- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 03. PHẨM XÁ-LÊ TỬ TƯƠNG
ƯNG
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại thành Vương xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa.
- Bấy giờ, vào
lúc xế chiều, Tôn giả Xá-lê Tử từ chỗ tĩnh tọa đứng dậy, đi
đến chỗ Tôn giả Đại Câu-hi-la[02],
chào hỏi lẫn nhau, rồi ngồi xuống một bên.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nói với Tôn giả Đại Câu-hi-la như vầy:
- “Tôi có điều
muốn hỏi, mong ngài nghe cho chăng?”
- Tôn giả Đại
Câu-hi-la trả lời rằng:
- “Thưa Tôn giả
Xá-lê Tử, ngài muốn hỏi điều gì xin cứ hỏi, tôi nghe rồi sẽ
suy nghĩ”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử hỏi rằng:
- “Này Hiền giả
Đại Câu-hi-la, có điều kiện nào mà nhân điều kiện đó mà
Tỳ-kheo thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất
hoại tịnh[03]
và thể nhập chánh pháp không?”
- Tôn giả Đại
Câu-hi-la trả lời rằng:
- “Có vậy, thưa
Tôn giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết bất thiện và biết căn
của bất thiện.
- “Thế nào là
biết bất thiện? Ác hành của thân là bất thiện, áùc hành của
khẩu là bất thiện, và ác hành của ý là bất thiện. Đó là biết
bất thiện.
- “Thế nào là
biết bất thiện căn? Tham là căn của bất thiện, nhuế, và si là
căn của bất thiện. Đó là biết căn của bất thiện.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử. Nếu có Tỳ-kheo biết bất thiện và biết căn của bất
thiện như vậy, đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh
kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều kiện nào mà nhân điều kiện đó
Tỳ-kheo thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất
hoại tịnh, và thể nhập chánh pháp chăng?
- “Có vậy, thưa
Tôn giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết thiện và biết căn của
thiện.
- “Thế nào là
biết thiện? Diệu hành của thân là thiện. Diệu hành của ý và
khẩu là thiện. Đó là biết thiện.
- “Thế nào là
biết căn của thiện? Vô tham là căn của thiện, vô nhuế và vô si
là căn của thiện. Đó là biết căn của thiện.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử. Nếu có Tỳ-kheo biết thiện và biết thiện căn như vậy,
đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp
được bất hoại tịnh, và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- Tôn giả Đại
Câu-hi-la trả lời rằng:
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Nghĩa là Tỳ-kheo biết như thật về thức ăn, biết
như thật về tập của thức ăn, thực diệt và thực diệt đạo của
thức ăn[04].
- “Thế nào là
biết như thật về thức ăn? Có bốn loại thức ăn: Một là đoàn
thực, thô và tế[05];
hai là xúc thực[06];
ba là ý tư thực[07];
bốn là thức thực[08].
Đó là biết như thật về thức ăn.
- “Thế nào là
biết như thật về tập của thức ăn[09]?
Do ái mới có thức ăn. Đó là biết như thật về tập của thức ăn.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt của thức ăn? Ái diệt tức là thức ăn
diệt. Đó là biết như thật về diệt của thức ăn.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt đạo của thức ăn[10]?
Tám chi Thánh đạo, từ chánh kiến cho tới chánh định là tám. Đó
là biết như thật về diệt đạo của thức ăn.
- “Tôn giả Xá-lê
Tử. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật về thức ăn, biết như thật về
tập của thức ăn, thực diệt và thực diệt đạo của thức ăn như
vậy; đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với
pháp được bất hoại tịnh, và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về lậu, biết như
thật về lậu tập của lậu, diệt của lậu và diệt đạo của lậu.
- “Thế nào là
biết như thật về lậu? Có ba lậu là dục lậu, hữu lậu và vô minh
lậu[11].
Đó là biết như thật về lậu.
- “Thế nào là
biết như thật về tập của lậu? Do vô minh mới có lậu. Đó là
biết như thật về tập của lậu.
- Thế nào là biết
như thật về diệt của lậu? Do vô minh diệt thì lậu diệt. Đó là
biết như thật về diệt của lậu.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt đạo của lậu? Tám chi Thánh đạo từ chánh
kiến cho tới chánh định là tám. Đó là biết như thật về diệt
đạo của lậu.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật về lậu, biết như thật
về lậu tập của lậu, diệt của lậu và diệt đạo của lậu như vậy;
đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp
được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành tựu
kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và thể
nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về khổ, biết như
thật về khổ tập, khổ diệt và khổ diệt đạo.
- “Thế nào là
biết như thật về khổ? Sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, oán
tắng hội khổ, ái biệt ly khổ, sở cầu bất đắc khổ, nói tóm lại
ngũ thạnh ấm khổ. Đó là biết như thật về khổ.
- “Thế nào là
biết như thật về khổ tập? Do lão tử mới có khổ. Đó là biết như
thật về khổ tập.
- “Thế nào là
biết như thật về khổ diệt? Lão tử diệt tức khổ diệt. Đó là
biết như về khổ diệt.
- “Thế nào là
biết như thật về khổ diệt đạo? Tám chi Thánh đạo từ chánh kiến
cho đến chánh định là tám. Đó là biết như thật về khổ diệt
đạo.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật về khổ. Biết như thật
về khổ tập, khổ diệt và khổ diệt đạo như vậy. Đó là Tỳ-kheo đã
thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại
tịnh và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về già chết, biết
như thật về tập khởi của già chết, diệt của già chết và diệt
đạo của già chết.
- “Thế nào là
biết như thật về già? Đó là, người kia già cả, đầu bạc, răng
rụng, sự cường tráng càng ngày càng suy giảm, thân còng, chân
vẹo, cơ thể nặng nề, hơi thở đưa lên, chống gậy mà đi, thịt
teo rút, da nhăn như cây gai, các căn rụng rời, nhan sắc xấu
xí. Đó là biết như thật về già.
- “Thế nào là
biết như thật về chết? Đó là, chúng sanh kia và tất cả chủng
loại sai biệt của chúng sanh kia, khi mạng chung, cơn vô
thường đến, thì chết rồi chôn và tan rã, tuổi thọ chấm dứt và
bị phá hoại, mạng căn bế tắc; đó là của chết. Trước kia là nói
về già, đây là nói về chết. Đó gọi là lão tử. Đó là biết như
thật về lão tử.
- “Thế nào là
biết như thật về tập của già chết? Đó là, do sanh mà có già
chết. Đó là biết như thật về tập của già chết.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt của già chết? Đó là, sanh diệt tức già
chết diệt. Đó là biết như thật về diệt của già chết.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt đạo của già chết? Tám chi Thánh đạo từ
chánh kiến cho đến chánh định là tám. Đó là biết như thật về
diệt đạo của già chết.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật về già chết. Biết như
thật về tập của già chết, lão tử diệt của già chết và diệt đạo
của già chết như vậy; đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến được
chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh
pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về sanh, biết như
thật về tập của sanh, diệt của sanh và diệt đạo của sanh.
- “Thế nào là
biết như thật về sanh? Đó là, chúng sanh kia và tất cả chủng
loại sai biệt của chúng sanh kia, đến lúc sanh thì sanh, đến
lúc xuất thì xuất, đến lúc thành thì thành; khi phát khởi năm
ấm liền có mạng căn. Đó là biết như thật về sanh.
- “Thế nào là
biết như thật về tập của sanh? Do hữu mà có sanh. Đó là biết
như thật về tập của sanh.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt của sanh? Hữu diệt tức sanh diệt. Đó là
biết như thật về diệt của sanh.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt đạo của sanh? Tám chi Thánh đạo từ chánh
kiến cho đến chánh định là tám. Đó là biết như thật về diệt
đạo của sanh.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật về sanh. Biết như thật
về tập của sanh, diệt của sanh và diệt đạo của sanh như vậy;
đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp
được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về hữu, biết như
thật về tập của hữu, diệt của hữu và diệt đạo của hữu.
- “Thế nào là
biết như thật về hữu? Có ba hữu: Dục hữu, sắc hữu và vô sắc
hữu[12].
Đó là biết như thật về hữu.
- Thế nào là biết
như thật về tập của hữu? Do thủ[13]
mà có hữu. Đó là biết như thật về hữu tập.
- Thế nào là biết
như thật về hữu diệt? Thủ diệt tức hữu diệt. Đó là biết như
thật về hữu diệt.
- Thế nào là biết
như thật về hữu diệt đạo? Tám chi Thánh đạo, từ chánh kiến cho
đến chánh định là tám. Đó là biết như thật về hữu diệt đạo?
- Này Tôn giả
Xá-lê Tử. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật về hữu, biết như thật
về hữu tập, hữu diệt và hữu diệt đạo như vậy. Đó là Tỳ-kheo đã
thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại
tịnh và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về thủ, biết như
thật về thủ tập, thủ diệt và thủ diệt đạo.
- “Thế nào là
biết như thật về thủ? Đó là bốn thủ[14]:
dục thủ, giới thủ, kiến thủ và ngã thủ. Đó là biết như thật về
thủ.
- “Thế nào là
biết như thật về tập của thủ? Do ái mà có thủ. Đó là biết như
thật về tập của thủ.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt của thủ? Nghĩa là ái diệt thì thủ diệt.
Đó là biết như thật về diệt của thủ.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt đạo của thủ? Tám chi Thánh đạo, từ chánh
kiến cho đến chánh định là tám. Đó là biết như thật về diệt
đạo của thủ.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật về thủ, biết như thật
về tập của thủ, diệt của thủ và diệt đạo của thủ như vậy; đó
là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp
được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về ái, biết như
thật về tập của ái, diệt của ái và diệt đạo của ái.
- “Thế nào là
biết như thật về ái? Có ba ái: dục ái, sắc ái và vô sắc ái[15].
Đó là biết như thật về ái.
- “Thế nào là
biết như thật về tập của ái? Do thọ[16]
mà có ái. Đó là biết như thật về tập của ái.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt của ái? Thọ diệt tức ái diệt. Đó là biết
như thật về diệt của ái.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt đạo của ái? Tám chi Thánh đạo từ chánh
kiến cho đến chánh định là tám. Đó là biết như thật về diệt
đạo của ái.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật về ái, biết như thật về
tập của ái, diệt của ái và diệt đạo của ái như vậy; đó là
Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được
bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về thọ, biết như
thật về tập của thọ, diệt của thọ và diệt đạo của thọ.
- “Thế nào là
biết như thật về thọ? Có ba thọ: lạc thọ[17],
khổ thọ và bất lạc bất khổ thọ. Đó là biết như thật về thọ.
- “Thế nào là
biết như thật về tập của thọ? Do xúc[18]
mà có thọ. Đó là biết như thật về tập của thọ.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt của thọ? Do xúc diệt nên thọ diệt. Đó là
biết như thật về diệt của thọ.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt đạo của thọ? Tám chi Thánh đạo từ chánh
kiến cho đến chánh định. Đó là biết như thật về diệt đạo của
thọ.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo biết như thật về thọ, biết như thật
về tập của thọ, diệt của thọ và diệt đạo của thọ như vậy; đó
là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp
được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về xúc, biết như
thật về tập của xúc, diệt của xúc và diệt đạo của xúc.
- “Thế nào là
biết như thật về xúc? Có ba xúc[19]:
lạc xúc, khổ xúc và bất lạc bất khổ xúc. Đó là biết như thật
về xúc.
- “Thế nào là
biết như thật về tập của xúc? Do sáu xứ mà có xúc. Đó là biết
như thật về tập của xúc.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt của xúc? Sáu xứ diệt tức xúc diệt. Đó là
biết như thật về diệt của xúc.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt đạo của xúc? Tám chi Thánh đạo từ chánh
kiến đến chánh định là tám. Đó là biết như thật về diệt đạo
của xúc.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo biết như thật về xúc, biết như thật
về tập của xúc, diệt của xúc và diệt đạo của xúc như vậy; đó
là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp
được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về sáu xứ[20],
biết như thật về tập của sáu xứ, diệt của sáu xứ và diệt đạo
của sáu xứ.
- “Thế nào là
biết như thật về sáu xứ? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ,
thân xứ, ý xứ. Đó là biết như thật về sáu xứ.
- “Thế nào là
biết như thật về tập của sáu xứ? Do danh sắc mà có sáu xứ. Đó
là biết như thật về tập của sáu xứ.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt của sáu xứ? Danh sắc diệt tức sáu xứ
diệt. Đó là biết như thật về diệt của sáu xứ.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt đạo của sáu xứ? Tám chi Thánh đạo từ
chánh kiến cho đến chánh định là tám. Đó là biết như thật về
diệt đạo của sáu xứ.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo biết như thật về sáu xứ, biết như
thật về tập của sáu xứ, diệt của sáu xứ và diệt đạo của sáu xứ
như vậy; đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối
với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử, đó là có Tỳ-kheo biết như thật về danh sắc[21],
biết như thật về tập của danh sắc, diệt của danh sắc và diệt
đạo của danh sắc.
- “Thế nào là
biết như thật về danh sắc? Đó là bốn ấm phi sắc[22]
là danh. Thế nào là biết về sắc? Bốn đại[23]
và sắc do bốn đại tạo[24].
Đây là nói về sắc, trước đó nói về danh, đó là danh sắc. Đó là
biết như thật về danh sắc.
- Thế nào là biết
như thật về tập của danh sắc? Do thức mà có danh sắc. Đó là
biết như thật về tập của danh sắc.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt của danh sắc? Thức diệt tức danh sắc
diệt? Đó là biết như thật về diệt của danh sắc.
- Thế nào là biết
như thật về diệt đạo của danh sắc? Tám chi Thánh đạo từ chánh
kiến cho đến chánh định là tám. Đó là biết như thật về diệt
đạo của danh sắc.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo biết như thật về danh sắc, biết như
thật về tập của danh sắc, diệt của danh sắc và diệt đạo của
danh sắc như vậy. Đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến được chánh
kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
- Tôn giả
Xá-lợi-phất nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về thức[25],
biết như thật về tập của thức, diệt của thức và diệt đạo của
thức.
- “Thế nào là
biết như thật về thức? Có sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Đó là biết như thật về
thức.
- “Thế nào là
biết như thật về tập của thức? Do hành mà có thức. Đó là biết
như thật về tập của thức.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt của thức? Hành diệt tức thức diệt. Đó là
biết như thật về diệt của thức.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt đạo của thức? Tám chi Thánh đạo từ chánh
kiến cho đến chánh định là tám. Đó là biết như thật về diệt
đạo của thức.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo biết như thật về thức, biết như thật
về tập của thức, diệt của thức và diệt đạo của thức như vậy,
đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp
được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, lại còn có điều nào mà nhân điều đó Tỳ-kheo thành
tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh, và
thể nhập chánh pháp chăng?”
- “Có, thưa Tôn
giả Xá-lê Tử. Đó là có Tỳ-kheo biết như thật về hành[26],
biết như thật về tập của hành, diệt của hành và diệt đạo của
hành.
- “Thế nào là
biết như thật về hành? Có ba hành[27]:
thân hành, khẩu hành và ý hành. Đó là biết như thật về hành.
- “Thế nào là
biết như thật về tập của hành? Do vô minh mà có hành. Đó là
biết như thật về tập của hành.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt của hành? Vô minh diệt tức hành diệt. Đó
là biết như thật về diệt của hành.
- “Thế nào là
biết như thật về diệt đạo của hành? Tám chi Thánh đạo từ chánh
kiến cho đến chánh định là tám. Đó là biết như thật về diệt
đạo của hành.
- “Này Tôn giả
Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo biết như thật về hành, biết như thật
về tập của hành, diệt của hành và diệt đạo của hành như vậy,
đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp
được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Tôn giả Xá-lê
Tử lại hỏi rằng:
- “Hiền giả Đại
Câu-hi-la, nếu có Tỳ-kheo mà vô minh đã dứt, minh đã phát
sanh, thì vị ấy còn phải làm những gì nữa?”
- Tôn giả Đại
Câu-hi-la trả lời rằng:
- “Thưa Tôn giả
Xá-lê Tử, nếu có thầy Tỳ-kheo mà vô minh đã dứt, minh đã phát
sanh, thì vị ấy không còn gì phải làm nữa”.
- Tôn giả Xá-lê
Tử nghe rồi khen rằng:
- “Lành thay,
lành thay, Hiền giả Đại Câu-hi-la!”
- Tôn giả Xá-lê
Tử khen ngợi rồi hoan hỷ phụng hành.
- Hai vị Tôn giả
cùng nhau nói về nghĩa như vậy, thảy đều hoan hỷ phụng hành,
từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Bản Hán, quyển
7. Tương đương Pāli, không tìm thấy tương đương chính xác; A.
IX. 13 Koihita, A.IV. 174 Kohika, ghi giữa cuộc thảo luận
giữa ngài Mahākohika và Sāriputta với nội dung không hoàn
toàn đồng nhất với bản Hán này.
-
[02] Đại Câu-hi-la. Pāli: Mahākohita, hoặc Mahākohika.
-
[03] Bất hoại tịnh. Pāli: avecca-pasāda, cũng nói là bất động tín, bất hoại
tín, hay chứng tịnh; tín tâm không thể bị lay chuyển; đức tin
trong sáng. Có bốn bất hoại tín (chứng tịnh): tin Phật, tin
Pháp, tin Tăng, tin Thánh giới.
-
[04] Thực. Pāli:
āhāra. Có bốn loại thức ăn; xem các cht. dưới.
-
[05] Đoàn thực thô tế, thức ăn được nắn lại hay vo tròn (theo tục ăn bốc);
thức ăn vật chất, gồm loại cứng và loại mềm tức cố thể và chất
lỏng; Pāli: kabalikāro āhāro oāriko vā sukkumo.
-
[06] Nguyên-Hán: canh
lạc thực, hay xúc thực, thức ăn là sự xúc chạm, chỉ sự
tiếp xúc giữa căn và cảnh. Pāli: phasso āhāro.
-
[07] Ý tư thực,
hay tư niệm thực, thức ăn là tư duy của ý thức. Pāli:
manosañcetanā-āhāro.
-
[08] Thức thực,
thức ăn là sự nhận thức, phân biệt. Pāli: viññāa āhāro.
-
[09] Hán: thực tập. Pāli: āhāra-samudaya, sự tập khởi hay khởi nguyên của thức
ăn.
-
[10] Hán: thực diệt
đạo. Pāli: āhāra-nirodha-gāminipipadā, sự thực hành dẫn
đến chỗ diệt trừ thức ăn.
-
[11] Ba lậu: dục lậu,
hữu lậu, vô minh lậu. Pāli: kāma-āsavā,
bhava-āsavā, avijjā-āsavā.
-
[12] Ba hữu: dục hữu,
sắc hữu, vô sắc hữu. Pāli: kāma-bhava, rūpa-bhava, ārūpa-kāma.
-
[13] Nguyên-Hán: thọ. Pāli: upādāna.
-
[14] Hán: tứ thọ.
Bốn thọ hay bốn thủ: dục thủ, giới (cấm) thủ, kiến
thủ, ngã (ngữ) thủ. Pāli: cattārimāni upādānāni,
kāmupādāna dihupādāna sīlabbatupādana attavādupādāna.
-
[15] Ba ái: dục ái,
sắc ái, vô sắc ái. Pāli: kāma-tahā,
rūpa-taihā, arūpa-tahā.
-
[16] Nguyên-Hán: giác; Pāli: vedanā.
-
[17] Hán: ba giác,
tức ba thọ: khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Pāli: tisso vedanā, sukhā vedanā dukkhā vedanā
adukkhamasukhā vedanā.
-
[18] Hán: canh lạc. Pāli: phassa.
-
[19] Hán: ba canh
lạc: lạc canh lạc, khổ canh lạc, bất lạc bất khổ
canh lạc.
-
[20] Lục xứ.
Pāli: cha ayātana.
-
[21] Danh sắc.
Pāli: nāma-rūpa.
-
[22] Tứ phi sắc ấm
(hay uẩn). Pāli: cattāro arūpakkhandhā, gồm thọ,
tưởng, hành và thức.
-
[23] Tứ đại.
Pāli: cattāro mahābhūtā.
-
[24] Tứ đại tạo vi
sắc. Pāli: catuma mahābhūtāna upādāya rūpa.
-
[25] Thức. Pāli:
viññāa.
-
[26] Hành. Pāli:
sakhāra.
-
[27] Ba hành: thân
hành, khẩu hành, ý hành. Pāli: tayo sakhāra, kāyasakhāro
vacīsakhāro cittasakhāro.
|