|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH TRƯỜNG A
HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá &
Trúc Phật Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN II
-
- 18. KINH TỰ HOAN
HỶ
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
trú tại thành Na-nan-đà, trong rừng Ba-ba-lỵ-am-bà, cùng với
chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.
- Bấy giờ
Trưởng lão Xá-lợi-phất đang ở nơi nhàn tĩnh, thầm tự suy nghĩ
rằng:
- “Ta biết với
tâm quyết định rằng các Sa-môn, Bà-la-môn trong quá khứ, vị lai
và hiện tại, không ai có trí tuệ, thần túc, công đức, đạo lực
sánh bằng Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác. “”
- Rồi
Xá-lợi-phất rời khỏi tịnh thất, đi đến chỗ Phật; cúi đầu lễ chân
Phật, rồi ngồi sang một bên, bạch Phật rằng:
- “Vừa rồi ở
tịnh thất, con thầm tự nghĩ rằng: Các Sa-môn, Bà-la-môn trong
quá khứ, vị lai và hiện tại, không ai có trí tuệ, thần túc, công
đức, đạo lực sánh bằng Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác.”
- Phật bảo
Xá-lợi-phất:
- “Lành thay,
lành thay, ngươi có thể trước Phật mà nói lời như vậy. Với tin
tưởng xác quyết, ngươi thật sự cất tiếng rống sư tử. Các Sa-môn,
Bà-la-môn không ai bằng ngươi được. Thế nào, Xá-lợi-phất, ngươi
có thể biết những điều được nhớ nghĩ trong tâm của chư Phật quá
khứ chăng? Biết Đức Phật ấy có giới như vậy, pháp như vậy, trí
tuệ như vậy, giải thoát như vậy, giải thoát đường như vậy
chăng?”
- Đáp rằng:
“Không biết”.
- “Thế nào,
Xá-lợi-phất, ngươi có thể biết những điều được nhớ nghĩ trong
tâm của chư Phật đương lai chăng? Biết Đức Phật ấy có giới như
vậy, pháp như vậy, trí tuệ như vậy, giải thoát như vậy, giải
thoát đường như vậy chăng?”
- Đáp rằng:
“Không biết”.
- “Thế nào,
Xá-lợi-phất, nay, như Ta, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác,
những gì được nhớ nghĩ trong tâm, có giới như vậy, pháp như vậy,
trí tuệ như vậy, giải thoát như vậy, giải thoát đường như vậy,
ngươi có thể biết được chăng?”
- Đáp rằng:
“Không biết”.
- Phật lại bảo
Xá-lợi-phất:
- “Ngươi không
thể biết những điều được nhớ nghĩ trong tâm của Như Lai, Chí
Chân, Đẳng Chánh Giác trong quá khứ, vị lai, hiện tại, vì sao
ngươi lại suy nghĩ một cách xác quyết như thế? Nhân bởi sự kiện
gì mà ngươi phát sinh ý nghĩ như vậy, với tin tưởng xác quyết,
cất tiếng rống sư tử? Nhưng các Sa-môn, Bà-la-môn khác nghe
ngươi nói: Ta biết với tâm quyết định rằng các Sa-môn, Bà-la-môn
trong quá khứ, vị lai và hiện tại, không ai có trí tuệ, thần
túc, công đức, đạo lực sánh bằng Như Lai, họ sẽ không tin lời
ngươi.”
- Xá-lợi-phất
bạch Phật rằng:
- “Con tuy
không thể biết những điều suy nghĩ trong tâm của chư Phật quá
khứ, vị lai, hiện tại; nhưng con có thể biết pháp tổng tướng của
Phật. Như Lai thuyết pháp cho con, càng lúc càng cao, càng lúc
càng vi diệu ;; nói về pháp đen, pháp trắng; pháp duyên, không
duyên; pháp chiếu, không chiếu. Những điều Như Lai dạy, càng
cao, càng vi diệu. Con sau khi nghe, biết từng pháp một ; đạt
đến chỗ rốt ráo của pháp, con tin Như Lai là Đấng Chí Chân, Đẳng
Chánh Giác; tin pháp của Như Lai được khéo phân biệt; tin chúng
của Như Lai thành tựu sự diệt khổ. Trong các pháp thiện, đây là
tối thượng. Thế Tôn có trí tuệ vô dư, thần thông vô dư . Các
Sa-môn, Bà-la-môn trong đời không ai có thể sánh bằng Như Lai,
huống hồ muốn vượt lên trên.
- “Pháp mà Thế
Tôn đã dạy, lại có pháp cao hơn nữa; đó là các chế pháp. Các chế
pháp đó là: Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Bốn thiền,
Năm căn, Năm lực, Bảy giác ý, Tám hiền thánh đạo. Đó là các chế
pháp vô thượng, trí tuệ vô dư, thần thông vô dư. Các Sa-môn,
Bà-la-môn trong đời không ai có thể sánh bằng Như Lai, huống hồ
muốn vượt lên trên.
- “Pháp mà Thế
Tôn đã dạy, lại có pháp cao hơn nữa, đó là chế các nhập. Các
nhập là mắt và sắc, tai và thanh, mũi và hương, lưỡi và vị, xúc
và thân, ý và pháp. Cũng như Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác
quá khứ đã chế nhập này, tức là mắt và sắc,... cho đến, ý và
pháp. Giả sử Như Lai, Chí Chân. Đẳng Chánh Giác vị lai cũng chế
nhập ấy, tức là, mắt và sắc,... cho đến, ý và pháp. Nay Như Lai,
Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, cũng chế nhập ấy, tức là, mắt và
sắc,... cho đến, ý và pháp. Pháp ấy vô thượng, không gì có thể
vượt qua; trí tuệ vô dư, thần thông vô dư; các Sa-môn, Bà-la-môn
trong đời không ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên
trên.
- “Pháp mà Thế
Tôn đã dạy, lại có pháp trên nữa; đó là thức nhập thai. Nhập
thai là, một, loạn nhập thai , loạn trú và loạn xuất; hai, không
loạn nhập, loạn trú, loạn xuất; ba, không loạn nhập, không loạn
trú nhưng loạn xuất; bốn, không loạn nhập, không loạn trú, không
loạn xuất. Kia không loạn nhập, không loạn trú, không loạn xuất,
là sự nhập thai bậc trên. Pháp ấy vô thượng, không gì có thể
vượt qua; trí tuệ vô dư, thần thông vô dư; các Sa-môn, Bà-la-môn
trong đời không ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên
trên.
- “Pháp Như Lai
thuyết, lại có pháp trên nữa, đó là đạo. Nói là đạo, tức là, các
Sa-môn, Bà-la-môn bằng đủ các phương tiện nhập định ý tam-muội ;
rồi tùy tam-muội tâm mà tu niệm giác ý, y dục, y viễn ly, y diệt
tận, y pháp xuất yếu; tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả giác ý, y
dục, y viễn ly, y diệt tận, y pháp xuất yếu. Pháp ấy vô thượng,
không gì có thể vượt qua; trí tuệ vô dư, thần thông vô dư; các
Sa-môn, Bà-la-môn trong đời không ai có thể sánh ngang Như Lai,
huống hồ vượt lên trên.
- “Pháp Như Lai thuyết lại còn có
pháp trên nữa; đó là diệt. Diệt, tức là: Diệt bằng khổ hành
nhưng chậm chứng đắc, cả hai đều thấp kém. Diệt bằng khổ hành,
chóng chứng đắc, duy chỉ khổ hành là thấp kém. Diệt bằng lạc,
chậm chứng đắc, duy chỉ sự chậm là thấp kém. Diệt bằng lạc,
chóng chứng đắc, nhưng không phổ rộng; vì không phổ rộng nên nói
là thấp kém. Như nay Như Lai diệt bằng lạc, chóng chứng đắc, mà
lại phổ rộng, cho đến trời và người đều thấy biến hóa thần
diệu.”
- Xá-lợi-phất
bạch Phật:
- “Những điều
Thế Tôn dạy vi diệu bậc nhất, cho đến nữ nhân cũng có thể thọ
trì, dứt sạch lậu, thành vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát,
tự thân tác chứng ngay trong đời này: sanh tử đã tận, phạm hạnh
đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn hậu hữu. Đó là sự
diệt vô thượng được Như Lai dạy. Pháp ấy vô thượng, không gì có
thể vượt qua; trí tuệ vô dư, thần thông vô dư; các Sa-môn,
Bà-la-môn trong đời không ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ
vượt lên trên.
- “Pháp Như Lai dạy còn có trên
nữa; đó là ngôn thanh tịnh. Ngôn thanh tịnh, tức là, Thế Tôn đối
với các Sa-môn, Bà-la-môn không nói lời hư dối vô ích; nói không
cốt để hơn, không vì phe đảng, lời nói nhu hòa, không sai thời
tiết, lời nói không phát suông. Đó gọi là ngôn thanh tịnh. Pháp
ấy vô thượng, không gì có thể vượt qua; trí tuệ vô dư, thần
thông vô dư; các Sa-môn, Bà-la-môn trong đời không ai có thể
sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên.
- “Pháp Như Lai
dạy còn có trên nữa, đó là kiến định. Nói kiến định, là nói
rằng, có Sa-môn, Bà-la-môn, bằng đủ phương tiện nhập định ý tam
muộitam-muội. Tùy tam-muội tâm, quán từ đầu đến chân, từ chân
đến đầu, trong ngoài lớp da, chỉ có những thứ bất tịnh như tóc,
lông, móng, gan, phổi, ruột, dạ dày, lá lách, thận tức là năm
tạng, mồ hôi, mỡ, tủy, não, phân, nước tiểu, nước mũi, nước mắt,
chỗ hôi thối bất tịnh, không một cái gì đáng tham. Đó là kiến
định thứ nhất.
- “Các Sa-môn, Bà-la-môn, bằng đủ
phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy tam muội tam-muội tâm,
loại bỏ các thứ bất tịnh bên trong và ngoài da, chỉ quán xương
trắng và răng. Đó là kiến định thứ hai.
- “Các Sa-môn,
Bà-la-môn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy
tam-muội tâm, loại bỏ xương trắng và các thứ bất tịnh trong
ngoài da, chỉ quán tâm thức trú ở chỗ nào, ở đời này hay đời
sau? Đời này không gián đoạn, đời sau không gián đoạn; đời này
không giải thoát, đời sau không giải thoát. Đó là kiến định thứ
ba.
- “Các Sa-môn,
Bà-la-môn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý tam muộitam-muội,
tùy tam muộitam-muội tâm, loại bỏ các thứ bất tịnh trong ngoài
da và xương trắng, lại trùng quán thức. Thức ở đời sau, không ở
đời này; đời nay gián đoạn, đời sau không đoạn; đời nay giải
thoát, đời sau không giải thoát. Đó là kiến định thứ tư.
- “Các Sa-môn,
Bà-la-môn, bằng đủ phưuơng tiện, nhập định ý tam muộitam-muội,
tùy tam muộitam-muội tâm, loại bỏ các thứ bất tịnh trong ngoài
da và xương trắng, lại trùng quán thức; không ở đời này, không ở
đời sau, cả hai đều gián đoạn, cả hai đều giải thoát. Đó là kiến
định thứ năm. Pháp ấy vô thượng, không gì có thể vượt qua; trí
tuệ vô dư, thần thông vô dư; các Sa-môn, Bà-la-môn trong đời
không ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên.
- “Pháp Như Lai
thuyết lại còn có trên nữa, đó là thường pháp. Thường pháp là,
các Sa-môn, Bà-la-môn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý
tam-muội, tùy tam-muội tâm, nhớ lại hai mươi thành kiếp và hoại
kiếp của thế gian, vị ấy nói: Thế gian thường tồn, đây là thật,
ngoài ra là dối. Vì sao? Vì do tôi nhớ lại, cho nên biết có
thành kiếp và hoại kiếp ấy. Quá khứ còn lại thì tôi không biết.
Thành kiếp, hoại kiếp vị lai, tôi cũng không biết. Người ấy sáng
và chiều do vô trí mà nói rằng: Thế gian thường tồn, duy chỉ đây
là thật, ngoài ra là dối. Đó là thường pháp thứ nhất.
- “Các Sa-môn,
Bà-la-môn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy
tam-muội tâm, nhớ lại bốn mươi kiếp thành và kiếp hoại, vị ấy
nói: Thế gian này thường, duy chỉ đây là thật, ngoài ra là dối.
Vì sao? Vì tôi nhớ lại nên biết có thành kiếp, hoại kiếp. Tôi
còn biết hơn thế nữa, biết thành kiếp, hoại kiếp. Nhưng tôi
không biết sự thành và hoại của vị lai. Điều đó nói, biết khởi
thủy mà không biết chung cuộc. Người ấy sáng mai, chiều tối, do
vô trí mà nói rằng: Thế gian thường tồn, duy chỉ đây là thật,
ngoài ra là dối. Đó là thường pháp thứ hai.
- “Các Sa-môn,
Bà-la-môn, bằng đủ phương tiện, nhập định ý tam-muội, tùy
tam-muội tâm, nhớ lại tám mươi thành kiếp, hoại kiếp, vị ấy nói
rằng: Thế gian này thường, ngoài ra là dối. Vì sao? Tôi nhớ lại
mà biết có thành kiếp, hoại kiếp; lại còn biết thành kiếp, hoại
kiếp quá khứ hơn thế nữa. Thành kiếp, hoại kiếp vị lai tôi cũng
biết cả. Người ấy sớm chiều do vô trí mà nói lời này: Thế gian
thường còn, chỉ đây là thật, ngoài ra là dối. Đây là pháp thường
tồn thứ ba. Pháp ấy vô thượng, không gì có thể vượt qua; trí tuệ
vô dư, thần thông vô dư; các Sa-môn, Bà-la-môn trong đời không
ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên.
- “Pháp mà Như
Lai thuyết còn có trên nữa, đó là quán sát. Quán sát là, có
Sa-môn, Bà-la-môn, do tưởng mà quán sát, tâm kia thú hướng như
thế, tâm này thú hướng như thế. Tâm ấy khi phát tưởng như vậy,
hoặc hư hoặc thật. Đó là quán sát thứ nhất.
- “Các Sa-môn,
Bà-la-môn, không do tưởng mà quán sát, nhưng hoặc nghe lời của
chư Thiên và phi nhân, mà nói với người kia rằng: Tâm ngươi như
vậy, tâm ngươi như vậy. Điều này cũng hoặc thật, hoặc hư. Đó là
quán sát thứ hai.
- “Các Sa-môn,
Bà-la-môn, không do tưởng mà quán sát, cũng không nghe lời của
chư Thiên hay phi nhân, mà tự quán sát thân mình, lại nghe lời
người khác, mà nói với người kia rằng: Tâm của ngươi như vậy,
tâm của ngươi như vậy. Điều này cũng có thật, cũng có hư. Đó là
quán sát thứ ba.
- “Hoặc có
Sa-môn, Bà-la-môn, không do tưởng quán sát, cũng không nghe lời
chư Thiên và phi nhân nói, lại không tự quán sát, hay quán sát
người khác; nhưng, trừ giác quán rồi, đắc định ý tam-muội, quán
sát tâm người khác, mà nói với người ấy rằng: Tâm của ngươi như
vậy, tâm của ngươi như vậy. Quán sát như thế là chân thật. Đó là
quán sát thứ tư. Pháp ấy vô thượng, không gì có thể vượt qua;
trí tuệ vô dư, thần thông vô dư; các Sa-môn, Bà-la-môn trong đời
không ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên.
- “Pháp Như Lai
thuyết lại còn có trên nữa, đó là giáo giới. Giáo giới là, hoặc
có trường hợp có người không trái với giáo giới, dứt sạch hữu
lậu thành vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, ngay trong
đời này tự thân tác chứng: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã vững,
điều cần làm đã làm xong, không còn hậu hữu. Đó là giáo giới thứ
nhất.
- “Có người
không trái với giáo giới, dứt sạch năm hạ phần kết, sau khi diệt
độ chốn này sẽ không trở lại cõi này nữa. Đó là giáo giới thứ
hai.
- “Hoặc có
người không trái giáo giới, ba kết đã hết, dâm nộ si mỏng, đắc
Tư-đà-hàm, sẽ trở lại đời này mà diệt độ. Đó là giáo giới thứ
ba.
- “Hoặc có
người không trái giáo giới, ba kết đã hết, đắc Tu-đà-hoàn, tối
đa bảy lần trở lại, ắt sẽ thành đạo quả, không đọa ác thú. Đó là
giáo giới thứ tư. Pháp ấy vô thượng, không gì có thể vượt qua;
trí tuệ vô dư, thần thông vô dư; các Sa-môn, Bà-la-môn trong đời
không ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên.
- “Pháp mà Như
Lai thuyết lại còn có trên nữa, là thuyết pháp cho người khác,
khiến cho giới thanh tịnh. Giới thanh tịnh là, có Sa-môn,
Bà-la-môn, có lời nói chí thành, không hề hai lưỡi, thường tự
kính cẩn, dẹp bỏ ngủ nghỉ, không mang lòng tà siểm, miệng không
nói dối, không dự đoán cát hung cho người, không tự mình xưng
thuyết, đem sở đắc của người này tỏ cho ngươòi khác để cầu thêm
lợi từ người khác, tọa thiền tu trí, biện tài vô ngại, chuyên
niệm không loạn, tinh cần không biếng nhác. Pháp ấy vô thượng,
không gì có thể vượt qua; trí tuệ vô dư, thần thông vô dư; các
Sa-môn, Bà-la-môn trong đời không ai có thể sánh ngang Như Lai,
huống hồ vượt lên trên.
- “Pháp mà Như
Lai thuyết lại còn có trên nữa, đó là giải thoát trí. Nói là
giải thoát trí, đó là, Thế Tôn do nhân duyên của người khác mà
nội tâm tư duy rằng: Người này là Tu-đà-hoàn; người này là
Tư-đàa-hoàn; người này là A-na-hàm, người này là A-la-hán. Pháp
ấy vô thượng, không gì có thể vượt qua; trí tuệ vô dư, thần
thông vô dư; các Sa-môn, Bà-la-môn trong đời không ai có thể
sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên.
- “Pháp mà Như
Lai thuyết lại còn có trên nữa, đó là tự thức túc mạng trí
chứng. Các Sa-môn, Bà-la-môn, bằng đủ các phương tiện, nhập định
ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, tự mình nhớ lại vô số việc đời từ
trước, một đời, hai đời,.... cho đến trăm ngàn thành kiếp, hoại
kiếp, vô số như vậy, ta sanh ở chỗ kia, có tên như vậy, chủng
tộc như vậy, họ như vậy, thọ mạng như vậy, ẩm thực như vậy, khổ
lạc như vậy; từ chỗ này sanh nơi kia; từ nơi kia sanh đến chỗ
này, với nhiều tướng dạng khác nhau, tự nhớ vô số kiếp sự đời
xưa, ngày đêm thường nghĩ nhớ những nơi đã trải qua. Đây là sắc.
Đây là vô sắc. Đây là tưởng. Đây là vô tưởng. Đây là phi vô
tưởng, thảy đều nhớ biết hết. Pháp ấy vô thượng, không gì có thể
vượt qua; trí tuệ vô dư, thần thông vô dư; các Sa-môn, Bà-la-môn
trong đời không ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên
trên.
- “Pháp Như Lai
thuyết còn có pháp trên nữa, đó là thiên nhãn trí. Thiên nhãn
trí là, các Sa-môn, Bà-la-môn, bằng đủ các phương tiện, nhập
định ý tam-muội, từ tam-muội tâm, quán chúng sanh, hoặc sống,
hoặc chết, có sắc tốt, sắc xấu, định mệnh lành, định mệnh dữ,
hoặc đẹp, hoặc xấu, tùy theo chỗ làm, thảy đều thấy hết, biết
hết. Hoặc có chúng sanh thành tựu thân ác hành, khẩu ác hành, ý
ác hành, phỉ báng Hiền thánh, tin theo tà kiến điên đảo, khi
thân hoại mạng chung đọa ba đường dữ. Hoặc có chúng sanh có thân
hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện, không báng bổ Hiền
thánh, chánh kiến, tín hành, khi thân hoại mạng chung sanh lên
trời người. Bằng thiên nhãn thanh tịnh, quán chúng sanh, thấy
biết như thật. Pháp ấy vô thượng, không gì có thể vượt qua; trí
tuệ vô dư, thần thông vô dư; các Sa-môn, Bà-la-môn trong đời
không ai có thể sánh ngang Như Lai, huống hồ vượt lên trên.
- “Pháp mà Như
Lai thuyết lại còn có trên nữa, đó là thần túc chứng. Thần túc
chứng là, các Sa-môn, Bà-la-môn, bằng đủ các phương tiện, nhập
định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, thực hiện vô số thần lực; có
thể biến một thân thành vô số thân; từ vô số thân hợp làm một
thân; vách đá không trở ngại; ngồi kiết già giữa hư không; cũng
như chim bay; vào ra lòng đất như ở trong nước; đi trên nước như
đi trên đất; thân mình bốc khói, bốc lửa, như đống lửa cháy rực;
lấy tay sờ mặt trời, mặt trăng; đứng cao đến trời Phạm thiên.
Nếu Sa-môn, Bà-la-môn gọi đó là thần túc, thì nên bảo họ rằng:
“Ccó thần túc như vậy, không phải không có. Nhưng loại thần túc
ấy thấp kém, hèn hạ, là việc làm của phàm phu, không phải điều
mà Hiền thánh tu tập. Nếu Tỳ-kheo đối với sắc thế gian yêu thích
mà không nhiễm, sau khi xả ly sắc ấy, làm việc đáng làm, ấy mới
gọi là thần túc của Hiền thánh. Đối với sắc không đáng ưa cũng
không ghét, sau khi xả ly sắc ấy, làm việc nên làm, ấy mới gọi
là thần túc của Hiền thánh. Đối với sắc mà thế gian yêu, sắc mà
thế gian không yêu, lìa bỏ cả hai, tu bình đẳng xảa,, chuyên
niệm không quên, ấy mới gọi là thần túc của Hiền thánh.
- “Cũng như Ðức
Thế Tôn tinh tấn dũng mãnh, có đại trí tuệ, có tri có giác, đắc
đệ nhất giác, cho nên gọi là Đẳng giác. Thế Tôn nay cũng không
hoan lạc nơi dục ;; không hoan lạc nơi điều tu tập của phàm phu
thấp kém, cũng không nhọc nhằần siêng năng để chịu các thứ khổ
não. Thế Tôn nếu muốn loại trừ pháp xấu ác, có giác có quán, có
hỷ lạc do định sanh, chứng nhập Sơ thiền, thì như thế Ngài liền
có thể loại trừ pháp xấu ác, có giác có quán, có hỷ lạc do định
sanh, chứng nhập Sơ thiền. Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, cũng
vậy. Ngài tinh tấn, dũng mãnh, có đại trí tuệ, có tri, có giác,
đắc đệ nhất giác, nên gọi là Đẳng giác.”
- Phật bảo
Xá-lợi-phất :
- “Nếu có dị
học ngoại đạo đến hỏi ngươi rằng:: Trong các Sa-môn, Bà-la-môn
quá khứ có ai sánh bằng Sa-môn Cù-đàm chăng? Ngươi sẽ trả lời
như thế nào? Người ấy lại hỏi: Trong các Sa-môn, Bà-la-môn vị
lai có ai sánh bằng Sa-môn Cù-đàm chăng? Ngươi sẽ trả lời như
thế nào? Kia lại hỏi: Trong các Sa-môn, Bà-la-môn hiện tại có ai
sánh bằng Sa-môn Cù-đàm chăng? Ngươi sẽ trả lời như thế nào?”
- Xá-lợi-phất
liền trả lời:
- “Giả sử được hỏi rằng: Trong các
Sa-môn, Bà-la-môn quá khứ có ai sánh bằng Sa-môn Cù-đàm chăng?
Con sẽ trả lời rằng: Có. Giả sử được hỏi: Trong các Sa-môn,
Bà-la-môn vị lai có ai sánh bằng Sa-môn Cù-đàm chăng? Con sẽ trả
lời rằng: Có. Giả sử được hỏi: Trong các Sa-môn, Bà-la-môn hiện
tại có ai sánh bằng Sa-môn Cù-đàm chăng? Con sẽ trả lời rằng:
Không.”
- Phật bảo
Xá-lợi-phất :
- “Dị học ngoại
đạo kia lại hỏi: Vì sao nói là có? Và vì sao nói là không? Ngươi
sẽ trả lời như thế nào?”
- Xá-lợi-phất
đáp:
- “Con sẽ trả
lời người ấy rằng: Các Bậc Tam-da-tam-phật quá khứ cùng sánh
bằng Như Lai. Các Tam-da-tam-phật vị lai cùng sánh bằng Như Lai.
Nhưng con tự thân nghe từ Phật, rằng không có trường hợp có thể
nói có vị Tam-da-tam-phật hiện tại nào khác cùng sánh với Như
Lai. Bạch Thế Tôn, con theo chỗ được nghe, y pháp, thuận pháp,
mà trả lời như vậy, có phải là trả lời đúng chăng?”
- Phật nói:
- “Trả lời như
vậy là y pháp, thuận pháp, không trái. Sở dĩ như vậy là vì, có
các Đức Tam-da-tam-phật quá khứ sánh bằng Ta. Có những vị
Tam-da-tam-phật vị lai sánh bằng Ta. Nhưng không có trường hợp
để nói rằng có hai Đức Phật cùng xuất hiện thế gian cùng một
lần.”
- Lúc bấy giờ
Tôn giả Uất-đà-di đứng sau Phật, đang cầm quạt quạt Phật. Phật
nói với Uất-đà-di:
- “Uất-đà-di,
ngươi hãy quán sát sự ít dục, biết đủ của Thế Tôn. Nay Ta có
thần lực lớn, có uy đức lớn, mà ít dục, biết đủ, không hoan lạc
trong các dục. Uất-đà-di, nếu các Sa-môn, Bà-la-môn khác ở trong
pháp này mà có thể tinh cần khó nhọc, chứng đắc một pháp, vị ấy
sẽ dựng phướn mà bố cáo bốn phương xa rằng: Nay Như Lai này ít
dục, biết đủ. Nay hãy quán sát sự ít dục, biết đủ của Như Lai.
Như Lai có thần lực lớn, có uy đức lớn, không cần đến các dục.”
- Rồi thì, Tôn giả Uất-đà-di sửa y
phục ngay ngắn, trịch áo bày vai hữu, qùy gối phải xuống đất,
chắp tay bạch Phật rằng:
- “Kỳ diệu
thay, bạch Thế Tôn, ít dục, biết đủ như Thế Tôn. Thế Tôn có thần
lực lớn, có uy đức lớn, không cần đến các dục. Nếu có Sa-môn,
Bà-la-môn khác, ở trong pháp này mà tinh cần khó nhọc chứng đắc
một pháp, vị ấy sẽ dựng phướn tuyên cáo bốn phương xa rằng: Thế
Tôn hiện nay là Bậc ít dục, biết đủ. Xá-lợi-phất, ngài hãy
thuyết pháp này cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo- ni, Ưu- bà- tắc, Ưu-
bà- di. Những người ấy nếu có điều nghi ngờ đối với Phật, Pháp,
Tăng, thì sau khi nghe pháp này sẽ không còn ở trong lưới nghi
nữa.”
- Bấy giờ Thế
Tôn nói với Xá-lợi-phất:
- “Ngươi hãy
nhiều lần giảng thuyết pháp này cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Vì sao? Vì những người ấy nếu có nghi ngờ
đối với Phật, Pháp, Tăng, đối với đạo, thì sau khi nghe ngươi
giảng thuyết sẽ được thông tỏ.”
- Xá-lợi-phất
đáp:
- “Kính vâng,
bạch Thế Tôn.”
- Rồi thì, Xá-lợi-phất nhiều lần
giảng thuyết pháp này cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di, vì để khiến họ được tự mình thanh tịnh, do đó được gọi
là “Thanh Tịnh kinh”.
- Lúc bấy giờ,
Xá-lợi-phất nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành
- --o0o--
|
|