Làm xấu bị người truất.
-
Cờ bạc, đắm ngoại sắc;
-
Chỉ bàn việc hơn thua.
-
Bạn ác không sửa đổi,
-
Làm xấu bị người truất.
-
Bị rượu làm hoang mê;
-
Nghèo khó không tự liệu;
-
Tiêu xài chẳng tiếc của;
-
Phá nhà gây tai ương;
-
Đánh bạc, xúm uống rượu;
-
Lén lút vợ con người.
-
Tập quen nết bỉ ổi;
-
Như trăng về cuối tháng.
-
Gây ác phải chịu ác.
-
Chung làm cùng bạn ác;
-
Đời này và đời sau,
-
Rốt không đạt được gì.
-
Ngày thời ưa ngủ nghỉ,
-
Đêm thức những mơ tưởng,
-
Mê tối không bạn lành;
-
Chẳng gây nổi gia vụ.
-
Sáng chiều chẳng làm việc;
-
Lạnh, nóng lại biếng lười.
-
Làm việc không suy xét;
-
Trở lại uổng công toi.
-
Nếu không kể lạnh nóng,
-
Sáng chiều siêng công việc,
-
Sự nghiệp chi chẳng thành;
-
Suốt đời khỏi âu lo”.
-
Phật bảo Thiện Sinh:
-
“Có bốn hạng kẻ thù mà như
người thân, ngươi nên biết. Bốn kẻ ấy là những ai?
-
“1. Hạng úy phục.
-
“2. Hạng mỹ ngôn.
-
“3. Hạng kính thuận.
-
“4. Hạng ác hữu.
-
“Hạng úy phục thì thường
hay làm bốn việc:
-
“1. Cho trước đoạt lại sau.
-
“2. Cho ít mong trả nhiều.
-
“3. Vì sợ gượng làm thân.
-
“4. Vì lợi gượng làm thân.
-
“Hạng mỹ ngôn thì thường
hay làm bốn việc:
-
“1. Lành dữ đều chiều theo.
-
“2. Gặp hoạn nạn thì xa
lánh.
-
“3. Ngăn cản những điều
hay.
-
“4. Thấy gặp nguy tìm cách
đun đẩy.
-
“Hạng kính thuận thì thường
làm bốn việc:
-
“1. Việc trước dối trá.
-
“2. Việc sau dối trá.
-
“3. Việc hiện dối trá.
-
“4. Thấy có một chút lỗi
nhỏ đã vội trách phạt.
-
“Hạng bạn ác thì thường làm
bốn việc: một, bạn lúc uống rượu; hai, bạn lúc đánh bạc; ba, bạn lúc
dâm dật; bốn bạn lúc ca vũ”.”
-
Ðức Thế Tôn nói như vậy
rồi, bèn làm một bài tụng:
-
Úy phục, gượng làm thân;
-
Hạng mỹ ngôn cũng thế.
-
Kính thuận, thân nhưng dối.
-
Ác hữu là ác thân.
-
Bạn thế chớ tin cậy,
-
Người trí nên biết rõ.
-
Nên gấp rút lìa xa
-
Như tránh con đường hiểm.
-
Phật lại bảo Thiện Sinh:
-
“Có bốn hạng người thân
đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn?
-
“1. Ngăn làm việc quấy.
-
“2. Thương yêu.
-
“3. Giúp đỡ.
-
“4. Đồng sự.
-
“Đó là bốn hạng người thân
đáng thân cận.
-
“Này Thiện Sinh, hạng ngăn
quấy thì thường làm bốn việc đem lại nhiều lợi ích và hay che chở:
-
“1. Thấy người làm ác thì
hay ngăn cản.
-
“2. Chỉ bày điều chánh
trực.
-
“3. Có lòng thương tưởng.
-
“4. Chỉ đường sinh Thiên.
-
“Đó là bốn trường hợp ngăn
cản việc quấy đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.
-
“Hạng thương yêu thì thường
làm bốn việc:
-
“1. Mừng khi mình được lợi.
-
“2. Lo khi mình gặp hại.
-
“3. Ngợi khen đức tốt mình.
-
“4. Thấy mình nói ác thì
tìm cách ngăn cản.
-
“Đó là bốn điều thương yêu
đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.
-
“Hạng giúp đỡ có bốn việc.
Những gì là bốn? Đó là:
-
“1. Che chở mình khỏi buông
lung.
-
“2. Che chở mình khỏi hao
tài vì buông lung.
-
“3. Che chở mình khỏi sợ
hãi.
-
“4. Khuyên bảo mình trong
chỗ vắng người.
-
“Hạng đồng sự thì thường
làm bốn việc:
-
“1. Không tiếc thân mạng
với bạn.
-
“2. Không tiếc của cải với
bạn.
-
“3. Cứu giúp bạn khỏi sợ
hãi.
-
“4. Khuyên bảo bạn lúc ở
chỗ vắng người”.”
-
Nói như vậy xong, Ðức Thế
Tôn lại nói bài tụng:
-
Bạn ngăn ngừa điều quấy,
-
Bạn từ mẫn thương yêu,
-
Bạn làm lợi ích bạn,
-
Bạn đồng sự với bạn.
-
Đó bốn hạng đáng thân,
-
Người trí đáng thân cận;
-
Thân hơn người thân khác,
-
Như mẹ hiền thân con.
-
Muốn thân người đáng thân;
-
Hãy thân bạn kiên cố.
-
Người bạn đủ giới hạnh,
-
Như lửa sáng soi người.
-
Phật lại bảo Thiện Sinh:
-
“Ngươi nên biết ý nghĩa sáu
phương. Sáu phương là gì?
-
“1. Phương Đông là cha mẹ.
-
“2. Phương Nam là sư
trưởng.
-
“3. Phương Tây là thê
thiếp.
-
“4. Phương Bắc là bạn bè
thân thích.
-
“5. Phương Trên là các bậc
Trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn.
-
“6. Phương Dưới là tôi tớ.
-
“Này Thiện Sinh, kẻ làm con
phải kính thuận cha mẹ với năm điều. Những gì là năm?
-
“1.) Cung phụng không để
thiếu thốn.
-
“2.) Muốn làm gì thưa cha
mẹ biết.
-
“3.) Không trái điều cha mẹ
làm.
-
“4.) Không trái điều cha mẹ
dạy.
-
“5.) Không cản chánh nghiệp
mà cha mẹ làm.
-
“Kẻ làm cha mẹ phải lấy năm
điều này chăm sóc con cái:
-
“1. Ngăn con đừng để làm
ác.
-
“2.) Chỉ bày những điều
ngay lành.
-
“3.) Thương yêu đến tận
xương tủy.
-
“4.) Chọn nơi hôn phối tốt
đẹp.
-
“5.) Tùy thời cung cấp đồ
cần dùng.
-
“Này Thiện Sinh, kẻ làm con
kính thuận và cung phụng cha mẹ thế thì phương ấy được an ổn không có
điều lo sợ.
-
“Đệ tử cung phụng sư trưởng
có năm việc:
-
“1.) Hầu hạ cung cấp điều
cần.
-
“2.) Kính lễ cúng dường.
-
“3.) Tôn trọng qúi mến.
-
“4.) Thầy có dạy bảo điều
gì không trái nghịch.
-
“5.) Thầy có dạy bảo điều
gì nhớ kỹ không quên. Kẻ làm đệ tử cần phải thờ kính sư trưởng với năm
điều ấy.
-
“Thầy cũng có năm điều để
săn sóc đệ tử:
-
“1.) Dạy dỗ có phương pháp.
-
“2.) Dạy những điều chưa
biết.
-
“3.) Giải nghĩa rành rõ
những điều trò hỏi.
-
“4.) Chỉ cho những bạn
lành.
-
“5.) Dạy hết những điều
mình biết không lẫn tiếc.
-
“Này Thiện Sinh, nếu đệ tử
kính thuận, cung kính sư trưởng, thì phương ấy được an ổn không có
điều lo sợ.
-
“Này Thiện Sinh, chồng cũng
phải có năm điều đối với vợ:
-
“1.) Lấy lễ đối đãi nhau.
-
“2.) Oai nghiêm không
nghiệt.
-
“3.) Cho ăn mặc phải thời.
-
“4. Cho trang sức phải
thời.
-
“5.) Phó thác việc nhà.
-
“Này Thiện Sinh, chồng đối
đãi vợ có năm điều, vợ cũng phải lấy năm việc cung kính đối với chồng.
Những gì là năm?
-
“1.) Dậy trước.
-
“2.) Ngồi sau.
-
“3.) Nói lời hòa nhã.
-
“4.) Kính nhường tùy thuận.
-
“5.) Đón trước ý chồng.
-
“Này Thiện Sinh, ấy là vợ
đối với chồng cung kính đối đãi nhau, như thế thì phương ấy được an ổn
không điều gì lo sợ.
-
“Này Thiện Sinh, người ta
phải lấy năm điều thân kính đối với bà con:
-
“1.) Chu cấp.
-
“2.) Nói lời hiền hòa.
-
“3). Giúp đạt mục đích.
-
“4.) Đồng lợi .
-
“5.) Không khi dối.
-
“Bà con cũng phải lấy năm
điều đối lại:
-
“1.) Che chở cho mình khỏi
buông lung.
-
“2.) Che chở cho mình khỏi
hao tài vì buông lung.
-
“3.) Che chở khỏi sự sợ
hãi.
-
“4.). Khuyên răn nhau lúc ở
chỗ vắng người.
-
“5.) Thường ngợi khen nhau.
-
“Này Thiện Sinh! Người biết
thân kính bà con như vậy thì phương ấy được yên ổn không điều chi lo
sợ.
-
“Này Thiện Sinh, chủ đối
với tớ có năm điều để sai bảo:
-
“1.) Tùy khả năng mà sai
sử.
-
“2.) Phải thời cho ăn uống.
-
“3.) Phải thời thưởng công
lao.
-
“4.) Thuốc thang khi bệnh.
-
“5.) Cho có thời giờ nghỉ
ngơi.
-
“Tôi tớ phải lấy năm điều
phụng sự chủ :
-
“1.) Dậy sớm.
-
“2.) Làm việc chu đáo.
-
“3.) Không gian cắp.
-
“4.) Làm việc có lớp lang.
-
“5.) Bảo tồn danh giá chủ.
-
“Này Thiện Sinh, nếu chủ
đối với tớ được như vậy thì phương ấy được an ổn không điều chi lo sợ.
-
“Kẻ đàn việt cung phụng
hàng Sa-môn, Bà-la-môn với năm điều:
-
“1.) Thân hành từ.
-
“2.) Khẩu hành từ.
-
“3.) Ý hành từ.
-
“4.) Đúng thời cúng thí.
-
“5. Không đóng cửa khước
từ.
-
“Sa-môn, Bà-la-môn cũng
khuyên dạy theo sáu điều:
-
“1.) Ngăn ngừa chớ để làm
ác.
-
“2.) Chỉ dạy điều lành.
-
“3.) Khuyên dạy với thiện
tâm.
-
“4. ) Cho nghe những điều
chưa nghe.
-
“5. Những gì đã được nghe
làm cho hiểu rõ.
-
“6. Chỉ vẽ con đường sanh
Thiên.
-
“Này Thiện Sinh, nếu đàn
việt kính phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì phương ấy được an
ổn không điều gì lo sợ”.”
-
Ðức Thế Tôn nói như vậy
xong, lại làm một bài tụng:
-
Cha mẹ là phương Đông,
-
Sư trưởng là phương Nam,
-
Vợ chồng là phương Tây,
-
Thân tộc là phương Bắc,
-
Tôi tớ là phương Dưới,
-
Sa-môn là phương Trên.
-
Những người con trưởng giả
-
Kính lễ các phương ấy.
-
Thuận thảo không lỗi thời,
-
Khi chết được sanh Thiên.
-
Huệ thí, nói hòa nhã,
-
Giúp người đạt mục đích.
-
Lợi lộc chia đồng đều,
-
Mình có cho người hưởng.
-
Bốn việc ấy như xe,
-
Chở tất cả nặng nề.
-
Đời không bốn việc ấy,
-
Sẽ không có hiếu dưỡng.
-
Bốn việc ấy ở đời,
-
Được người trí chọn lựa.
-
Làm thời kết quả lớn,
-
Tiếng tốt đồn vang xa.
-
Trang sức chỗ nằm ngồi,
-
Dọn thức ăn bậc nhất,
-
Để cấp bậc xứng đáng,
-
Tiếng tốt đồn vang xa.
-
Không bỏ người thân cũ;
-
Chỉ bày việc lợi ích;
-
Trên dưới thường hòa đồng,
-
Tất được danh dự tốt.
-
Trước hãy tập kỹ nghệ,
-
Sau mới có tài lợi.
-
Khi có tài lợi rồi,
-
Hãy khéo lo gìn giữ.
-
Tiêu dùng đừng xa xí;
-
Hãy lựa người làm thân.
-
Hạng lừa dối, xung đột;
-
Thà chẳng nên đến gần.
-
Của dồn từ khi ít;
-
Như ong góp nhụy hoa.
-
Tài bảo ngày chứa dồn,
-
Trọn đời không hao tổn.
-
Một, ăn biết vừa đủ;
-
Hai, làm việc siêng năng;
-
Ba, lo dồn chứa trước,
-
Đề phòng khi thiếu hụt;
-
Bốn, cày ruộng buôn bán,
-
Và lựa đất chăn nuôi;
-
Năm, xây dựng tháp miếu;
-
Sáu, lập tăng phòng xá.
-
Tại gia sáu việc ấy,
-
Siêng lo chớ lỗi thời.
-
Ai làm được như thế
-
Thời nhà khỏi sa sút,
-
Tài sản ngày một thêm,
-
Như trăm sông về biển.
-
Bấy giờ Thiện Sinh bạch
Phật:
-
“Lành thay, bạch Thế Tôn!
Thật quá chỗ mong ước của con xưa nay, vượt xa những lời dạy của cha
con. Như lật ngửữa những gì bị úp xuống; như mở ra những gì bị đóng
kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt
liền thấy. Những gì được Như Lai thuyết giảng cũng như thế; bằng vô số
phương tiện khai ngộ cho kẻ ngu tối; làm rõ pháp thanh bạch. Phật là
Đức Như Lai, Bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, do đó có thể chỉ bày,
hướng dẫn cho đời. Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi
xin Ðức Thế Tôn chấp thuận cho con được làm Ưu-bà-tắc ở trong Chánh
pháp. Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con nguyện không giết, không
trộm, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu”.
-
Bấy giờ, Thiện Sinh sau khi
nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
|
|