- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 04. PHẨM VỊ TẰNG HỮU PHÁP
-
- Tôi
nghe như vầy:
- Một thời Phật
du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm vườn Cấp cô độc.
- Bấy giờ, vào
lúc xế chiều[02],
Tôn giả A-nan[03]
rời tĩnh tọa đứng dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân
Phật, rồi đứng qua một bên, thưa rằng:
- “Bạch Thế Tôn,
con nghe rằng, Đức Thế Tôn vào thời Phật Ca-diệp[04]
bắt đầu phát nguyện Phật đạo, tu hành phạm hạnh. Nếu Thế Tôn
vào thời Phật Ca-diệp bắt đầu phát nguyện Phật đạo, tu hành
phạm hạnh; con xin thọ trì pháp vị tằêng hữu ấy của Thế Tôn.
- “Con nghe rằng[05],
Đức Thế Tôn vào thời Phật Ca-diệp bắt đầu phát nguyện Phật
đạo, tu hành phạm hạnh và sinh lên cõi trời Đâu-suất[06].
Nếu Đức Thế Tôn vào thời Phật Ca-diệp bắt đầu phát nguyện Phật
đạo, tu hành phạm hạnh và sinh lên cõi trời Đâu-suất; con xin
thọ trì pháp vị tằng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng,
Đức Thế Tôn vào thời Phật Ca-diệp bắt đầu phát nguyện Phật
đạo, tu hành phạm hạnh và sinh lên cõi trời Đâu-suất. Thế Tôn
sinh lên sau nhưng có ba việc thù thắng hơn các vị trời sinh
trước. Đó là thọ mạng, dung sắc và vinh dự nhà trời[07].
Do đó nên các vị trời Đâu-suất vui mừng hớn hở, tán thán rằng:
‘Kỳ diệu thay, hy hữu thay, vị thiên tử này có đại như ý túc,
có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần. Vì sao vậy?
Vì vị ấy sinh đến đây sau nhưng có ba việc thù thắng hớn những
vị trời Đâu-suất đã sinh đến trước; đó là thọ mạng, dung sắc
và vinh dự nhà trời. Nếu Đức Thế Tôn vào thời Phật Ca-diệp bắt
đầu phát nguyện Phật đạo, tu hành phạm hạnh và sinh lên cõi
trời Đâu-suất. Thế Tôn sinh lên sau nhưng có ba việc thù thắng
hơn các vị trời sinh trước. Đó là thọ mạng, dung sắc và vinh
dự nhà trời. Do đó nên các vị trời Đâu-suất vui mừng hớn hở,
tán thán rằng: ‘Kỳ diệu thay, hy hữu thay, vị thiên tử này có
đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai
thần. Vì sao vậy? Vì vị ấy sinh đến đây sau nhưng có ba việc
thù thắng hớn những vị trời Đâu-suất đã sinh đến trước; đó là
thọ mạng, dung sắc và vinh dự nhà trời. Thế thì con xin thọ
trì pháp vị tằêng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe
rằng, Đức Thế Tôn mạng chung ở trời Đâu-suất, biết sẽ vào thai
mẹ[08],
lúc ấy chấn động tất cả đất trời, có ánh sáng vi diệu quảng
đại chiếu khắp thế gian cho đến chỗ u tối, cũng không có gì
ngăn che được; nghĩa là nơi nào mặt trời, mặt trăng này dù có
đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai
thần, cũng không chiếu rọi ánh sáng đến được, thì tất cả nơi
ấy đều được chiếu ngời. Chúng sanh ở các nơi ấy do thấy ánh
sáng nhiệm mầu này đều mỗi mỗi phát sanh nhận thức rằng: ‘Có
một chúng sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời! Có một chúng sanh kỳ
diệu, hy hữu ra đời!’ Nếu Đức Thế Tôn mạng chung ở trời
Đâu-suất, biết sẽ vào thai mẹ, lúc ấy chấn động tất cả đất
trời, có ánh sáng vi diệu quảng đại chiếu khắp thế gian cho
đến chỗ u tối, cũng không có gì ngăn che được; nghĩa là nơi
nào mặt trời, mặt trăng này dù có đại như ý túc, có đại oai
đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, cũng không chiếu rọi
ánh sáng đến được, thì tất cả nơi ấy đều được chiếu ngời.
Chúng sanh ở các nơi ấy do thấy ánh sáng nhiệm mầu này đều mỗi
mỗi phát sanh nhận thức rằng: ‘Có một chúng sanh kỳ diệu, hy
hữu ra đời! Có một chúng sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời![09]’
Thì con xin thọ trì pháp vị tằng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe
rằng, Đức Thế Tôn biết mình trụ trong thai mẹ[10],
tựa vào hông bên phải. Nếu Đức Thế Tôn biết mình trụ trong
thai mẹ, tựa vào hông bên phải, thì con xin thọ trì pháp vị
tằêng hữu này của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng,
Đức Thế Tôn hình thể duỗi dài[11]
trụ trong thai mẹ. Nếu Đức Thế Tôn hình thể duỗi dài trụ trong
thai mẹ, thì con xin thọ trì pháp vị tằêng hữu ấy của Đức Thế
Tôn.
- “Con nghe rằng,
Đức Thế Tôn, được bao che, trụ trong thai mẹ, không bị máu dơ
làm cho ô uế, cũng không bị tinh khí các thứ bất tịnh khác làm
cho ô uế. Nếu Đức Thế Tôn, được bao che, trụ trong thai mẹ,
không bị máu dơ làm cho ô uế, cũng không bị tinh khí bất tịnh
khác làm cho ô uế; thì con xin thọ trì pháp vị tằêng hữu ấy
của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng,
Đức Thế Tôn biết[12]
mình ra khỏi thai mẹ, lúc ấy chấn động tất cả đất trời, có ánh
sáng vi diệu quảng đại chiếu khắp thế gian cho đến chỗ u tối,
cũng không có gì ngăn che được; nghĩa là nơi nào mặt trời, mặt
trăng này dù có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước
hựu, có đại oai thần, cũng không chiếu rọi ánh sáng đến được,
thì tất cả nơi ấy đều được chiếu ngời. Chúng sanh ở các nơi ấy
do thấy ánh sáng nhiệm mầu này đều mỗi mỗi phát sanh nhận thức
rằng: ‘Có một chúng sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời! Có một chúng
sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời!’ Nếu Đức Thế Tôn biết mình ra
khỏi thai mẹ, lúc ấy chấn động tất cả đất trời, có ánh sáng vi
diệu quảng đại chiếu khắp thế gian cho đến chỗ u tối, cũng
không có gì ngăn che được; nghĩa là nơi nào mặt trời, mặt
trăng này dù có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước
hựu, có đại oai thần, cũng không chiếu rọi ánh sáng đến được,
thì tất cả nơi ấy đều được chiếu ngời. Chúng sanh ở các nơi ấy
do thấy ánh sáng nhiệm mầu này đều mỗi mỗi phát sanh nhận thức
rằng: ‘Có một chúng sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời! Có một chúng
sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời!’ Thì con xin thọ trì pháp vị
tằêng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng,
Đức Thế Tôn thân thể duỗi dài[13]
mà ra khỏi thai mẹ. Nếu Đức Thế Tôn thân thể duỗi dài mà ra
khỏi thai mẹ thì con xin thọ trì pháp vị tằêng hữu này của Đức
Thế Tôn.
- “Con nghe
rằng, Đức Thế Tôn được bao che khi ra khỏi thai mẹ, không bị
máu dơ làm cho ô uế, cũng không bị tinh khí và các vật bất
tịnh khác làm cho ô uế. Nếu Đức Thế Tôn được bao che khi ra
khỏi thai mẹ, không bị máu dơ làm cho ô uế, cũng không bị tinh
khí và các thứ bất tịnh khác làm cho ô uế; thì con xin thọ trì
pháp vị tằêng hữu này của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng,
khi Đức Thế Tôn mới sanh ra, có bốn vị thiên tử, tay cầm tấm
vải rất mịn đứng trước thai mẹ, làm cho người mẹ hoan hỷ, tán
thán rằng: “Đồng tử này rấy kỳ diệu, rất hy hữu, có đại như ý
túc, có đại oai đức, có đại phước hữu, có đại oai thần’. Nếu
như Đức Thế Tôn mới sanh ra, có bốn vị thiên tử, tay cầm tấm
vải rất mịn đứng trước thai mẹ, làm cho người mẹ hoan hỷ, tán
thán rằng: “Đồng tử này rấy kỳ diệu, rất hy hữu, có đại như ý
túc, có đại oai đức, có đại phước hữu, có đại oai thần’. Thì
con xin thọ trì pháp vị tằêng hữu này của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng,
khi Đức Thế Tôn vừa mới sanh ra, liền đi bảy bước không khiếp
sợ, không kinh hãi, quan sát các phương. Nếu Thế Tôn vừa mới
sanh ra, liền đi bảy bước không khiếp sợ, không kinh hãi, quan
sát các phương; thì con xin thọ trì pháp vị tằêng hữu này của
Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng,
khi Đức Thế Tôn vừa mới sanh ra, thì ngay phía trước người mẹ
bỗng hiện một hồ nước lớn, nước đầy tràn bờ, làm cho người mẹ
ở nơi ấy được thọ dụng thanh tịnh. Nếu Thế Tôn vừa mới sanh
ra, thì ngay phía trước người mẹ bỗng hiện một hồ nước lớn,
nước đầy tràn bờ, làm cho người mẹ ở nơi ấy được thọ dụng
thanh tịnh; con xin thọ trì pháp vị tằêng hữu ấy của Đức Thế
Tôn.
- “Con nghe rằng,
khi Đức Thế Tôn vừa mới sanh ra, từ trên hư không nước mưa
rưới xuống, một ấm, một lạnh, để tắm thân thể của Thế Tôn. Nếu
khi Đức Thế Tôn vừa mới sanh ra, từ trên hư không nước mưa
rưới xuống, một ấm, một lạnh, để tắm thân thể của Thế Tôn; con
xin thọ trì pháp vị tằêng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng,
khi Đức Thế Tôn vừa mới sanh ra, chư Thiên ở trên hư không tấu
lên âm nhạc của trời; hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen đỏ,
hoa sen trắng và hoa Văn-đà-la[14]
của trời, và bột hương chiên-đàn được rải lên Đức Thế Tôn. Nếu
khi Đức Thế Tôn vừa mới sanh ra, chư Thiên ở trên hư không tấu
lên âm nhạc của trời; hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen đỏ,
hoa sen trắng và hoa Văn-đà-la của cõi trời, và bột hương
chiên-đàn được rải lên Đức Thế Tôn; con xin thọ trì pháp vị
tằêng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng,
Đức Thế Tôn, ở tại nhà của cha là Bạch Tịnh vương, vào một
ngày đi dự lễ hạ điền, ngồi dưới gốc cây Diêm-phù[15],
ly dục, ly ác bất thiện pháp, có giác có quán, có lạc phát
sanh do viễn ly, nhập Sơ thiền, thành tựu và an trụ. Bấy giờ
là buổi xế, tất cả bóng của các cây khác đều đã ngả dần, chỉ
có cây Diêm-phù là bóng cây không ngả, che mát thân của Đức
Thế Tôn. Lúc đó, Thích Bạch Tịnh đến quan sát công tác hạ
điền, đi đến chỗ người làm ruộng hỏi rằng: ‘Này nông phu[16],
Vương tử ở chỗ nào?’
- Người ấy trả
lời rằng: ‘Vương tử[17]
hiện đang ở dưới gốc cây Diêm-phù.” Rồi Thích Bạch Tịnh đi đến
cây Diêm-phù, bấy giờ là xế trưa, Thích Bạch Tịnh thấy bóng
của tất cả các cây khác đều đã ngả, chỉ có bóng cây Diêm-phù
là không ngả, để che mát thân thể của Thế Tôn, liền nghĩ như
vầy: ‘Vương tử này thật là kỳ diệu, rất hy hữu, có đại như ý
túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần. Vì sao
thế? Vì vào lúc xế trưa tất cả các bóng cây đều ngả, chỉ có
bóng cây Diêm-phù là không ngả, để che mát thân của vương tử’.
Nếu vào buổi xế trưa tất cả cây đều ngả bóng, chỉ có bóng cây
Diêm-phù không ngả, để che mát thân thể của Đức Thế Tôn; con
xin thọ trì pháp vị tằêng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng
có một thời Đức Thế Tôn du hóa tại Bệ-xá-li, trong Đại lâm[18].
Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc sáng sớm, Đức Thế Tôn khoác y
cầm bát vào thành Bệ-xá-li khất thực. Sau khi khất thực xong,
xếp y, cất bát, rửa tay chân, vắt Ni-sư-đàn lên vai, đi vào
rừng, đến dưới một gốc cây Đa-la, trải Ni-sư-đàn, ngồi
kiết-già. Bấy giờ là lúc xế bóng[19],
tất cả các bóng cây khác đều ngả, chỉ có bóng cây Đa-la là
không ngả để che mát thân thể của Đức Thế Tôn. Bấy giờ vào lúc
xế bóng, Thích Ma-ha-nam[20]
ung dung đi đến Đại lâm. Thích Ma-ha-nam thấy rằng, vào buổi
xế, tất cả bóng cây đều ngả chỉ trừ bóng cây Đa-la là không
ngả để che mát thân thể của Đức Thế Tôn, liền nghĩ như vầy:
‘Sa-môn Cù-đàm rất là kỳ diệu, rất là hy hữu, có đại như ý
túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần. Vì sao
vậy? Vì vào buổi xế, tất cả bóng cây đều ngả, chỉ có bóng cây
Đa-la là không ngả để che mát thân thể Cù-đàm’. Nếu lúc xế
bóng, tất cả các bóng cây khác đều ngã, chỉ có bóng cây Đa-la
là không ngả để che mát thân thể của Đức Thế Tôn; con xin thọ
trì pháp vị tằêng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng,
một thời Thế Tôn du hóa tại nước Bệ-xá-li, trong Đại lâm. Bấy
giờ các Tỳ-kheo để bát ngoài chỗ đất trống, bát của Thế Tôn
cũng có trong số ấy, có một con khỉ ôm bát của Thế Tôn mà đi.
Các thầy Tỳ-kheo la ó, sợ nó làm bể bát của Thế Tôn. Nhưng Thế
Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: ‘Hãy để yên. Hãy để yên. Đừng la. Nó
không làm bể bát đâu’. Thế rồi khỉ ôm bát của Thế Tôn mà đi,
đến một cây Sa-la, chậm rãi leo lên, lấy đầy bát mật nơi cây
Sa-la, rồi chậm rãi leo xuống, trở về chỗ Đức Phật, đem dâng
bát mật ấy lên Đức Phật. Đức Thế Tôn không thọ nhận. Lúc ấy
khỉ liền ôm bát qua một bên, dùng đũa gắp bỏ sâu. Sau khi nhặt
bỏ sâu, nó ôm bát trở lại dâng lên Thế Tôn. Thế Tôn lại không
nhận. Khỉ lại ôm qua một bên, múc nước đổ vào trong mật, rồi
ôm trở lại dâng lên Thế Tôn. Thế Tôn liền thọ nhận. Khỉ thấy
Thế Tôn lấy bát mật rồi liền vui mừng hớn hở, múa may nhảy
nhót rồi bỏ đi. Nếu Đức Thế Tôn khiến con khỉ kia, khi thấy
Đức Thế Tôn lấy bát mật rồi vui mừng hớn hở múa may nhảy nhót,
rồi đi; con xin thọ trì pháp vị tằêng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng
một thời Đức Thế Tôn du hóa Bệ-xá-li, ở tại ngôi lầu cao[21],
bên bờ ao Di hầu. Bấy giờ Thế Tôn đang phơi tọa cụ, rũ bụi,
phủi đất. Lúc ấy có một đám mây đến trái thời che kín khắp hư
không muốn mưa nhưng dừng lại chờ Đức Thế Tôn phơi tọa cụ, rũ
bụi, phủi đất, xếp cất một nơi, rồi mang cất chổi; vào đứng
trong nền nhà. Bấy giờ đám mây lớn ấy thấy Đức Thế Tôn xếp cất
tọa cụ rồi mới đổ mưa xuống rất lớn, từ cao cho đến thấp, nước
ngập tràn lai láng. Nếu Đức Thế Tôn làm cho đám mây lớn kia
thấy Thế Tôn xếp cất tọa cụ rồi, mới mưa xuống thật to và từ
đất cho đến thấp nước ngập tràn lai láng; con xin thọ trì pháp
vị tằng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe một
thời Đức Thế Tôn du hóa tại Bạt-kỳ[22],
ngồi dưới cây Sa-la thọ vương, trong rừng Ôn tuyền. Bấy giờ là
buổi xế trưa, tất cả bóng cây khác đều ngả, chỉ trừ bóng cây
Sa-la thọ vương là không ngả, để che mát thân thể Đức Thế Tôn.
Khi ấy chủ vườn La-ma đi dạo xem vườn, thấy rằng vào buổi xế,
tất cả bóng cây khác đều ngả, chỉ trừ bóng cây Sa-la thọ vương
là không ngả để che mát thân thể của Thế Tôn, liền nghĩ như
vầy: ‘Sa-môn Cù-đàm thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, có đại
như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần.
Vì sao vậy? Vì sao buổi xế tất cả bóng cây khác đều ngả, chỉ
trừ cây Sa-la thọ vương là không ngả bóng để che mát thân thể
của Sa-môn Cù-đàm. Nếu Đức Thế Tôn vào buổi xế tất cả bóng cây
khác đều ngả, chỉ trừ bóng cây Sa-la thọ vương là không ngả để
che mát thân thể của Thế Tôn; con xin thọ trì pháp vị tằêng
hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng
có một thời Đức Thế Tôn ở trong miếu thần A-phù[23].
Bấy giờ khi đêm đã tàn, vào lúc sáng sớm, Đức Thế Tôn khoác y
ôm bát vào thôn A-phù để khất thực. Sau khi khất thực xong,
xếp y, cất bát, rửa chân tay xong, Ngài vắt Ni-sư-đàn lên vai,
vào miếu thần ngồi thiền tịnh. Bấy giờ trời mưa đá rất to; sấm
sét đánh chết bốn con trâu và hai người cày. Lúc chôn cất hai
người chết ấy, đám đông ồn ào, âm thanh cao và to, tiếng dội
chấn động. Bấy giờ vào lúc xế chiều, Đức Thế Tôn rời chỗ ngồi
tĩnh tọa đứng dậy, từ trong miếu thần đi ra, đến chỗ đất trống
để kinh hành. Trong đám đông có một người thấy Đức Thế Tôn vào
lúc xế trưa rời chỗ tĩnh tọa đứng dậy, ở trong miếu thần đi
ra, đến chỗ đất trống để kinh hành, liền đi đến chỗ Phật cúi
đầu làm lễ rồi đi kinh hành theo sau Đức Phật. Đức Phật thấy
người ấy ở phía sau nên hỏi rằng: ‘Vì cớ gì mà đám đông ồn ào,
âm thanh cao và to, tiếng dội chấn động vậy?’ Người ấy thưa
rằng: ‘Bạch Thế Tôn khi trưa, trời mưa đá rất to; sấm sét đánh
chết bốn con trâu và hai người cày. Lúc chôn cất hai người
chết ấy, đám đông ồn ào, âm thanh cao và to, tiếng dội chấn
động. Bạch Thế Tôn vừa rồi Ngài không nghe gì hết sao?
- “Thế Tôn trả
lời rằng: ‘Ta không nghe các âm thanh ấy’.
- “Lại hỏi rằng:
‘Vừa rồi Ngài ngủ hay sao?’
- “Thế Tôn trả
lời: ‘Không phải’.
- “Lại hỏi Đức
Thế Tôn: ‘Lúc ấy Ngài tỉnh mà không nghe các âm thanh ấy sao?’
- “Thế Tôn đáp:
‘Quả thật vậy’.
- “Bấy giờ người
kia liền suy nghĩ rằng: ‘Rất là kỳ diệu, rất là hy hữu, sở
hành của Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, rất là vắng
lặng, rất là tịch tĩnh. Vì sao vậy? Vì lúc tỉnh mà vẫn không
nghe các âm thanh to lớn ấy. Nếu Đức Thế Tôn tỉnh thức mà vẫn
không nghe các âm thanh to lớn ấy; con xin thọ trì pháp vị
tằêng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe
rằng, một thời Đức Phật trú tại Uất-bệ-la[24]
bên bờ sông Ni-liên-nhiên[25],
ngồi dưới cây A-xà-hòa-la Ni-câu-loại[26],
lúc mới chứng đắc Phật đạo. Bấy giờ mưa lớn đến bảy ngày, từ
cao đến thấp đều bị ngập nước, từng luồng nước lớn chảy xoáy
ngang dọc, trong vùng đất trống đó, Đức Thế Tôn đi kinh hành,
đến nơi nào thì nơi đấy có bụi bay lên. Nếu Đức Thế Tôn ở
trong vùng có luồng nước xoáy ngang dọc, mà đi kinh hành, đến
chỗ nào thì chỗ ấy có bụi bay lên; con xin thọ trì pháp vị
tằng hữu ấy của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng
Ma vương trong suốt sáu năm theo Phật để tìm chỗ sơ suất mà
không được, liền chán nản nên bỏ về. Nếu Đức Thế Tôn bị Ma
vương trong suốt sáu năm theo tìm chỗ sơ suất mà không được,
liền chán nản nên bỏ về; con xin thọ trì pháp vị tằng hữu ấy
của Đức Thế Tôn.
- “Con nghe rằng
Đức Thế Tôn, trong suốt bảy năm suy niệm về thân, luôn luôn
suy niệm không gián đoạn. Nếu Đức Thế Tôn trong suốt bảy năm
suy niệm về thân, luôn luôn không gián đoạn; con xin thọ trì
pháp vị tằng hữu ấy của Đức Thế Tôn.”
- Bấy giờ Đức Thế
Tôn bảo rằng:
- “Này A-nan,
ngươi hãy nghe Như Lai nói mà thọ trì thêm pháp vị tằng hữu
này nữa. Này A-nan, Như Lai biết thọ sanh, biết trụ, biết
diệt, luôn luôn biết, chẳng có lúc nào chẳng biết. Này A-nan,
Như Lai biết tư và tưởng sanh, biết trụ, biết diệt, luôn luôn
biết. Không lúc không biết. Cho nên, này A-nan hãy nên từ nơi
Như Lai mà thọ trì thêm pháp vị tằng hữu này.”
- Đức Thế Tôn
thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo, sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-
-
Chú Thích:
-
[01] Tương đương
Pāli: M.123. Acchariyabbhutadhamma-suttam.
-
[02] Bản-Hán: bô thời; bản Pāli: pacchābhatta piapāikkantāna, sau bữa ăn,
sau khi khất thực về.
-
[03] Bản Pāli:
sambahulān bhikkhūna...upahānasālāya sannisinnānai..., số
đông Tỳ-kheo tự tập tại ngôi nhà của thị giả.
-
[04] Ca-diệp(ta
quen đọc là Ca-diếp). Pāli: Kassapa. Bản Pāli không đề cập.
-
[05] Bản Pāli:
Bhagavato suta sammukhā paiggahita, nghe, trực tiếp ghi nhớ
từ Thế Tôn.
-
[06] Bản Hán: Đâu-sắt
(Tống-Nguyên-Minh: suất) -đá thiên; ta quen với
phiên âm Đâu-suất hơn. Pāli: Tusita, tầng thứ nhất thuộc Dục
giới thiên.
-
[07] Bản Pāli:
yāvatāyuka Bodhisatto Tusike kāye ahāsi, Đức Bồ-tát tồn tại
giữa thiên chúng Tusita cho đến hết tuổi thọ.
-
[09] Pāli: aññe pi
kira, bho, santi sattā idhūpapannā ti, “Này bạn, có những
chúng sanh khác xuất hiện ở đây”.
-
[10] Xem cht.8 trên.
-
[11] Hán: thư thể, hình thể duỗi dài, hay thư thới? Không tìm thấy ý nghĩa
tương đương trong bản Pāli.
-
[12] Xem cht.8 trên.
-
[13] Xem cht.11 trên.
-
[14] Văn-đà-la hoa, ta thường quen với phiên âm là Mạn-đà-la hoa,
dịch là viên hoa, thích ý hoa. Pāli: mandārava.
-
[15] Diêm-phù thọ. Pāli: jambu. Từ đây trở xuống, bản Hán không đồng với bản
Pāli. Nhưng sự kiện bóng cây Diêm-phù này có thể đọc, M.36
Mahāsaccakasuttam, tr.246.
-
[16] Hán: tác nhân.
-
[17] Hán: thiên đồng
tử.
-
[18] Bệ-xá-li(Pāli: Vesāli), Đại lâm (Mahāvana).
-
[19] Hán: trung hậu.
-
[20] Thích Ma-ha-nam. Có lẽ đây là Mahānāma của dòng họ Licchavi ở Vesāli,
chứ không phải Mahānāma dòng họ Thích ở Kapilavatthu, con trai
Amitodāna (Cam Lộ Phạn vương). Tham khảo Pāli, A. iii 75ff.
-
[21] Cao lâu đài quán. Pāli: Kūṭāgārasālā, ngôi nhà sàn, giảng đường Trùng
các, trong Đại lâm (Mahāvana), Vesāli.
-
[22] Bạt-kỳ, tên
chủng tộc và cũng là tên nước. Pāli: Vajji.
-
[23] A-phù. Pāli:
Ātumā. Từ đoạn này trở xuống, tham chiếu, No.1(2)Trường A-hàm,
“Kinh số 2, Du Hành”.
-
[24] Uất-bệ-la.
Pāli: Uruvelā.
-
[25] Ni-liên-nhiên. Pāli: Nerañjarā.
-
[26] A-xà-hòa-la
Ni-câu-loại. Pāli: Ajapāla-Nigrodha.
|