- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 01-
PHẨM BẢY PHÁP
-
Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Đức Phật du hành nước Xá-vệ, ở trong Thắng lâm
vườn Cấp cô độc.
-
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
-
“Như Vương thành ở biên giới có bảy việc đầy đủ[02]
và bốn thứ lương thực sung túc dễ tìm không khó; do đó
Vương thành không bị ngoại địch đánh phá, ngoại trừ tự phá
hoại từ bên trong.
-
“Những gì là bảy việc mà Vương thành có đầy đủ? Đó là
Vương thành ở biên giới xây cất vọng gác[03],
đắp đất cho chắc không thể phá vỡ, để bên trong được an
ổn, chế ngự oán địch bên ngoài. Đó là việc đầy đủ thứ nhất
của Vương thành.
-
“Lại nữa, Vương thành ở biên giới, đào hào vét ao cho thật
sâu rộng, sửa sang cụ bị để có thể nương tựa, làm cho bên
trong được an ổn, chế ngự oán địch bên ngoài. Đó là việc
đầy đủ thứ hai của Vương thành.
-
“Lại nữa, như đường giao thông chung quanh Vương thành ở
biên giới được dọn dẹp cho bằng phẳng, rộng rãi, để bên
trong được an ổn, chế ngự oán địch bên ngoài. Đó là việc
làm đầy đủ thứ ba của Vương thành.
-
“Lại nữa, như ở Vương thành biên giới tập trung bốn binh
quân: quân voi, quân ngựa, quân xe, quân bộ, để bên trong
được an ổn, chế ngự oán địch bên ngoài, đó là việc làm đầy
đủ thứ tư của Vương thành.
-
“Lại nữa, như Vương thành ở biên giới dự bị binh khí,
cung, tên, mâu, kích, để bên trong được an ổn, chế ngự oán
địch ở bên ngoài. Đó là việc làm đầy đủ thứ năm của Vương
thành.
-
“Lại nữa, như Vương thành ở biên giới lập vị Đại tướng
trấn thủ, sáng suốt, thao lược, cơ trí, tháo vác, dũng
mãnh, cương nghị, giỏi mưu chước, người lành thì cho vào,
kẻ không lương thiện thì ngăn cấm, để bên trong được an
ổn, chế ngự oán địch bên ngoài. Đó là việc làm đầy đủ thứ
sáu của Vương thành.
-
“Lại nữa, như Vương thành ở biên giới xây đắp tường cao
cho thật kiên cố, trét bùn, tô đất, để bên trong được an
ổn, chế ngự oán địch bên ngoài. Đó là việc làm đầy đủ thứ
bảy của Vương thành.
-
“Bốn thứ lương thực[04]
dễ tìm không khó là gì? Đó là Vương thành ở biên giới
nước, cỏ, củi, gỗ có sẵn, có dự bị để bên trong được an ổn
và chế ngự oán địch bên ngoài. Đó là loại lương thực thứ
nhất sung túc, dễ tìm không khó ở Vương thành.
- “Lại nữa,
như Vương thành ở biên giới thu nạp nhiều lúa gạo và chứa
cất lúa mạch, để bên trong được an ổn và chế ngự oán địch
ở bên ngoài. Đó là loại lương thực đầy đủ, dễ kiếm không
khó ở Vương thành.
-
“Lại nữa, như Vương thành ở biên giới chứa nhiều đậu niêm,
đại đậu, tiểu đậu[05]
để bên trong được an ổn và chế ngự oán địch bên ngoài. Đó
là loại lương thực thứ ba sung túc, dễ tìm không khó ở
Vương thành.
- “Lại nữa,
như Vương thành ở biên giới, chứa để dầu bơ, mật, mía
đường, cá, muối, thịt khô, tất cả đầy đủ, để bên trong
được an ổn và chế ngự oán địch bên ngoài. Đó là loại lương
thực thứ tư sung túc, dễ tìm không khó ở Vương thành.
-
“Như vậy, Vương thành bảy việc đầy đủ, bốn thứ lương thực
sung túc, dễ tìm không khó, nên không bị ngoại địch đánh
phá, chỉ trừ bên trong tự phá hoại.
-
“Cũng vậy, nếu Thánh đệ tử cũng được bảy thiện pháp và bốn
tăng thượng tâm[06],
dễ được không khó, vì thế Thánh đệ tử không bị ma vương
lung lạc[07]
cũng không theo pháp ác bất thiện, không bị ô nhiễm bởi
phiền não, không còn thọ sanh trở lại.
-
“Bảy thiện pháp mà Thánh đệ tử có được là những gì? Đó là
Thánh đệ tử có tín kiên cố, tin sâu nơi Như Lai[08],
tín căn đã vững, trọn không tin theo Sa-môn, Phạm chí,
ngoại đạo, cũng như Thiên ma, Phạm thiên, và các hạng thế
gian khác. Đó là Thánh đệ tử được thiện pháp thứ nhất.
-
“Lại nữa, Thánh đệ tử thường thực hành tàm sỉ[09],
điều đáng xấu hổ thì biết xấu hổ, xấu hổ pháp ác bất
thiện, phiền não ô ế, là thứ khiến thọ các ác báo, gây nên
gốc rễ sanh tử. Đó là thiện pháp thứ hai mà Thánh đệ tử có
được.
- “Lại nữa,
Thánh đệ tử thường thực hành xấu thẹn[10],
điều đáng xấu thẹn biết xấu thẹn, xấu thẹn pháp ác bất
thiện, phiền não ô uế là thứ khiến thọ các ác báo, tạo gốc
sanh tử. Đó là thiện pháp thứ ba mà Thánh đệ tử có được.
-
“Lại nữa, Thánh đệ tử thường thực hành tinh tiến[11],
đoạn trừ các ác bất thiện pháp, tu các thiện pháp, luôn
gắng sức bền chí[12],
chuyên nhất kiên cố[13],
làm các điều thiện, không bỏ phương tiện[14].
Đó là thiện pháp thứ tư mà Thánh đệ tử có được.
-
“Lại nữa, Thánh đệ tử học rộng nghe nhiều, ghi nhớ không
quên, tích lũy sự học rộng. Các pháp nào là toàn thiện ở
khoảng đầu, toàn thiện ở khoảng giữa, toàn thiện ở khoảng
cuối, có nghĩa có văn, thanh tịnh trọn đủ, phạm hạnh hiển
hiện[15],
học rộng nghe nhiều các pháp như vậy; học đến cả ngàn lần,
chú ý chuyên tâm quán sát[16],
thấy rõ hiểu sâu[17].
Đó là thiện pháp thứ năm mà Thánh đệ tử có được.
-
“Lại nữa, Thánh đệ tử thường thực hành nơi niệm, thành tựu
chánh niệm; những điều đã học tập từ lâu, đã từng nghe từ
lâu[18],
nhớ luôn không quên. Đó là thiện pháp thứ sáu mà Thánh đệ
tử có được.
-
“Lại nữa, Thánh đệ tử tu hành trí tuệ, quán sát pháp hưng
suy[19].
Do có trí như vậy, có thánh tuệ, có sự thấu hiểu, phân
biệt rõ ràng, mà diệt tận hoàn toàn sự khổ. Đó là thiện
pháp thứ bảy mà Thánh đệ tử có được.
-
“Những gì là bốn tăng thượng tâm, dễ được không khó mà
Thánh đệ tử đạt được? Đó là Thánh đệ tử ly dục[20],
ly pháp ác bất thiện, có giác có quán, có hỷ và lạc phát
sinh do viễn ly, thành tựu và an trụ Sơ thiềân. Đó là tăng
thượng tâm thứ nhất dễ được không khó mà Thánh đệ tử đạt
đến.
-
“Lại nữa, Thánh đệ tử giác và quán đã dứt, nội tâm tịch
tịnh, không giác không quán, có hỷ lạc do định sanh thành
tựu và an trụ Nhị thiền. Đó là tăng thượng tâm thứ hai dễ
được không khó mà Thánh đệ tử đạt đến.
-
“Lại nữa, Thánh đệ tử lìa hỷ dục, an trụ xả, vô cầu, chánh
niệm chánh trí, thân cảm giác lạc, điều mà Thánh gọi là
được xả bởi Thánh, có niệm và lạc, an trụ không, thành tựu
an trụ tâm. Đó là tăng thượng tâm thứ ba dễ được không khó
mà Thánh đệ tử đạt đến.
- “Lại nữa,
Thánh đệ tử diệt lạc, diệt khổ; ưu và hỷ từ trước cũng đã
diệt, không khổ không lạc, xả và niệm thanh tịnh thành tựu
an trụ Tứ thiền. Đó là tăng thượng tâm thứ tư dễ được
không khó mà Thánh đệ tử đạt đến.
- “Như vậy,
Thánh đệ tử được bảy thiện pháp, đạt đến bốn tâm tăng
thượng dễ được không khó, không bị ma vương lung lạc, cũng
không theo pháp ác bất thiện, không bị nhiễm bởi nhiễm ô,
không còn thọ sanh trở lại.
-
“Như Vương thành ở biên giới xây cất vọng gác, đắp đất cho
chắc không thể phá vỡ, để bên trong được an ổn và chế ngự
oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử có tín kiên cố,
tin sâu nơi Như Lai, tín căn đã lập, trọn không theo
Sa-môn, Phạm chí, Ngoại đạo, cũng như Thiên ma, Phạm thiên
và các hạng thế gian khác. Đó là Thánh đệ tử có vọng gác
tín tâm để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp.
-
“Như Vương thành ở biên giới đào hào vét ao thật sâu rộng,
sửa sang thật vững chắc, để có thể nương tựa, làm cho bên
trong được an ổn, và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng thế,
Thánh đệ tử thực hành tàm sỉ, điều đáng xấu hổ biết xấu
hổ, xấu hổ pháp ác, bất thiện, phiền não ô uế, là thứ
khiến thọ các ác báo, tạo gốc rễ sanh tử. Đó là Thánh đệ
tử có hồ ao tàm sỉ, trừ ác và bất thiện, tu các thiện
pháp.
- “Như Vương
thành ở biên giới dọn dẹp những con đường nối liền chung
quanh cho bằng thẳng rộng rãi để bên trong được an ổn và
chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử thực
hành xấu thẹn điều đáng thẹn biết thẹn, thẹn pháp ác, bất
thiện, phiền não ô uế là thứ khiến thọ các ác báo, tạo gốc
rễ sanh tử. Đó là Thánh đệ tử có con đường bằng thẳng hổ
thẹn để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp.
-
“Như Vương thành ở biên giới tập trung bốn binh chủng:
tượng quân, mã quân, xa quân, bộ quân, để bên trong được
an ổn và chế ngự địch quân ở bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ
tử thường thực hành hạnh tinh tấn, đoạn trừ ác bất thiện,
tu các thiện pháp, luôn gắng sức bền chí, chuyên nhất kiên
cố, làm các điều thiện, không bỏ phương tiện đoạn trừ ác
bất thiện tu các thiện pháp, luôn tự khởi ý, chuyên nhất,
kiên cố, làm các gốc rễ thiện, không bỏ phương tiện. Đó là
Thánh đệ tử có quân lực tinh tấn để trừ ác và bất thiện,
tu các thiện pháp.
-
“Như Vương thành ở biên giới, chuẩn bị binh khí, cung tên,
mâu kích, để bên trong được an ổn, và chế ngự oán địch bên
ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử học rộng nghe nhiều, ghi nhớ
không quên, tích lũy sự nghe rộng. Các pháp nào là toàn
thiện ở khoảng đầu, toàn thiện ở khoảng giữa, toàn thiện ở
khoảng cuối, có nghĩa có văn, thanh tịnh trọn đủ, phạm
hạnh hiển hiện, học rộng nghe nhiều các pháp như vậy; học
đến cả ngàn lần, chú ý chuyên tâm quán sát, thấy rõ hiểu
sâu. Đó là Thánh đệ tử có binh khí đa văn, để trừ ác và
bất thiện, tu các thiện pháp.
-
“Như Vương thành ở biên giới lập vị Đại tướng trấn thủ
sáng suốt, thao lược, cơ trí, tháo vác, dũng mãnh, cương
nghị, giỏi mưu chước, người hiền thì cho vào, kẻ bất lương
thì ngăn cấm, để bên trong được an ổn và chế ngự oán địch
bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử thường thực hành nơi
niệm, thành tựu chánh niệm, những gì đã từng thực tập từ
lâu, đã từng nghe từ lâu, nhớ luôn không quên. Đó là Thánh
đệ tử có Đại tướng trấn thủ niệm để trừ ác và bất thiện,
tu các thiện pháp.
-
“Như Vương thành ở biên giới xây đắp tường cao cho thật
kiên cố, trét bùn tô đất, để bên trong được an ổn, và chế
ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy Thánh đệ tử tu hành trí
tuệ, quán pháp hưng suy. Nhờ đó Thánh tuệ có thể thấu
hiểu, phân biệt rõ ràng mà hoàn toàn diệt tận khổ. Đó là
Thánh đệ tử có bức tường trí tuệ, để trừ ác và bất thiện,
tu các thiện pháp.
- “Như Vương
thành ở biên giới có chuẩn bị sẵn nước, cỏ, củi, gỗ, để
bên trong được an ổn và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng
vậy, Thánh đệ tử ly dục và ác bất thiện pháp, có giác có
quán, có hỷ lạc do viễn ly, thành tựu an trụ Sơ thiền, lạc
trụ không thiếu thốn, an ổn khoái lạc, tự mình đi đến
Niết-bàn.
-
“Như Vương thành ở biên giới thu nạp nhiều lúa gạo và chứa
nhiều cây lúa mạch, để bên trong được an ổn và chế ngự oán
địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử đã dứt giác quán,
nội tỉnh nhất tâm, không giác không quán, hỷ lạc do định
sanh, thành tựu an trụ Nhị thiền, lạc trụ không thiếu
thốn, an ổn, khoái lạc, tự mình đi đến Niết-bàn.
-
“Như Vương thành ở biên giới chứa nhiều niêm đậu, đại đậu,
và tiểu đậu, để bên trong dược an ổn và chế ngự oán địch
bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử lìa hỷ dục, an trụ xả, vô
cầu[21],
chánh niệm chánh trí, thân cảm giác lạc, điều mà bậc Thánh
gọi là được xả bởi Thánh, có niệm và lạc, an trụ không,
thành tựu an trụ Tam thiền, lạc trụ không thiếu thốn, an
ổn khoái lạc, tự mình đi đến Niết-bàn.
-
“Như Vương thành ở biên giới chứa cất bơ, dầu, mía, đường,
cá, muối, thịt khô, tất cả đầy đủ. Để bên trong được an ổn
và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử diệt
lạc, diệt khổ; ưu và hỷ từ trước cũng đã diệt, không khổ
không lạc, xả và niệm thanh tịnh, thành tựu an trụ Tứ
thiền, lạc trụ không thiếu thốn, an ổn khoái lạc, tự mình
đi đến Niết-bàn”.
-
Phật thuyết như vậy. Các Thầy Tỳ-kheo sau khi nghe Phật
thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú tThích:
-
-
[01] Tương đương Pāli: A. VII.6 43, Nagara-sutta. Biệt
dịch, No.125 ( 39.4) Tăng Nhất 33 “Đẳng Pháp Phẩm” (Đại 2,
tr.730).
-
[02] Hán: thất sự cụ túc. Pāli: sattehi
nagaraparikkārehi, với bảy tư cụ bảo vệ thành trì.
-
[03] Hán: lâu lỗ. Pāli: esika, cột trụ bằng đá,
thạch trụ.
-
[04] Hán: thực. Pāli: āhāra. Các bản Tống, Nguyên,
Minh: sự.
-
[05] Hán: niêm đậu, đại tiểu đậu.Pāli:
tila-mugga-māsāparaa, mè (vừng), đậu đỏ, và các loại đậu
khác.
-
[06] Bảy thiện pháp và bốn tăng thượng tâm. Pāli:
satta-sahamma (bảy pháp vi diệu), và
catu-jhāna-abhicetasika (bốn Thiền tăng thượng tâm).
-
[07] Hán: bất vi Ma vương chi sở đắc tiện. Pāli:
akaraīyo marassa, không bị Ma vương chinh phục.
-
[08] Hán: thâm trước Như Lai. Pāli: saddahati
Tathāgatassa bodhi, tin tưởng sâu sắc sự giác ngộ của Như
Lai.
-
[09] Hán: tàm sỉ
tức tàm, hổ thẹn. Pāli: hirīmā.
-
[10] Hán: tu quỷ. Pāli: ottappī.
-
[11] Pāli: āraddha-viriya, nỗ lực tinh cần.
-
[12] Hán: hằng tự khởi ý. Pāli: thāmavā, có sức
mạnh.
-
[13] Hán: chuyên nhất kiên cố. Pāli:
dalhaparakamma, năng lực bền bĩ.
-
[14] Pāli: anikkhittadhuro kusalesu dhammesu, không từ bỏ
gánh nặng trong các thiện pháp.
-
[15] Hán: cụ túc thanh tịnh, hiển hiện phạm hạnh.Pāli:
kevalaparipu parisuddha brahacariyau abhivadanti, (các
pháp ấy) tán thán phạm hạnh viên mãn và thanh tịnh.
-
[16] Hán: ý sở duy quán. Pāli:
manasānupekkhatā, được quán sát một cách có ý thức.
-
[17] Hán: minh kiến, thâm đạt. Pāli: dihiyā
suppaivihā, lãnh hội bằng kiến giải.
-
[18] Hán: cửu sở tằng tập, cửu sở tằng văn. Pāli:
cirakata pi cirabhāsita, những điều được làm từ lâu, được
nói từ lâu.
-
[19] Hán: quán hưng suy pháp. Pāli:
udayatthagātaminiyā paññāya samannāgato, thành tựu trí tuệ
về sự sinh khởi và hoại diệt (của các pháp).
-
[20] Về bốn Thiền, xem các cht. 8-14 (kinh Thành Dụ) trên.
-
[21] Hán: ly ư hỷ dục, xả, vô cầu du. Pāli: pītiyā
ca virāgā ca uppekkako ca viharati: vị ấy sống (an trú)
trong trạng thái xả, không còn hỷ.
|