|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH TRƯỜNG A
HÀM
- Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá &
Trúc Phật Niệm
- Việt Dịch: Thích Tuệ Sỹ
-
- PHẦN III
- 20. KINH
A-MA-TRÚ
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời,
Phật du hành nước Câu-tát-la, cùng chúng Đại Tỳ-kheo một
ngàn hai trăm năm mươi người, rồi đến Y-xa-năng-già-la, thôn
của một người Bà-la-môn ở Câu-tát-la. Ngài nghỉ đêm tại rừng
Y-xa.
- Lúc ấy,
có một người Bà-la-môn tên Phất-già-la-sa-la, đang dừng chân
ở thôn Úc-già-la. Thôn ấy sung túc, nhân dân đông đúc, là
một thôn được vua Ba-tư-nặc phong cho Bà-la-môn
Phất-già-la-sa-la làm phạm phần. Người Bà-la-môn này, từ bảy
đời nay cha mẹ đều chân chánh, không bị người khác khinh
thường ;; đọc tụng thông suốt ba bộ cựu điển, có thể phân
tích các loại kinh thư, lại giỏi phép xem tướng đại nhân,
nghi lễ tế tự; có năm trăm đệ tử, dạy dỗ không bỏ phế. Ông
có một đệ tử Ma-nạp tên là A-ma-trú, từ bảy đời nay cha mẹ
đều chân chánh, không bị người khác khinh thường, đọc tụng
thông suốt ba bộ cựu điển, có thể phân tích các loại kinh
thư và cũng giỏi phép xem tướng đại nhân, nghi lễ tế tự và
cũng có năm trăm đệ tử Ma-nạp, dạy dỗ không bỏ phế, không
khác với thầy mình.
- Lúc ấy,
Bà-la-môn Phất-già-la-sa-la nghe đồn Sa-môn Cù-đàm Thích
tửư,, xuất gia, thành đạo, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một
ngàn hai trăm năm mươi người, đến Y-xa-năng-già-la, thôn của
Bà-la-môn, đang nghỉ trong rừng Y-xa; có tiếng tăm lớn lưu
truyền trong thiên hạ, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh
Giác, đầy đủ mười hiệu, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma,
hoặc Ma thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, đã tự mình chứng nghiệm,
rồi thuyết pháp cho người khác, khéo léo khoảng đầu, khoảng
giữa, khoảng cuối, có đủ nghĩa và vị, phạm hạnh thanh tịnh.
Với Bậc Chân Nhân như vậy, ta nên đến thăm viếng. Ta nay nên
đến xem Sa-môn Cù-đàm để xác định có ba mươi hai tướng,
tiếng tăm đồn khắp, có đúng sự thật chăng? Nên bằng duyên cớ
nào để có thể thấy tướng của Phật? Rồi lại nghĩ: Nay đệ tử
ta A-ma-trú, từ bảy đời trở lại cha mẹ đều chân chánh, không
bị người khác khinh thường, đọc tụng thông suốt ba bộ cựu
điển, có thể phân tích các loại kinh thư, lại giỏi phép xem
tướng đại nhân, nghi lễ tế tự; duy chỉ người này có thể sai
đi xem Phật, để biết có các tướng ấy không.
- Rồi
Bà-la-môn liền sai đệ tử A-ma-trú, bảo rằng:
- “Ngươi
hãy đến xem Sa-môn Cù-đàm kia có thật có ba mươi hai tướng
hay không, hay là dối?”
- A-ma-trú
liền thưa thầy ngay rằng:
- “Con làm
thế nào để nghiệm xét tướng của Cù-đàm, để biết thật hay
dối?”
- Người
thầy trả lời:
- “Nay ta
bảo cho ngươi biết, nếu thật có ba mươi hai tướng đại nhân,
chắc chắn có hai đường, không nghi ngờ gì nữa. Nếu tại gia,
sẽ làm Chuyển luân thánh vương, cai trị bốn thiên hạ, bằng
pháp trị, giáo hóa, thống lãnh nhân dân, đầy đủ bảy báu:
- “1. Báu
bánh xe vàng.
- “2. Báu
voi trắng.
- “3. Báu
ngựa xanh.
- “4. Báu
thần châu.
- “5. Báu
ngọc nữ.
- “6. Báu
cư sĩ.
- “7. Báu
điển binh.
- “Vua có
một ngàn người con, dũng mãnh, đa trí, hàng phục kẻ thù,
không cần dùng vũ khí mà thiên hạ thái bình, nhân dân trong
nước không có điều kinh sợ. Còn nếu không ham thích thế
gian, vị ấy xuất gia cầu đạo, sẽ thành Như Lai, Chí Chân,
Đẳng Chánh Giác đầy đủ mười hiệu. Theo đó mà có thể biết
thực hư của Cù-đàm.”
- A-ma-trú
vâng lời thầy sai bảo, bèn thắng cỗ xe báu, dẫn theo năm
trăm500 đệ tử Ma- nạp, vào lúc sáng sớm, ra khỏi thôn, đi
đến rừng Y-xa. Đến nơi, xuống xe, đi bộ đến chỗ Thế Tôn.
Trong lúc cùng đàm luận nghĩa lý, nếu Thế Tôn đang ngồi thì
Ma-nạp này đứng; nếu Thế Tôn đứng thì Ma-nạp này ngồi. Phật
nói với Ma-nạp rằng:
- “Phải
chăng ngươi đã từng đàm luận với các Bà-la-môn trưởng
thượng, kỳ cựu như thế?”
- Ma-nạp
bạch Phật:
- “Nói như
vậy nghĩa là sao?”
- Phật bảo
Ma-nạp:
- “Trong
lúc cùng đàm luận, Ta ngồi thì ngươi đứng; Ta đứng thì ngươi
ngồi. Phép đàm luận của thầy ngươi phải là như vậy chăng?”
- Ma-nạp
bạch Phật:
- “Theo
phép Bà-la-môn của tôi, ngồi thì cùng ngồi, đứng thì cùng
đứng, nằm thì cùng nằm. Nay với hạng Sa-môn hủy hình, góa
vợ, hèn hạ, thấp kém, tập theo pháp đen tối,, thì khi tôi
cùng bọn người ấy luận nghĩa, không theo phép ngồi đứng.”
- Bấy giờ,
Thế Tôn liền nói với Ma-nạp ấy rằng:
- “Khanh,
Ma-nạp, chưa được dạy kỹ “.”
- Khi
Ma-nạp nghe Thế Tôn gọi mình là khanh, lại nghe bị chê là
chưa được dạy kỹ, tức thì nổi giận, kích bác Phật rằng:
- “Con nhà
họ Thích này hay có lòng độc ác, không có phép tắc.”
- Phật bảo
Ma nạpMa-nạp:
- “Những
người họ Thích có lỗi gì với khanh?”
- Ma-nạp
nói:
- “Xưa, một
lần, tôi có chút duyên sự của thầy tôi với họ Thích ở nước
Ca-duy-việt. Khi ấy có nhiều người họ Thích có chút nhân
duyên nên tập họp tại giảng đường. Thấy tôi từ xa đến, họ
khinh mạn, đùa cợt, không thuận nghi pháp, không biết kính
trọng nhau.”
- Phật bảo
Ma-nạp:
- “Các
người họ Thích kia khi ở trong nước mình có thể vui đùa thỏa
thích. Cũng như chim bay, đối với khu rừng có tổ của nó, ra
vào tự tại. Cũng vậy, các người họ Thích khi ở trong nước
mình có thể vui đùa tự tại.”
- Ma-nạp
nói với Phật:
- “Đời có
bốn chủng tánh:: Sát-lỵ, Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la. Ba
chủng tánh kia thường tôn trọng, cung kính, cúng dường
Bà-la-môn. Những người họ Thích kia không nên như vậy. Họ
Thích tôi tớ kia, hèn mọn, thấp kém, mà không cung kính
Bà-la-môn như ta.”
- Bấy giờ,
Thế Tôn nghĩ thầm rằng: “Gã Ma-nạp này nhiều lần mắng nhiếc
và nói đến từ tôi tớ. Vậy Ta có nên nói duyên do của nó để
nó khuất phục chăng?" Rồi Phật bảo Ma-nạp:
- “Chủng
tánh ngươi là gì?”
- Ma-nạp
trả lời:
- “Tôi
chủng tánh Thanh vương “.”
- Phật bảo
Ma-nạp:
- “Chủng
tánh ngươi như thế là thuộc dòng dõi tôi tớ của dòng họ
Thích.”
- Lúc ấy,
năm trăm đệ tử Ma- nạp kia thảy đều lớn tiếng nói với Phật
rằng:
- “Chớ nói
như vậy. Chớ nói Ma-nạp này thuộc dòng dõi tôi tớ của dòng
họ Thích. Vì sao? Đại Ma-nạp này thật sự là con nhà tông
tộc, nhan mạo đoan chánh, tài biện luận đúng lúc, nghe
nhiều, học rộng, đủ để cùng đàm luận trao đổi với Cù-đàm.”
- Thế Tôn
nói với năm trăm Ma-nạp:
- “Nếu thầy
của các ngươi không đúng như lời các ngươi nói, Ta sẽ bỏ qua
thầy ngươi mà luận nghĩa với các ngươi. Nếu thầy ngươi có
đúng như lời các ngươi nói, các ngươi nên im lặng để Ta luận
với thầy các ngươi.”
- Năm trăm
Ma-nạp bấy giờ bạch Phật rằng:
- “Chúng
tôi tất cả sẽ im lặng. Xin Ngài luận với thầy của tôi.”
- Bấy giờ
Thế Tôn nói với A-ma-trú:
- “Trong
thời quá khứ lâu dài xa xưa, có vị vua tên Thanh Ma. Vua có
bốn người con trai. Thứ nhất tên Diện Quang. Thứ hai tên
Tượng Thực. Thứ ba tên Lộ Chỉ. Thứ tư tên Trang Nghiêm. Bốn
người con của vua có chút vi phạm bị vua đuổi khỏi nước, đến
phía Nam Tuyết sơn, sống trong rừng cây thẳng . Mẹ của bốn
người con cùng với các gia thuộc đều nghĩ nhớ họ, cùng nhau
nhóm họp bàn, rồi đi đến chỗ Thanh Ma vương, tâu rằng:
- “Đại
vương, nên biết, bốn đứa con của chúng ta xa cách đã lâu,
nay tôi muốn đi thăm.”
- Vua nói:
- “Muốn đi
thì tùy ý.”
- “Người mẹ
và các quyến thuộc nghe vua dạy, liền đi đến phía nNam Tuyết
sơn, trong rừng cây thẳng, đến chỗ bốn người con. Các bà mẹ
nói:
- “Con gái
của ta gảã cho con trai ngươi. Con trai ngươi gảã cho con
gái ta..
- “Rồi họ
phối nhau thành vợ chồng. Sau sinh con trai, dung mạo đoan
chánh.
- “Lúc ấy,
vua Thanh Ma nghe bốn người con mình được các bà mẹ gả cho
các con gái làm vợ, sanh con trai đoan chánh. Vua rất vui
mừng, thốt lên lời này: Đúng là con nhà họ Thích. Đúng là
con trai họ Thích. Vì có thể tự lập, nhân đó đặt tên là
Thích. Thanh Ma vương chính là tiên tổ họ Thích vậy. Vương
có một người áo xanh, tên gọi Phương Diện, nhan mạo đoan
chánh, cùng thông giao thông với một người Bà-la-môn bèn có
thai, sanh một Ma-nạp, vừa rớt xuống đất là biết nói. Nó nói
với cha mẹ rằng: Hãy tắm cho con, trừ sạch dơ bẩn. Sau này
lớn lên, con sẽ báo ơn. Vì mới sanh đã biết nói nên đặt tên
Thanh vương. Như nay kẻ mới sanh mà biết nói thì ai cũng sợ,
đặt tên là Đáng Sợ. Kia cũng vậy. Vừa sanh đã biết nói nên
được đặt tên là Thanh vương. Từ đó đến nay, Bà-la-môn lấy
Thanh vương làm họ.”
- Lại bảo
Ma-nạp:
- “Ngươi có
bao giờ nghe các Bà-la-môn kỳ cựu, trưởng thượng, nói về
nguồn gốc chủng tánh này chưa?”
- Lúc ấy
Ma-nạp im lặng không trả lời. Hỏi lần nữa. Lại cũng không
trả lời, Phật hỏi đến ba lần, bảo Ma-nạp rằng:
- “Ta hỏi
đến ba lần. Ngươi hãy nhanh chóng trả lời. Nếu ngươi không
trả lời, Mật Tích lực sĩ , tay cầm chày vàng đứng hai bên Ta
sẽ đánh cho đầu ngươi vỡ thành bảy mảnh.”
- Lúc ấy
Mật Tích lực sĩ tay cầm chày vàng, đang đứng giữa hư không,
ngay trên đầu Ma-nạp. Nếu Ma-nạp không trả lời câu hỏi đúng
lúc, sẽ hạ chày vàng đánh vỡ đầu Ma- nạp. Phật bảo Ma- nạp:
- “Ngươi
hãy ngước nhìn xem.”
- Ma
nạpMa-nạp ngước nhìn, thấy Mật Tích lực sĩ tay cầm chày vàng
đứng giữa hư không. Thấy vậy, rất đỗi kinh hãi, toàn thân
lông dựng đứng, liền rời chỗ ngồi, đếền gần Thế Tôn, nương
nơi Thế Tôn để được cứu hộ. Ma-nạp bạch Phật:
- “Thế Tôn
hãy hỏi. Con sẽ trả lời.”
- Phật hỏi
ma nạpMa-nạp:
- “Ngươi có
bao giờ nghe các Bà-la-môn kỳ cựu, trưởng thượng, nói về
nguồn gốc chủng tánh này chưa?”
- Ma-nạp
đáp:
- “Con tin
là đã từng nghe. Thật có sự kiện ấy.”
- Khi ấy
năm trăm Ma-nạp thảy cùng cất tiếng bảo nhau rằng:
- “A-ma-trú
này thật sự thuộc dòng họ tôi tớ của Thích- ca. Sa-môn
Cù-đàm nói sự thật, chúng ta vô cớ ôm lòng khinh mạn.”
- Bấy giờ Thế Tôn nghĩ thầm:
“Năm trăm Ma-nạp này về sau tất có lòng khinh mạn, gọi
Ma-nạp này là đày tớ. Nay hãy phương tiện diệt cái tên đày
tớ ấy." “Ngài liền nói với năm trăm Ma-nạp:
- “Các
ngươi cẩn thận, chớ gọi người này là đày tớ. Vì sao? Tiên tổ
Bà-la-môn của người này là một đại tiên nhân, có oai lực
lớn, chinh phạt Thanh Ma vương, đòi lấy con gái. Vì sợ, vua
bèn gả con gái cho.”
- Do lời
này của Phật, Ma-nạp tránh được tên đày tớ.
- Rồi Thế
Tôn bảo A-ma-trú:
- “Thế nào,
Ma-nạp? Nếu con gái Sát-lỵ có bảy đời cha mẹ chân chánh
không bị khinh khi, nhưng được gả cho một người Bà-la-môn
làm vợ, sanh một người con trai, là ma nạpMa-nạp, dung mạo
đoan chánh. Người con trai này khi vào giữa những người
Sát-lỵ có được mời ngồi, nhận nước, tụng đọc pháp Sát-lỵ
không?”
- Đáp:
“Không được”.
- “Có được
sự nghiệp tài sản của cha không?”
- Đáp:
“Không được”.
- “Có được
kế thừa chức của cha không?”
- Đáp:
“Không được”.
- “Thế nào,
Ma-nạp? Nếu con gái Bà-la-môn, có cha mẹ bảy đời chân chánh
không bị người khinh khi, được gả cho người Sát-lỵ làm vợ,
sanh một người con, dung mạo đoan chánh. Người này khi vào
giữa chúng Bà-la-môn, có được mời ngồi, được nhận nước
không?”
- Đáp:
“Được”.
- “Được
tụng đọc pháp Bà-la-môn, được hưởng gia tài của cha, thừa kế
chức vụ của cha không?”
- Đáp:
“Được”.
- “Thế nào,
Ma-nạp? Nếu người Bà-la-môn bị Bà-la-môn tẩn xuất, chạy vào
chủng tánh Sát-lỵ, có được chỗ ngồi, được nước, được tụng
đọc pháp Sát-lỵ không?”
- Đáp:
“Không được”.
- “Được
hưởng di sản của cha, kế thừa chức vụ của cha không?”
- Đáp:
“Không”.
- “Nếu
chủng tánh Sát-lỵ bị Sát-lỵ tẩn xuất sang Bà-la-môn, có được
chỗ ngồi, được mời nước, tụng đọc pháp Bà-la-môn chăng?”
- Đáp:
“Được”.
- “Vậy thì,
này Ma-nạp, giữa người nữ, nữ Sát-lỵ trỗi hơn. Giữa người
nam, nam Sát-lỵ trỗi hơn. Không phải là Bà-la-môn vậy.”
- Phạm
thiên tự mình nói bài kệ rằng:
- Sanh
Sát-lỵị tối thắng,
- Chủng
tánh cũng thuần chơn.
- Minh,
Hạnh thảy đầy đủ,
- Tối thắng
giữa trời, người.
- Phật bảo
Ma-nạp:
- “Phạm
thiên nói bài kệ này, thật là nói khéo chớ không phải không
khéo. Ta công nhận như vậy, là vì sao? Nay, như Ta, Như Lai,
Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, cũng nói nghĩa đó:
- Sanh,
Sát-lỵị tối thắng,
- Chủng
tánh cũng thuần chơn.
- Minh,
Hạnh thảy đầy đủ,
- Tối
thắng giữa Trời Người”.
- Ma-nạp
bạch Phật:
- “Cù-đàm,
thế nào là Vô thượng sĩ, đầy đủ Minh và Hạnh?? “”
- Phật bảo
Ma-nạp:
- “Hãy nghe
kỹ, hãy nghe kỹ, hãy suy nghĩ kỹ, Ta sẽ nói cho.”
- Đáp:
“Kính vâng. Rất muốn được nghe”.
- Phật bảo
Ma-nạp:
- “Nếu Đức
Như Lai xuất hiện ở đời, là Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, là Đấng Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn; ở
giữa chư Thiên, Người đời, Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên ma, Phạm
vương, tự mình chứng ngộ, rồi thuyết pháp cho người. Lời nói
khoảng đầu thiện, khoảng giữa thiện, khoảng cuối cũng thiện,
đầy đủ nghĩa và vị, khai mở hạnh thanh tịnh. Nếu cư sĩ, con
trai cư sĩ và các chủng tánh khác, nghe chánh pháp mà sanh
lòng tín ngưỡng, do tâm tín ngưỡng mà nghĩ như vầy: Ta nay
tại gia, vợ con ràng buộc, không thể thanh tịnh thuần tu
phạm hạnh. Ta hãy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu
đạo. Người ấy, sau đó từ bỏ gia đình tài sản, từ giã thân
tộc, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Cũng
đồng với những người xuất gia, xả bỏ các thứ trang sức, đầy
đủ các giới hạnh, không làm hại chúng sanh.
- “Xả bỏ
dao gậy, tâm hằng tàm quý, từ niệm đối với hết thảy. Đó là
không giết.
- “Xả bỏ
tâm trộm cắp, không lấy vật không cho, tâm hằng thanh tịnh,
không có ý lén lút lấy cắp. Đó là không trộm cắp.
- “Xả ly
dâm dục, tịnh tu phạm hạnh, ân cần tinh tấn, không bị nhiễm
dục, sống trong sạch. Đó là không dâm.
- “Xả ly
vọng ngữ, chí thành không lừa dối, không gạt người. Đó là
không nói dối.
- “Xả ly
nói hai lưỡi; nếu nghe lời người này, không truyền lại người
kia; nếu nghe lời người kia, không truyền lại người này.
Những người chia rẽẻ thì làm cho hòa hợp, khiến cho thân
kính lẫn nhau. Những lời nói ra, hoà thuận, đúng thời. Đó là
không nói hai lưỡi.
- “Xả ly ác
khẩu. Những lời thô lỗ, thích gây não người khác, khiến sanh
phẫn kết; xả những lời như vậy. Lời nói dịu dàng, không gây
oán hại, đem nhiều lợi ích, được mọi người yêu kính, thích
nghe những lời như vậy. Đó là không ác khẩu.
- “Xả ly ỷ
ngữ; lời nói hợp thời, thành thật như pháp, y luật diệt trừ
tranh chấp; có duyên cớ mới nói; lời nói không phát suông.
Đó là xả ly ỷ ngữ.
- “Xả ly
uống rượu, xa lìa chỗ buông lung.
- “Không
đeo hương hoa, anh lạc.
- “Không đi
xem và nghe các thứ ca múa xướng hát.
- “Không
ngồi giườnng cao.
- “Không ăn
phi thời.
- “Không
cất chứa, sử dụng vàng bạc, bảy báu.
- “Không
cưới thê thiếp; không nuôi nô tỳ, voi ngựa, trâu bò, gà,
chó, heo, dê; không tích chứa ruộng nhà, vườn tược. Không
gạt người bằng cân đấu dối trá. Không lôi kéo nhau bằng bàn
tay, nắm tay. Cũng không cầm đồ. Không vu dối người, không
làm điều ngụy trá. Xả bỏ những thứ xấu ác như vậy; diệt trừ
các tranh tụng, các điều bất thiện. Đi thì biết thời. Không
phải thời thì không đi. Lường dạ mà ăn, không tích chứa dư
thừa. Che thân bằng y phục, vừa đủ thì thôi. Pháp phục, ứng
khí, thường mang theo mình. Như chim bay mang theo mình hai
cánh. Cũng vậy, Tỳ-kheo không chứa dư thừa.
- “Này
Ma-nạp, như các Sa-môn, Bà-la-môn khác, nhận sự tín thí của
người mà vẫn tìm cách tích chứa; y phục, ẩm thực, không hề
biết đủ. Ai vào trong pháp Ta, không có việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác, tuy ăn của do người tín thí,
vẫn tự mình kinh doanh buôn bán, gieo trồng cây cối, sở y
của quỷ thần. Ai vào trong pháp Ta, không có việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác, tuy ăn của người tín thí,
vẫn tìm phương tiện cầu các lợi dưỡng, các thứ ngà voi, tạp
bảo, giường lớn cao rộng, với các loại chăn nệm thêu thùa
sặc sỡ. Ai vào trong pháp Ta, không có việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy nhận của người tín thí,
vẫn tìm phương tiện, tìm cách trang điểm mình, bôi dầu vào
thân, tắm gội bằng nước thơm, thoa các thứ bột thơm, chải
đầu thơm láng, đeo tràng hoa đẹp, nhuộm mắt xanh biếc, bôi
mặt cho đẹp đẽ, đeo vòng xuyến sáng chói, dùng gương soi
mặt, giày da đủ màu, áo trên thuần trắng, dao gậy, người
hầu, lọng báu, quạt báu, xe báu trang nghiêm. Ai vào trong
pháp Ta, không có những việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí mà
chuyên việc đùa giỡn, chơi bài, chơi cờ loại tám đường, mười
đường , trăm đường, cho đến đủ hết mọi đường, với các loại
đùa cười khác nhau. Ai vào trong pháp Ta, không có những
việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí vẫn
nói những lời vô ích, chướng ngại đạo: bàn các việc vương
giả, việc chiến đấu, quân mã; việc quần liêu, đại thần, cưỡi
ngựa, đánh xe ra vào, dạo chơi vườn quán; bàn luận việc nằm,
việc đứng, việc đi bộ, việc nữ nhân, việc y phục, ẩm thực,
thân lý; lại nói chuyện vào biển tìm ngọc. Ai vào pháp Ta,
không có việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác, tuy ăn của người tín thí,
bằng vô số phương tiện, chỉ sinh hoạt tà mạng: mỹ từ dua
siểm, hiện tướng khen chê, lấy lợi cầu lợi. Ai vào pháp Ta,
không có việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí, lại
chỉ tranh cãi nhau, hoặc nơi vườn quán, hoặc nơi ao tắm,
hoặc ở sảnh đường, chỉ trích lẫn nhau, rằng: Ta biết kinh
luật. Ngươi không biết gì. Ta đi đường chánh. Ngươi đi lối
tà. Ngươi đặt cái trước ra sau, đặt cái sau ra trước. Ta
nhịn ngươi được. Ngươi không biết nhịn. Những điều ngươi nói
đều không chân chánh. Nếu có điều gì nghi ngờ, cứ đến hỏi
ta, ta giải đáp được hết. Ai vào pháp Ta, không có việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy ăn của người tín thí, lại làm
các phương tiện, cầu làm sứ giả; hoặc làm sứ giả thông tin
cho vua, đại thần của vua, Bà-la-môn, cư sĩ; từ người này
đến người kia, từ người kia đến người này; đem lời người này
trao cho người kia, đem lời người kia trao cho người này;
hoặc tự mình làm, hoặc sai người khác làm. Ai vào trong pháp
Ta, không có việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác, tuy ăn của người tín thí,
lại chỉ luyện tập các việc chiến trận, tỷ đấu; hoặc luyện
tập dao, gậy, cung tên; hoặc nuôi gà chọi, chó, heo, dê,
voi, ngựa, bò, lạc đà; hoặc đấu nam nữ; hoặc tấu các thứ
tiếng: tiếng loa, tiếng trống, tiếng ca, tiếng múa, leo cột
phướn, leo xuôi, leo ngược, đủ các thứ trò chơi. Ai vào pháp
Ta, không có việc ấy.
- “Ma
nạpMa-nạp, như các Sa-môn, Bà-la-môn khác, tuy ăn của người
tín thí, lại hành pháp chướng ngại đạo, sinh hoạt bằng tà
mạng, xem tướng trai gái, cát hung, đẹp xấu và tướng súc
sanh, lấy lợi cầu lợi. Ai vào pháp Ta, không có việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí vẫn
hành pháp chướng ngại đạo, sinh sống tà mạng, kêu gọi quỷ
thần, hoặc đuổi đi, hoặc bảo dừng, các thứ ếm đảo, vô số
phương thuật, khiến người sợ hãi, có thể tụ có thể tán, có
thể khổ có thể vui, lại có thể an thai trục thai, cũng có
thể chú ếm người khiến làm lừa ngựa, cũng có thể khiến người
đui mù câm ngọng, hiện bày các mánh khóe, chắp tay hướng về
mặt trời mặt trăng, làm các khổ hạnh để cầu lợi. Ai vào
trong pháp Ta, không có những việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác, tuy ăn của người tín thí, mà
hành các pháp chướng ngại đạo, sinh sống bằng tà mạng: chú
bệnh cho người, hoặc tụng ma thuật ác, hoặc tụng chú thuật
lành, hoặc làm thầy thuốc, châm cứu, thuốc thang, liệu trị
các thứ bệnh. Ai vào pháp Ta, không có những việc ấy.
- “Ma
nạpMa-nạp, như các Sa-môn, Bà-la-môn khác, tuy ăn của người
tín thí, nhưng hành các pháp chướng ngại đạo, sinh sống bằng
tà mạng: hoặc chú nước chú lửa, hoặc chú ma quỷ, hoặc tụng
chú Sát-lỵ, hoặc tụng chú chim, hoặc tụng chú chi tiết, hoặc
bùa chú trấn nhà trấn cửa, hoặc bùa chú giải trừ lửa cháy,
chuột gặm, hoặc tụng kinh thư ly biệt sanh tử, hoặc đọc sách
đoán mộng, hoặc xem tướng tay tướng mặt, hoặc đọc sách tất
cả âm. Ai vào pháp Ta, không có việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác, tuy ăn của người tín thí, mà
hành pháp chướng ngại đạo, sinh sống bằng tà mạng: xem tướng
thiên thời, đoán mưa hay không mưa, thóc cao hay thóc kém,
bệnh nhiều hay bệnh ít, kinh sợ hay an ổn, hoặc nói động
đất, sao chổi, nhật thực, nguyệt thực, tinh thực, hoặc nói
không thực, điềm lành như vậy, điềm xấu như vậy. Ai vào pháp
Ta, không có việc ấy.
- “Ma-nạp,
như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí, mà
hành pháp chướng ngại đạo, sinh sống bằng tà mạng: hoặc nói
nước này hơn nước kia, nước kia không bằng; hoặc nói nước
kia hơn nước này, nước này không bằng; xem tướng tốt xấu,
đoán việc thịnh suy. Ai vào pháp Ta, không có việc ấy. Nhưng
tu Thánh giới, không nhiễm trước tâm, trong lòng hỷ lạc.
- “Mắt tuy
nhìn thấy sắc nhưng không nắm bắt các tướng, mắt không bị
sắc trói buộc, kiên cố tịch nhiên, không điều tham đắm, cũng
không buồn lo, không rò rỉĩ các ác, kiên trì giới phẩm, khéo
thủ hộ nhãn căn. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý, cũng như vậy.
Khéo chế ngự sáu xúc, hộ trì điều phục, khiến cho được an
ổn, cũng như đi xe bốn ngựa trên đường bằng phẳng, người
đánh xe khéo cầm roi khống chế không để trật lối. Tỳ-kheo
cũng vậy, chế ngự con ngựa sáu căn, an ổn không mất.
- “Vị ấy có
Thánh giới như vậy, khéo hộ trì các căn theo Thánh pháp, ăn
biết đủ, cũng không tham vị, chỉ với mục đích nuôi thân để
không bị khổ hoạn mà không cống cao, điều hòa thân mình
khiến cho cái khổ cũ diệt, cái khổ mới không sanh, có sức,
vô sự, khiến thân an lạc. Cũng như người dùng thuốc bôi
ghẻẽ, cốt để ghẻẽ lành chứ không phải để trang sức, không vì
tự cao.
- “Ma-nạp,
Tỳ-kheo như vậy, ăn đủ để duy trì thân, không có lòng kiêu
mạn phóng túng. Cũng như xe được bôi mỡ, cốt để trơn tru
khiến vận hành thông suốt, đi đến đích. Tỳ-kheo cũng vậy, ăn
uống cốt đủ duy trì thân để mà hành đạo.
- “Ma-nạp,
Tỳ-kheo như vậy thành tựu Thánh giới, được các căn của
Thánh, ăn biết vừa đủ; đầu hôm cuối hôm, tinh tấn tỉnh giác.
Lại lúc ban ngày, hoặc đi hoặc dừng, thường niệm nhất tâm,
trừ các ấm cái. Vị ấy, vào khoảng đầu hôm, hoặc đi hoặc
ngồi, thường niệm nhất tâm, trừ các ấm cái. Cho đến giữa
đêm, nằm nghiêng hông phải, tưởng niệm sẽ trỗichổi dậy, đặt
ý tưởng vào ánh sáng, tâm không loạn tưởng. Đến lúc cuối
đêm, liền dậy tư duy, hoặc đi hoặc ngồi, trừ các ấm cái.
Tỳ-kheo có Thánh giới như vậy đầy đủ, được các căn bậc
Thánh, ăn uống biết đủ, đầu hôm cuối hôm, tinh cần tỉnh
giác, thường niệm nhất tâm, không có loạn tưởng.
- “Thế nào
là Tỳ-kheo-niệm không thác loạn? Tỳ-kheo như vậy, quán thân
trên nội thân, tinh cần không biếng nhác, nhớ nghĩ không
quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thân trên ngoại thân; quán
thân trên nội ngoại thân, tinh cần không biếng nhác, nhớ
nghĩ không quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thọ, quán ý, quán
pháp cũng vậy. Đó là Tỳ-kheo-niệm không thác loạn.
- “Thế nào
là nhất tâm? Tỳ-kheo như vậy hoặc tản bộ, hoặc ra vào, hoặc
quay nhìn hai bên, co duỗi, cúi ngước, cầm y bát, tiếp nhận
ẩm thực, hoặc tả hữu tiện lợi, hoặc ngủ hoặc thức, hoặc ngồi
hoặc đứng, nói năng hay im lặng, vào bất cứ lúc nào, thường
niệm nhất tâm, không mất oai nghi. Đó là nhất tâm. Cũng như
một người đi giữa đám đông, hoặc đi ở trước, ở giữa hay ở
cuối, thường an ổn, không có điều sợ hãi. Ma-nạp, Tỳ-kheo
như vậy,..., cho đến, nói năng im lặng, thường niệm nhất
tâm, không buồn không sợ.
- “Tỳ-kheo
có Thánh giới như vậy, được các căn bậc Thánh, ăn thì biết
đủ, đầu hôm, cuối hôm, tinh cần tỉnh thức, thường niệm nhất
tâm, không có thác loạn. Thích ở nơi vắng, dưới gốc cây,
trong bãi tha ma, hoặc trong hang núi, hoặc ở đất trống hay
trong chỗ đống phân ;; đến giờ khất thực, lại rửa tay chân,
đặt yên y bát, ngồi kiết già, ngay người chánh ý, buộc chặt
niệm trước mắt. Trừ bỏ xan tham, tâm không đeo theo ; diệt
tâm sân hận, không có oán kết, tâm trú thanh tịnh, thường
giữ lòng từ; trừ dẹp ngủ nghỉ, buộc tưởng nơi ánh sáng, niệm
không thác loạn; đoạn trừ trạo hý,, tâm không khuấy động,
nội tâm an tịnh, diệt tâm trạo hý; đoạn trừ nghi hoặc, đã
vượt lưới nghi, tâm chuyên nhất ở nơi pháp thiện. Cũng như
đồng bộc được đại gia ban cho chủng tánh, an ổn giải thoát,
miễn khỏi sai khiến, tâm hoan hỷ, không còn lo, sợ.
- “Lại như
có người mượn tiền đi buôn bán, được lợi lớn mà trở về, trả
vốn cho chủ, còn dư tiền đủ dùng, bèn nghĩ rằng: Ta trước
mượn tiền đi buôn, e không như ý. Nay được lợi mà trở về,
trả vốn cho chủ, tiền còn dư đủ dùng, không lo, sợ. Người ấy
rất đỗi vui mừng.
- “Như
người bệnh lâu, nay bệnh đã khỏi; ăn uống được tiêu hóa, sức
lực dồi dào, bèn nghĩ rằng: Ta trước có bệnh, mà nay đã
khỏi; ăn uống được tiêu hóa, sức lực dồi dào, không còn lo
và sợ. Người ấy rất đỗi vui mừng.
- “Cũng như
người bị nhốt trong ngục đã lâu, nay bình yên ra tù, bèn
nghĩ thầm rằng: Ta trước đây bị giam giữ, nay được giải
thoát, không còn lo và sợ. Người ấy rất đỗi vui mừng.
- “Lại như có người cầm nhiều
tài bảo, đi qua chỗ hoang mạc, không gặp cướp, bình an qua
khỏi, bèn tự nghĩ rằng: Ta cầm tài bảo qua khỏi chỗ hiểm nạn
này, không còn lo và sợ. Người ấy rất đỗi vui mừng, tâm tư
an lạc.
- “Ma-nạp,
Tỳ-kheo bị năm triền cái bao phủ cũng giống như vậy. Như
người mang nợ, bệnh lâu, bị giam giữ, đi qua hoang mạc, tự
thấy mình chưa thoát ly các ấm che trùm tâm, bị trùm kín
trong tối tăm, mắt tuệ không sáng; vị ấy bèn tinh cần, xả
dục, xả pháp ác, bất thiện, có giác có quán, có hỷ do viễn
ly sanh, chứng nhập Sơ thiền. Vị ấy có hỷ lạc nhuần thấm nơi
thân, tràn đầy cùng khắp, không đâu là không sung mãn. Như
người khéo biết cách tắm, cho thuốc đầy bồn tắm, rồi chế
nước vào, trong ngoài đều nhuần thấm, không đâu là không
cùng khắp. Tỳ-kheo cũng vậy, chứng nhập Sơ thiền, hỷ lạc
nhuần thấm khắp thân, không đâu không sung mãn. Như vậy, này
Ma-nạp, đó là hiện thân chứng đắc lạc thứ nhất. Vì sao? Ầy
là do tinh tấn, niệm không thác loạn, ưa chỗ nhàn tĩnh mà
được vậy.
- “Vị ấy xả
giác, quán, bèn phát sanh tín, chuyên niệm nhất tâm, không
giác không quán, có hỷ lạc do định sanh, chứng nhập đệ Nhị
thiền. Vị ấy có hỷ lạc và nhất tâm thấm nhuần châu thân,
cùng khắp, tràn đầy, không đâu không sung mãn. Cũng như nước
suối trong mát từ đỉnh núi chảy ra, không phải từ ngoài đến,
mà nước trong mát chảy ra ngay từ trong con suối ấy, trở lại
thấm nhuần chính nó, không đâu không cùng khắp. Ma-nạp,
Tỳ-kheo cũng vậy, nhập Nhị thiền, có hỷ lạc do định sanh
không đâu không sung mãn. Đó là hiện thân chứng đắc lạc thứ
hai.
- “Vị ấy
lìa hỷ, an trú xả và niệm, không tán loạn, thân cảm thọ lạc,
như điều mà Thánh nói, khởi hộ niệm lạc, chứng nhập Tam
thiền. Vị ấy thân không hỷ, có lạc thấm nhuần, cùng khắp,
tràn đầy, không đâu không sung mãn. Cũng như hoa Ưu-bát, hoa
Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ, mới nhô khỏi
bùn mà chưa ra khỏi nước, với cọng, rễ, cành, lá còn chìm
ngập trong nước, không đâu không cùng khắp. Ma-nạp, Tỳ-kheo
cũng vậy, chứng nhập Tam thiền, lìa hỷ, an trú lạc, nhuần
thấm khắp thân, không đâu không cùng khắp. Đó là hiện thân
chứng đắc lạc thứ ba.
- “Vị ấy xả
hỷ và lạc; ưu và hỷ đã diệt từ trước, không khổ, không lạc,
xả niệm thanh tịnh, nhập Tứ thiền. Thân tâm thanh tịnh, tràn
đầy cùng khắp, không chỗ nào không thấm nhuần. Cũng như một
người đã tắm gội sạch sẽ, khoác lên mình tấm lụa trắng mới
tinh, toàn thân thanh tịnh. Ma-nạp, Tỳ-kheo cũng vậy, nhập
Tứ thiền, tâm thanh tịnh, tràn khắp thân, không chỗ nào
không thấm.
- “Lại nhập
Tứ thiền, tâm không tăng giảm, cũng không dao động, an trú
trên mảnh đất không ái, không nhuế, không động. Cũng như mật
thất, trong ngoài được sơn quét, đóng chặt các cửa nẻo,
không gió không bụi lọt vào, bên trong đốt đèn, không bị
khuấy động, ngọn lửa bốc thẳng mà không lay động. Ma-nạp,
Tỳ-kheo cũng vậy, nhập đệ Tứ thiền, tâm không tăng giảm,
cũng không khuynh động, an trú trên đất không ái, không
nhuế, không dao động. Đó là hiện thân chứng lạc thứ tư.
- “Vị ấy
với tâm định tĩnh, thanh tịnh không dơ, nhuần nhuyễn, khéo
được huấn luyện, an trú trạng thái bất động, tự mình trong
thân khởi tâm biến hóa, hóa thành thân khác, chân tay đầy
đủ, các căn không khuyết. Vị ấy quán như vầy: Thân này, với
sắc bốn đại, hóa thành thân kia. Thân này cũng khác, thân
kia cũng khác. Từ thân này khởi tâm hóa thành thân kia, các
căn đầy đủ, chân tay không khuyết. Cũng như người rút con
dao khỏi bao, bèn nghĩ rằng: Bao khác với dao, nhưng dao
được rút ra từ bao. Lại như một người se gai làm dây, nghĩ
rằng: Gai khác với dây. Nhưng dây xuất xứ từ gai. Lại như
một người cho rắn bò ra khỏi hộp, nghĩ rằng: Rắn khác hộp
khác, nhưng rắn từ hộp mà ra. Lại như một người lấy áo ra
khỏi giỏ tre, nghĩ rằng: Giỏ tre khác áo khác, nhưng áo được
lấy ra từ giỏ. Ma-nạp, Tỳ-kheo cũng vậy. Đây là thắng pháp
đầu tiên được chứng đắc. Vì sao? Ầy do tinh tấn, niệm không
thác loạn, ưa chỗ nhàn tĩnh mà được vậy.
- “Vị ấy
với tâm định tĩnh, thanh tịnh không dơ, nhu nhuyến, được
khéo huấn luyện, an trú trạng thái bất động, từ sắc thân bốn
đại của mình mà khởi tâm, hóa thành thân khác, đủ cả tay
chân và các căn, nghĩ rằng: Thân này do bốn đại hợp thành.
Thân kia từ thân này hóa ra. Thân này với thân kia khác
nhau. Tâm này trú trong thân này, y thân này mà an trú, rồi
đi đến trong thân biến hóa kia. Cũng như lưu ly, ma ni, được
lau chùi sáng loáng, trong sạch không dơ; hoặc được xâu bằng
chỉ xanh, chỉ vàng, chỉ đỏ, người có mắt đặt trong lòng tay
mà nhìn, biết rằng ngọc và dây xâu khác nhau. Nhưng dây dựa
ngọc, từ hạt này đến hạt khác. Ma-nạp, Tỳ-kheo quán tâm
nương thân này mà an trú, rồi đi đến thân kia cũng như vậy.
Đó là Tỳ-kheo chứng đắc thắng pháp thứ hai. Vì sao? Ầy do
tinh cần, niệm không tán loạn, ưa chỗ nhàn tĩnh mà được vậy.
- “Vị ấy,
với tâm định tĩnh, thanh tịnh không dơ, mềm dịu, dễ điều
phục, an trú bất động địa, nhất tâm tu tập thần thông trí
chứng, có thể biến hóa các thứ: hoặc biến một thân thành vô
số thân; từ vô số thân hợp thành một thân; thân có thể bay
đi, vách đá không ngăn ngại; dạo trong hư không như chim, đi
trên nước như đi trên đất; mình bốc khói lửa, như đống lửa
lớn; tay sờ mặt trời, mặt trăng, đứng cao đến Phạm thiên;
muốn làm gì tùy ý, đều có thể tự tại thành tựu, làm ích lợi
cho nhiều người. Lại như thợ ngà khéo xử lý ngà voi. Cũng
như thợ vàng khéo luyện chơn kim, tùy ý mà làm, ích lợi cho
nhiều người. “Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy, tâm định tĩnh, thanh
tịnh, an trú bất động địa, tùy ý biến hoá, cho đến, tay sờ
mặt trời, mặt trăng, đứng cao đến Phạm thiên. Đó là thắng
pháp thứ ba của Tỳ-kheo.
- “Vị ấy
với tâm đã định, thanh tịnh không dơ, mềm dịu, khéo điều
phục, an trú bất động địa, nhất tâm tu tập chứng thiên nhĩ
trí . Vị ấy, với thiên nhĩ thanh tịnh vượt qua lỗ tai con
người, nghe được hai loại tiếng: tiếng chư Thiên và tiếng
loài người. Cũng như trong thành có đại giảng đường, cao
lớn, rộng rãi, có người thính tai ở trong giảng đường; những
âm thanh có trong giảng đường, không phải cố gắng để nghe,
người ấy nghe rõ hết. Cũng vậy, Tỳ-kheo do tâm đã định, với
thiên nhĩ thanh tịnh, nghe được hai thứ tiếng. Ma-nạp, đó là
thắng pháp thứ tư của Tỳ-kheo.
- “Vị ấy
với tâm đã định, thanh tịnh không dơ, mềm dịu, khéo điều
phục, an trú bất động địa, nhất tâm tu tập chứng tha tâm
trí. Vị ấy đúng như tâm của người, có dục hay không dục, có
cấu uế hay không cấu uế, có si hay không si, tâm rộng hay
hẹp, tâm lớn hay nhỏ, tâm định hay loạn, tâm bị trói buộc
hay cởi mở, tâm cao thượng hay hạ liệt, cho đến, tâm vô
thượng, thảy đều biết hết. Cũng như một người rọi bóng mình
trong nước trong, đẹp hay xấu đều xét biết cả. Tỳ-kheo như
vậy, vì tâm định tĩnh cho nên có thể biết tâm người. Ma-nạp,
đó là thắng pháp thứ tư của Tỳ-kheo.
- “Vị ấy
tâm định, thanh tịnh không cấu uế, mềm dịu, khéo điều phục,
an trú bất động địa, nhất tâm tu tập túc mạng trí chứng,
liền có thể biết được đời trước, với vô số sự việc; có thể
nhớ một đời cho đến vô số đời, số kiếp thành hoại; chết đây
sanh kia; danh tánh, chủng tộc, ẩm thực xấu tốt, thọ mạng
dài vắn, cảm thọ khổ lạc, hình sắc tướng mạo thế nào, tất cả
đều nhớ biết hết. Cũng như một người từ thôn xóm mình đi đến
nước khác; ở tại chỗ kia, hoặc đi hoặc đứng, hoặc nói hoặc
im lặng; rồi lại từ nước này đến nước khác. Lần lượt như
vậy, sau đó quay về chốn cũ. Không cần nhọc sức mà vẫn có
thể nhớ những nước đã đi qua; từ chỗ này đến chỗ kia, từ chỗ
kia đến chỗ này; đi, đứng, nói năng, im lặng, thảy đều nhớ
hết. Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy, do tâm đã định tĩnh, thanh
tịnh không cấu uế, an trú bất động địa, có thể bằng túc mạng
trí mà nhớ đời trước vô số sự việc trong vô số kiếp. Đó là
Tỳ-kheo chứng đắc minh thứ nhất. Vô minh vĩnh viễn diệt,
pháp đại minh phát sanh; cái tối tăăm tiêu diệt, pháp sáng
chói phát sanh. Đấy là Tỳ-kheo đắc túc mạng trí minh. Vì
sao? Ầy do tinh cần, niệm không tán loạn, ưa chỗ thanh nhàn
vắng vẻ mà được như vậy.
- “Vị ấy,
với tâm định tĩnh, thanh tịnh không cấu uế, nhu nhuyến khéo
điều phục, an trú bất động địa, nhất tâm tu tập sanh tử trí
chứng . Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, thấy các chúng sanh
sanh đây chết kia; chết ở kia, sanh đến nơi này, hình sắc
đẹp xấu, quả báo thiện ác, tôn quý, ty tiện, tùy nghiệp báo
đã tạo mà phù hợp với nhân duyên, tất cả đều biết rõ. Người
này thân hành ác, khẩu nói ác, ý nghĩ ác, phỉ báng Hiền
thánh, tin theo tà kiến điên đảo, thân hoại mạng chung đọa
ba đường ác. Người này thâân làm thiện, miệng nói thiện, ý
nghĩ thiện, không phỉ báng Hiền thánh, hành theo chánh kiến,
thân hoại mạng chung, sanh lên trời, người. Bằng thiên nhãn
thanh tịnh, thấy chúng sanh tùy theo duyên của nghiệp đã
làm, qua lại trong năm đường. Cũng như khoảng đất bằng cao
rộng trong thành nội, đầu ngã tư đường cất một lầu cao lớn,
người mắt sáng đứng trên lầu mà nhìn, thấy các bộ hành Đông,
Tây, Nam, Bắc, mọi cử động, tất cả đều thấy hết. Ma
nạpMa-nạp, Tỳ-kheo như vậy, với tâm định tĩnh, không cấu uế,
thanh tịnh, nhu nhuyến dễ điều phục, an trú bất động địa,
chứng sanh tử trí. Bằng thiên nhãn thanh tịnh, thấy hết
chúng sanh với những việc thiện ác mà chúng đã làm, tùy
nghiệp thọ sanh, qua lại năm đường, thảy đều biết cả. Đó là
minh thứ hai của Tỳ-kheo. Đoạn trừ vô minh, sanh tuệ minh,
xả bỏ tối tăm, phát ra ánh sáng trí tuệ. Đó là kiến chúng
sanh sanh tử trí minh vậy. Vì sao? Ầy do tinh cần niệm không
tán loạn, ưa một mình nơi thanh vắng mà được vậy.
- “Vị ấy
với tâm định tĩnh, thanh tịnh không cấu uế, nhu nhuyến dễ
điều phục, an trú bất động địa, nhất tâm tu tập vô lậu trí
chứng . Vị ấy như thật biết Khổ thánh đế, như thật biết hữu
lậu tập, như thật biết hữu lậu diệt tận, như thật biết con
đường dẫn đến vô lậu. Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy; tâm
giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, chứng đắc
giải thoát trí:: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã vững, điều cần
làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa. Cũng như
trong nước trong, có gỗ, đá, cá, ba ba, các loại thủy tộc du
hành Đông-tây, người có mắt sáng thấy rõ hết: đây là gỗ, đá;
đây là cá, ba ba. Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy, với tâm định
tĩnh, an trú bất động địa, đắc vô lậu trí chứng, cho đến,
không còn tái sanh. Đó là Tỳ-kheo đắc minh thứ ba. Đoạn trừ
vô minh, phát sanh tuệ minh, xả bỏ tối tăm, phát ra ánh sáng
đại trí. Đó là vô lậu trí minh. Vì sao? Ầy do tinh cần, niệm
không tán loạn, ưa một mình nơi thanh vắng vậy.
- “Ma-nạp,
đó là Minh và Hạnh vô thượng được đầy đủ. Ý ngươi nghĩ sao,
Minh và Hạnh như vậy là đúng, hay sai?”
- Phật bảo
Ma-nạp:
- “Có người
không thể chứng đắc đầy đủ Minh Hạnh vô thượng, nhưng thực
hành bốn phương tiện. Những gì là bốn? Ma-nạp, hoặc có người
không được đầy đủ Minh Hạnh vô thượng, nhưng vác rựa, ôm
lồng, đi vào rừng tìm thuốc, ăn rễ cây. Đó là không được
Minh Hạnh vô thượng mà hành phương tiện thứ nhất. Thế nào,
Ma-nạp, phương tiện thứ nhất này, ngươi và thầy các ngươi có
làm không?”
- Đáp:
“Không”.
- Phật bảo
ma nạpMa-nạp:
- “Ngươi tự
mình thấp kém, không hay biết chơn ngụy, lại cứ phỉ báng,
khinh mạn Thích tửư, tự gieo mầm tội lỗi, nuôi lớn gốc rễ
địa ngục.
- “Lại nữa,
Ma-nạp, không được thành tựu Minh Hạnh vô thượng, mà tay cầm
bình nước rửa, vác gậy toán thuật, vào núi rừng, ăn trái cây
tự rụng. Ma-nạp, đó là không được thành tựu Minh Hạnh vô
thượng mà hành phương tiện thứ hai. Thế nào, Ma-nạp, ngươi
và thầy ngươi có hành pháp này chăng?”
- Đáp:
“Không”.
- Phật bảo
Ma-nạp:
- “Ngươi tự
mình thấp kém, không rõ chân ngụy, bèn phỉ báng, khinh mạn
Thích tử, tự gieo mầm ác, nuôi lớn gốc địa ngục lâu dài.
- “Lại nữa,
ma nạpMa-nạp, không được thành tựu Minh Hạnh vô thượng, mà
bỏ lối hái thuốc và lượm trái cây rụng trên đây, trở về thôn
xóm, sống nương người đời, cất am tranh, ăn lá cây, lá cỏ.
Ma-nạp, đó là không được thành tựu Minh Hạnh vô thượng mà
thực hành phương tiện thứ ba. Thế nào, Ma-nạp, ngươi và thầy
ngươi có hành pháp này chăng?”
- Đáp:
“Không”.
- Phật bảo
Ma-nạp:
- “Ngươi tự
mình thấp kém, không rõ chân ngụy, bèn phỉ báng, khinh mạn
Thích tử, tự gieo mầm ác, nuôi lớn gốc địa ngục lâu dài.
- “Lại nữa,
Ma-nạp, không được thành tựu Minh Hạnh vô thượng, nhưng
không ăn cỏ thuốc, không ăn trái cây rụng, không ăn lá cỏ,
mà dựng nhà gác to lớn nơi thôn xóm thành ấp. Những người đi
đường từ Đông sang Tây ngang qua đó đều được cấp dưỡng tùy
khả năng. Đó là không được Minh Hạnh vô thượng mà thực hành
phương tiện thứ tư. Thế nào, Ma-nạp, ngươi và thầy ngươi có
hành pháp ấy không?”
- Đáp:
“Không”.
- Phật bảo
Ma-nạp:
- “Ngươi tự
mình thấp kém, không rõ chơn ngụy, bèn phỉ báng, khinh mạn
Thích tử, tự gieo mầm tội, nuôi lớn gốc địa ngục.
- “Thế nào,
Ma-nạp, các Bà-la-môn kỳ cựu và các Tiên nhân, với nhiều kỷ
thuật, tán thán, xưng tụng những điều mình học tụng, như nay
những điều được các người Bà-la-môn, tán thán, ca ngợi. Đó
là:
- “1.
A-tra-ma.
- “2.
Bà-ma.
- “3.
Bà-ma-đề-bà.
- “4.
Tỷ-ba-mật-đa.
- “5.
Y-đâu-lại-tất.
- “6.
Da-bà-đề-già.
- “7.
Bà-bà-bà-tất-tra.
- “8.
Ca-diệp.
- “9.
A-lâu-na.
- “10.
Cù-đàm.
- “11.
Thủ-di-bà.
- “12.
Tổn-đà-la.
- “Các Đại
tiên, Bà-la-môn này, có đào hào, xây dựng nhà gác, như chỗ
mà thầy trò ngươi đang ở không?”
- Đáp:
“Không”.
- “Các Đại
tiên ấy có dựng thành quách vây quanh nhà cửa, rồi ở trong
đó, như chỗ ở của thầy trò ngươi hiện nay không?”
- Đáp:
“Không”.
- “Các Đại
tiên ấy có nằm trên giường cao, chăn đệm dày, mềm mại, như
thầy trò ầy tro nngươi hiện nay không?”
- Đáp:
“Không”.
- “Các Đại
tiên kia có tự mình vui thú với vàng, bạc, chuỗổi anh lạc,
tràng hoa nhiều màu và mỹ nữ, như thầy trò ngươi hiện nay
không? Các Đại tiên kia có đi xe báu, cầm gậy sắt dẫn đường,
che đầu bằng lọng trắng, tay cầm phất báu, mang guốc báu
nhiều màu, lại mặc toàn lụa trắng, như thầy trò ngươi hiện
nay đang mặc không?”
- Đáp:
“Không”.
- “Ma-nạp,
ngươi tự mình thấp hèn, không rõ chơn ngụy, mà lại phỉ báng,
khinh mạn Thích tửư, tự gieo mầm tội, nuôi lớn gốc địa ngục.
Thế nào, Ma-nạp, như các đại tiên, các Bà-la-môn kỳ cựu kia,
như A-tra-ma, tán thán, đề cao những gì mà họ vốn đọc tụng,
nay những điều được các Bà-la-môn tán thán, đề cao cũng
giống như vậy. Nếu truyền những điều ấy, để dạy vẽ người
khác, mà muốn sanh lên Phạm thiên, không có trường hợp đó.
Cũng như, này Ma-nạp, vua Ba-tư-nặc cùng nói chuyện với
người khác, hoặc cùng bàn luận với các vua, hoặc với đại
thần, Bà-la-môn, cư sĩ, mà những người nhỏ mọn khác nghe
được, bèn vào thành Xá-vệ, gặp người, liền thuật chuyện vua
Ba-tư-nặc có nói như vậy. Thế nào, Ma-nạp, vua có cùng bàn
luận với người ấy không?”
- Đáp:
“Không”.
- “Ma-nạp,
người đọc thuộc lời vua cho những người khác nghe, há có thể
làm đại thần cho vua được chăng?”
- Đáp:
“Không có chuyện ấy”.
- “Ma-nạp,
ngươi ngày nay truyền lời của đại tiên đời trước, Bà-la-môn
kỳ cựu, đọc tụng, dạy cho người, mà muốn sanh Phạm thiên,
không có chuyện ấy. Thế nào, Ma-nạp, các ngươi tiếp nhận sự
cúng dường của người có thể tùy pháp mà thực hành được
chăng?”
- Đáp:
“Đúng như vậy, Cù-đàm, nhận cúng dường của người khác thì
phải như pháp mà hành”.
- “Ma-nạp,
thầy ngươi Phất-già-la-sa-la nhận phong ấp của vua, nhưng
khi cùng nghị luận với vua Ba-tư-nặc, lại nói những lời vô
ích mà vua không nên bàn đến, không đem sự việc chân chánh
mà cùng bàn luận, cùng khuyên nhủ. Ngươi nay tự mình xem xét
lỗi lầm của thầy ngươi và của chính ngươi; nhưng hãy gác qua
chuyện ấy, mà nên tìm hiểu nguyên nhân ngươi đến đây.”
- “Ma-nạp
liền ngước mắt lên nhìn thân của Như Lai, tìm các tướng tốt.
Thấy đủ các tướng khác, duy chỉ hai tướng không thấy, trong
lòng hoài nghi. Bấy giờ, Thế Tôn thầm nghĩ: “Nay Ma-nạp này
không thấy hai tướng nên sanh nghi ngờ như thế”. Ngài bèn
cho ra tướng lưỡi rộng dài, liếm đến tai, phủ kín mặt. Lúc
ấy, Ma-nạp còn nghi ngờ một tướng nữa. Thế Tôn lại nghĩ:
“Nay Ma-nạp này vẫn còn nghi ngờ một tướng nữa”. Ngài bèn
dùng thần lực khiến cho duy chỉ Ma-nạp thấy được tướng mã âm
tàng. Ma-nạp thấy đủ các tướng rồi, không còn hồ nghi gì nơi
Như Lai nữa, bèn rời chỗ ngồi đứng dậy, vòng quanh Phật rồi
đi.
- Khi ấy,
Bà-la-môn Phất-già-la đứng ngoài cửa, từ xa trông thấy đệ tử
đang đi đến, bèn đón lại, hỏi rằng:
- “Ngươi
xem Cù-đàm có thật đủ các tướng không? Công đức thần thông
có thật như lời đồn không?”
- Tức thì
bạch thầy rằng:
- “Sa-môn
Cù-đàm đầy đủ cả ba mươi hai tướng. Công đức thần lực đều
như tiếng đồn.”
- Thầy lại
hỏi:
- “Ngươi có
bàn luận ý nghĩa gì với Cù-đàm không?”
- Đáp:
“Thật có trao đổi với Cù-đàm”.
- Thầy lại
hỏi:
- “Người
với Cù-đàm thảo luận chuyện gì?”
- Bấy giờ
Ma-nạp kể hết câu chuyện cùng Phật luận bàn. Thầy nói:
- “Ta có
người đệ tử thông minh như vậy lại khiến xảy ra như vậy,
chúng ta chẳng bao lâu sẽ đọa địa ngục. Vì sao? Lời nói của
ngươi, vì muốn hơn mà kích bác Cù-đàm, khiến cho ông ấy
không vui lòng, đối với ta lại càng xa cách . Ngươi được coi
là đệ tử thông minh mà khiến đến mức ấy, thì khiến ta vào
địa ngục sớm.”
- Thế rồi người thầy ấy lòng
rất tức giận, bèn đạp Ma-nạp té xuống đất và ông tự mình
đánh xe lấy. Ma-nạp kia khi vừa té xuống đất thì toàn thân
nổi vảy trắng.
- Khi ấy Bà-la-môn
Phất-già-ìa-la-sa-la ngước nhìn mặt trời, nghĩ thầm rằng:
“Nay chưa phải là lúc thăm viếng Sa-môn Cù-đàm. Ta hãy chờ
sáng mai rồi đi thăm hỏi”.
- Sáng hôm
sau, ông thắng cỗ xe báu, cùng với năm trăm đệ tử tùy tùng,
đi đến rừng Y-xa; đến nơi, xuống xe, đi bộ đến chỗ Thế Tôn,
chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Ông ngước nhìn thân Như
Lai, đầy đủ các tướng, duy thiếu hai tướng. Bà-la-môn do đó
có ý nghi ngờ về hai tướng. Phật biết ý nghĩ của ông, bèn
làm lộ tướng lưỡi rộng dài, liếm đến tai và phủ kín mặt.
Bà-la-môn lại còn nghi ngờ một tướng nữa. Phật biết ý nghĩ
của ông, bèn dùng thần lực, khiến cho thấy tướng mã ââm
tàng. Bà-la-môn khi thấy đủ ba mươi hai tướng của Như Lai,
trong lòng khai ngộ, không còn hồ nghi, liền bạch với Phật
rằng:
- “Nếu khi
đi giữa đường mà gặp Phật, con dừng xe một lát, mong Ngài
biết cho là con đã kính lễ Thế Tôn. Vì sao? Vì con nhận được
phong cho thôn này. Nếu con xuống xe, sẽ mất thôn ấy và
tiếng xấu đồn khắp.”.
- Ông lại
bạch Phật:
- “Nếu tôi
xuống xe, cởi kiếm, lui tàn lọng và dẹp bỏ giải phướn, bình
nước rửa và giày dép, nên biết ấy là tôi đã lễ kính Như Lai.
Vì sao? Tôi nhận được phong cho thôn này. Nếu tôi xuống xe,
sẽ mất thôn ấy và tiếng xấu đồn khắp.”
- Lại bạch
Phật:
- “Nếu ở
giữa đám đông, thấy Phật mà con đứng dậy, hoặc trịch áo bày
vai phải, tự xưng tên họ, nên biết, ấy là con đã lễ kính Như
Lai. Vì sao? Vì con nhận đưuợc phong cho thôn này. Nếu con
xuống xe, sẽ mất thôn ấy và tiếng xấu đồn khắp.”
- Lại bạch
Phật:
- “Con xin
quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin nhận con làm
Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay về sau, con không giết,
không trộm, không tà dâm, không dối, không uống rượu. Cúi
mong Thế Tôn cùng các Đại chúng nhận lời mời của con.”
- Ðức Thế
Tôn im lặng nhận lời.
- Bà-la-môn
thấy Phật im lặng, biết Ngài đã hứa khả, bèn rời chỗ ngồi
đứng dậy lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi đi. Về nhà, ông
sửa soạn thức ăn. Sau khi bày biện mâm cỗ xong, ông quay trở
lại thưa: “Đã đến giờ”.
- Bấy giờ,
Thế Tôn khoác y ôm bát cùng với đại chúng một ngàn hai trăm
năm mươi người đi đến nhà ông ấy, rồi ngồi lên chỗ soạn sẵn.
- Lúc ấy,
Bà-la-môn tự tay châm chước thức ăn, cúng Phật và Tăng các
thứ ngon ngọt. Ắn xong, dẹp cất bát, dùng nước rửa xong,
Bà-la-môn tay phải nắm cánh tay đệ tử là A-ma-trú đến trước
Thế Tôn bạch rằng:
- “Cúi mong
Thế Tôn nghe lời hối lỗi của nó.”
- Nói như
vậy ba lần, rồi lại bạch Phật:
- “Cũng như
voi, ngựa đã được huấn luyện khéo; người này cũng vậy, tuy
có sơ suất, cúi mong Ngài nhận lời hối lỗi.”
- Phật bảo
Bà-la-môn:
- “Cầu cho
ngươi thọ mạng dài lâu, đời này an ổn. Mong cho chứng vảy
trắng của đệ tử ngươi được trừ.”
- Phật nói
vừa xong, người đdệ tử kia liền khỏi chứng vảy trắng.
- Rồi thì,
Bà-la-môn lấy một cái giường nhỏ để trước Thế Tôn. Thế Tôn
bèn nói pháp cho Bà-la-môn, chỉ bày, khuyên dạy, khiến cho
được ích lợi, hoan hỷ. Ngài giảng về thí, giới, sanh thiên,
dục là ô uế, phiền não là tai hoạn, xuất yếu là trên hết,
diễn bày thanh tịnh. Khi Thế Tôn biết tâm người Bà-la-môn đã
nhu nhuyến, thanh tịnh, không cáu bẩn, có thể nhận lãnh đạo
giáo; như thường pháp của chư Phật, Ngài nói Khổ thánh đế,
Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế, Khổ xuất yếu thánh đế.
Bà-la-môn lúc ấy ngay trên chỗ ngồi mà xa lìa trần cấu được
pháp nhãn tịnh, cũng như tấm lụa trắng tinh dễ nhuộm màu,
Bà-la-môn Phất-già-la-sa-la cũng vậy, thấy pháp, đắc pháp,
quyết định đạo quả, không còn tin ở đạo khác, được vô sở úy,
tức thì bạch Phật rằng:
- “Con nay
ba lần xin quy y Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Xin nhận con
làm Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Suốt đời không giết, không
trộm, không tà dâm, không dối, không uống rượu. Cúi mong Thế
Tôn cùng Đại chúng thương tưởng con, nhận lời mời bảy ngày.”
- Thế Tôn
im lặng nhận lời. Bà-la-môn tức thì trong bảy ngày cúng
dường Phật và Đại chúng đủ các thứ. Bấy giờ, qua bảy ngày,
Thế Tôn lại du hành nhân gian.
- Phật đi
chưa bao lâu, Phất-già-la-sa-la ngộ bệnh, mạng chung. Các
Tỳ-kheo nghe Bà-la-môn này sau khi cúng dường Phật trong bảy
ngày, sau đó mạng chung, bèn tự nghĩ thầm: Người này mạng
chung, sanh vào cõi nào? Rồi chúng Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật,
lễ Phật xong, ngồi sang bên, bạch Phật rằng:
-
“Bà-la-môn sau khi cúng dường Phật suốt bảy ngày thì thân
hoại mạng chung. Người ấy sanh vào chỗ nào?”
- Phật nói
với các Tỳ-kheo:
- “Tộc tánh
tử ấy đã tập hợp rộng rãi các điều thiện, đầy đủ pháp và tùy
pháp, không trái pháp hành, đoạn trừ năm hạ phần kết,
Niết-bàn ở nơi kia, không trở lại đời này nữa.”
- Bấy giờ,
các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng
hành.
- --o0o--
|
|