- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 01-
PHẨM BẢY PHÁP
-
-
Tôi nghe như vầy:
-
Một thời Đức Phật du hành tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng
lâm, vườn Cấp cô độc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
“Ta sẽ nói cho các ngươi biết về bảy nơi mà bậc thiện nhân đi
đến và Vô dư Niết-bàn[02].
Các ngươi hãy lắng nghe và hãy suy nghĩ kỹ”.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo vâng lời lắng nghe.
-
Phật dạy:
-
“Những gì là bảy? Tỳ-kheo nên thực hành như vầy: ‘Ta không có
ta, cũng không có cái của ta[03].
Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã
có thì đoạn[04]’.
Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà
không đắm trước[05].
Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô
thượng[06],
nhưng vẫn chưa được chứng ngộ[07].
Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đốt trấu, vừa
nhen đã tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng thế, chút ít mạn chưa
trừ hết[08],
nhưng năm hạ phần kết[09]
đã đoạn hết, chứng Trung Bát-niết-bàn[10].
Đó là nơi đi đến của bậc thiện nhân thứ nhất, thế gian quả
thực có người như vậy.
-
“Lại nữa, Tỳ-kheo nên thực hành như vậy: ‘Ta không có ta, cũng
không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không
có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc
xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực
hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô
thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như
thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy
búa đập, lửa đóm tung lên không; vừa lên liền tắt. Nên biết,
Tỳ-kheo kia cũng lại như vậy; còn chút mạn chưa trừ hết, nhưng
năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Trung Bát-niết-bàn. Đó là
chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ hai, thế gian quả thực có
người như vậy.
-
“Lại nữa, Tỳ-kheo nên thực hành như vầy: ‘Ta không có ta, cũng
không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không
có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc
xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực
hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô
thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như
thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy
búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi từ không rơi trở lại; rơi
chưa đến đất liền tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như
thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn
hết, chứng Trung Bát-niết-bàn. Đó là chỗ đi đến của bậc thiện
nhân thứ ba, thế gian quả thực có người như vậy.[11]
-
“Lại nữa, Tỳ-kheo nên thực hành như vầy: ‘Ta không có ta, cũng
không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không
có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc
xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực
hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô
thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như
thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy
búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống, tới đất thì
tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn
chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Sanh
Bát-niết-bàn[12].
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ tư, thế gian quả thực
có người như vậy.
-
“Lại nữa, Tỳ-kheo nên thực hành như vầy: ‘Ta không có ta, cũng
không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không
có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc
xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực
hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô
thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như
thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy
búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống trên nhúm cỏ,
liền bốc khói hoặc phụt cháy; cháy hết mới tắt. Nên biết,
Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết,
nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Hành Bát-niết-bàn[13].
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ năm, thế gian quả thực
có người như vậy.
-
“Lại nữa, Tỳ-kheo nên thực hành như vầy: ‘Ta không có ta, cũng
không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không
có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc
xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực
hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô
thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như
thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy
búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống trên nhiều đám
cỏ, liền bốc khói hoặc phụt cháy, cháy hết mới tắt. Nên biết,
Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết,
nhưng năm hạ phần kiết đã đoạn hết, chứng Vô hành Bát-niết-bàn[14].
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ sáu, thế gian quả thực
có người như vậy.
-
“Lại nữa, Tỳ-kheo nên thực hành như vầy: ‘Ta không có ta, cũng
không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không
có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc
xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực
hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô
thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như
thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy
búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống trên nhiều đám
cỏ, liền bốc khói hoặc phụt cháy, cháy luôn cả thôn ấp, thành
quách, rừng núi, đồng nội, hoặc đến đường đi, hoặc mé nước,
cho đến đất bằng thì tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như
thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn
hết, chứng Thượng lưu A-ca-nị-trá Niết-bàn[15].
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ bảy, thế gian quả thực
có người như vậy.
-
“Vô dư Niết-bàn là gì? Tỳ-kheo nên thực hành như vầy: ‘Ta
không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không
có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi
đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không
đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ
tịch tĩnh vô thượng, và đã được chứng ngộ. Ta nói rằng Tỳ-kheo
kia không đi đến phía Đông, không đi đến phía Tây, Nam, Bắc,
tứ duy hay thượng, hạ, mà ngay trong đời này[16]
chứng được đạo lộ tịch tĩnh, diệt độ[17].
-
“Ta đã nói về nơi đi đến của bảy bậc thiện nhân và Vô dư
Niết-bàn xong. Nhân đó mà nói”.
-
Phật thuyết như thế. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết,
hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Bản Hán, bắt đầu quyển 2. Tương
đương Pāli: A. VII.52 Purisagati. Đề kinh theo
Tống-Nguyên-Minh: “Thiện Nhân Vãng Lai Kinh” Câu-xá 24 (Đại
29, tr.124b, 125a): thiện sĩ thú.
-
[02] Vô dư Niết-bàn, hoặc dịch là Vô
dư y Niết-bàn. (Pāli: anupādisesa-nibbāna), trái với Hữu dư y
Niết-bàn là sự chứng Niết-bàn với sự tồn tại của ngũ uẩn.
-
[03] Hán: ngã giả vô ngã, diệc vô
ngã sở. Pāli: no cassa no ca me siyā, “nó không hiện hữu, và
nó không phải là của ta”. Bản Hán hiểu no là đại từ ngôi thứ
nhất.
-
[04] Hán: dĩ hữu tiện đoạn. Pāli:
yadatthi ya bhūta ta pahajāmi, “Với cái gì đã hiện hữu, ta
đoạn trừ cái đó”.
-
[05] Hán: hữu lạc bất nhiễm, hiệp
hội bất trước. Pāli: so bhave na rajjati, sambahave na
rajjati, “vị ấy không đắm trước hữu (không hoan lạc trong cái
đang hiện hữu), không đắm trước sinh (không hoan lạc trong cái
đang xuất sinh)”.
-
[06] Hán: vô thượng tức tích. Pāli:
atthuttari pada santa sammapaññāya passati, “bằng chánh trí,
vị ấy thấy con đường tịch tĩnh dẫn đến mục đích tối thượng”.
-
[07] Pāli: ta ca khvassa pada na
sabbena sabba sacchikata hoti, “Nhưng không hoàn toàn thực
chứng đạo lộ ấy”.
-
[08] Hán: thiểu mạn vị tận. Pāli: na
sabbena sabba mānānusayo pahīno hoti, na sabbena sabba
bhavarāgānusayo pahīno hoti, na sabbena sabba avijjānusayo
pahīno hoti, “chưa hoàn toàn đoạn trừ mạn tùy miên; chưa hoàn
toàn đoạn trừ hữu ái tùy miên; chưa hoàn toàn đoạn trừ vô minh
tùy miên”.
-
[09] Hán: ngũ hạ phần kiết. Pāli:
pañca orambhāgiya sayojana.
-
[10] Trung Bát-niết-bàn trường hợp
Thánh giả A-na-hàm, sau khi chết ở Dục giới, trước khi tái
sinh Sắc giới, nhập Niết-bàn ở khoảng trung gian. Xem Câu-xá
quyển 24 (Đại 29, tr.124b). Pāli: antarā-parinibbāna.
-
[11] Ba ví dụ trên tương ứng với ba
cấp Trung Bát-niết-bàn: tốc, phi tốc và kinh cửu (nhanh, không
nhanh và lâu); xem Câu-xá 24 (Đại 29, tr.125a).
-
[12] Sanh Bát-niết-bàn vị A-na-hàm
sau khi tái sanh Sắc giới một thời gian không lâu liền nhập Vô
dư y Niết-bàn. Xem Tập dị 14 (Đại 26, tr.426a); Câu-xá 24 (Đại
29, tr.124b). Pāli: upahacca-parinibbāna, nhập Niết-bàn do rút
ngắn tuổi thọ sau khi sanh Sắc giới. Từ Pāli upahacca có nghĩa
là “làm tổn hại”. Bản Hán, theo từ gốc Skt. là upapadya (Pāli:
upapajja) có nghĩa là “sanh”.
-
[13] Hành Bát-niết-bàn, hay Hữu hành
Bát-niết-bàn vị A-na-hàm sau khi sanh Sắc giới, trải qua một
thời gian nỗ lực tu tập nữa rồi mới nhập Niết-bàn. Pāli:
sasaṃkhāra-parinibbāna. Câu-xá 24 (Đại 29, tr.124b), Tập dị 14
(Đại 26, tr.426b).
-
[14] Vô hành Bát-niết-bàn sau khi
tái sanh Sắc giới, không do nỗ lực tu tập mà nhập Niết-bàn.
Câu-xá 24 (Đại 26, tr.124b) cho rằng, trong Kinh tạng, Vô hành
được kể trước Hữu hành, như vậy hợp lý hơn. Xem thêm Tập dị 14
(Đại 26, tr.426b). Pāli cũng kể Vô hành trước Hữu hành. Pāli:
asakhāra-parinibbāna.
-
[15] Thượng lưu A-ca-nị-trá Niết-bàn
hay thượng lưu sắc cứu cánh Niết-bàn lần lượt tái sanh (trôi
lên) từ các cõi Sơ thiền, cho đến cao nhất của Tứ thiền, rồi
nhập Niết-bàn trong trạng thái đó. Câu-xá 24 (Đại 29,
tr.124c), Tập dị 14 (Đại 26, tr.416b). Pāli: uddhasoto
akanihagāmin.
-
[16] Hán: ư hiện pháp trung. Pāli:
ditheva dhamme.
-
[17] Hán: tức tích diệt độ.
-
|