Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Ma-kiệt-đà,
cùng với chúng Đại Tỳ-kheo gồm một nghìn vị, đều là những
Bậc Vô Trước, Chí Chơn[02],
trước vốn là những đạo sĩ bện tóc[03].
Ngài đi đến ấp Ma-kiệt-đà ở thành Vương xá.
Bấy giờ vua xứ Ma-kiệt-đà là Tần-bệ-sa-la[04]
nghe Đức Thế Tôn du hóa tại nước Ma-kiệt-đà cùng với chúng
đại Tỳ-kheo, gồm một nghìn vị, đều là những Bậc Vô Trước,
Chí Chơn, trước vốn là những đạo sĩ bện tóc, đến ấp
Ma-kiệt-đà ở thành Vương xá này. Sau khi nghe vậy, vua
Tần-bệ-sa-la nước Ma-kiệt-đà liền cho sắp đặt bốn loại quân,
là quân voi, quân ngựa, quân xe, và bộ quân. Sau khi sắp đặt
bốn loại quân xong, nhà vua với đông đủ vô số thuộc hạ, kéo
dài trên một do-diên, cùng đi đến chỗ Phật.
Bấy giờ từ xa, Đức Phật thấy vua Tần-bệ-sa-la
nước Ma-kiệt-đà đi đến, bèn theo đường tắt đến dưới gốc cây
chúa Thiện trụ Ni-câu-loại[05],
trải Ni-sư-đàn ngồi kiết già cùng với chúng Tỳ-kheo.
Từ xa, vua Tần-bệ-sa-la nước Ma-kiệt-đà thấy
Thế Tôn ở giữa cây rừng, trang nghiêm đẹp đẽ như vầng trăng
ở giữa vòm sao, chói lọi, sáng ngời như núi vàng, tướng tốt
vẹn toàn, oai thần lồng lộng, các căn vắng lặng, không bị
ngăn che, thành tựu tự chế ngự, tâm tư yên tĩnh. Sau khi
thấy Phật, vua cùng tùy tùng xuống xe.
Nếu các vua Sát-lợi được rưới nước lên đỉnh
đầu để làm bậc Nhân chủ, chỉnh trị cõi đất, có năm loại nghi
trượng, một là kiếm, hai là lọng, ba là mũ thiên quan, bốn
là phất trần cán ngọc, năm là giầy thêu. Nhưng đến đây nhà
vua cởi bỏ tất cả, cùng với bốn loại quân. Vua đi bộ đến
trước Phật, đảnh lễ rồi tự xưng danh tánh ba lần rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn, tôi là Tẩy-ni Tần-bệ-sa-la[06],
vua nước Ma-kiệt-đà.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo:
“Này Đại vương, đúng vậy, đúng vậy. Đại vương
là Tẩy-ni Tần-bệ-sa-la, vua nước Ma-kiệt-đà.”
Sau khi vua Tẩy-ni Tần-bệ-sa-la nước
Ma-kiệt-đà ba lần tự xưng danh tánh rồi, đảnh lễ Phật và
ngồi qua một bên. Có người chào hỏi Phật rồi ngồi qua một
bên. Có người chắp tay hướng về Phật rồi ngồi qua một bên.
Có người ở xa thấy Phật rồi lặng lẽ ngồi xuống.
Bấy giờ Tôn giả Uất-tỳ-la Ca-diếp[07]
cùng ngồi trong chúng. Tôn giả là vị mà những người nước
Ma-kiệt-đà đều chú ý đến và cho rằng, đó là bậc Đại tôn sư,
bậc Chân nhân vô trước. Bấy giờ những người xứ Ma-kiệt-đà
đều nghĩ rằng: “Sa-môn Cù-đàm theo Uất-tỳ-la Ca-diếp học
phạm hạnh chăng? Hay là Uất-tỳ-la Ca-diếp theo Sa-môn Cù-đàm
học phạm hạnh?”
Bấy giờ Đức Thế Tôn biết ý nghĩ trong tâm
người xứ Ma-kiệt-đà, liền hướng về Tôn giả Uất-tỳ-la Ca-diếp
mà nói bài tụng:
- Ca-diếp,
thấy những gì,
- Bỏ lửa
mà đến đây?
- Ca-diếp,
nói Ta biết,
- Lý do
không thờ lửa?
- Ăn uống
đủ các vị,
- Do dục
nên thờ lửa;
- Trong
đời thấy như vậy,
- Cho nên
không ưa thờ.
- Ý
Ca-diếp không ưa,
- Ăn uống
đủ các vị,
- Sao
không ưa Trời, Người?
- Ca-diếp,
nói Ta rõ.
- Thấy
tịch tĩnh, diệt tận,
- Vô vi,
không dục hữu;
- Không
thấy Trời cao quý,
- Cho nên
không thờ lửa.
- Thế Tôn
là tối thắng;
- Thế Tôn
không tà tư;
- Thấy các
pháp rõ ràng,
- Con nhận
pháp tối thắng.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo:
“Này Ca-diếp, ông hãy hiển hiện như ý túc cho
chúng hội này được vui lòng và tin tưởng.”
Lúc đó Tôn giả Uất-tỳ-la Ca-diếp, bằng như ý
túc như thế, biến mất khỏi chỗ đang ngồi, từ phương Đông
xuất hiện, bay lên hư không, hiện bốn oai nghi: đi, đứng,
nằm, ngồi. Tôn giả lại nhập hỏa định. Sau khi Tôn giả
Uất-tỳ-la Ca-diếp nhập hỏa định, trong thân liền phát ra vô
số tia lửa đủ màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, màu hòa hợp, màu
thủy tinh. Phần thân dưới phóng ra lửa thì phần thân trên
phóng ra nước; phần thân trên phóng ra lửa thì phần thân
dưới phun ra nước. Cũng vậy, từ các phương Nam, Tây, Bắc bay
lên hư không, hiện ra bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi. Tôn
giả lại nhập hỏa định. Sau khi Tôn giả Uất-tỳ-la Ca-diếp
nhập hỏa định, trong thân liền phát ra vô số tia lửa đủ màu:
xanh, vàng, đỏ, trắng, màu hòa hợp, màu thủy tinh. Phần thân
dưới phóng ra lửa thì phần thân trên phóng ra nước; phần
thân trên phóng ra lửa thì phần thân dưới phun ra nước. Sau
khi hiển hiện như ý túc, Tôn giả Uất-tỳ-la Ca-diếp đảnh lễ
dưới chân Phật và bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Phật là Thầy của con; con là
đệ tử của Phật. Phật có đủ nhất thiết trí; con không có nhất
thiết trí.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Đúng vậy, Ca-diếp, đúng vậy, Ca-diếp. Ta có
nhất thiết trí, ông không có nhất thiết trí.”
Bấy giờ Tôn giả Uất-tỳ-la Ca-diếp vì chính
mình mà nói bài tụng:
- Ngày
xưa, lúc chưa rõ,
- Thờ lửa,
cầu giải thoát,
- Tuy già
vẫn đui mù,
- Tà,
không thấy chân tế.
- Nay con
thấy Thượng Tích,
- Rồng Vô
Thượng đã dạy:
- Vô vi,
thoát hết khổ,
- Thấy
rồi, sanh tử dứt.
Những người xứ Ma-kiệt-đà, sau khi thấy như
vậy, liền nghĩ: “Không phải Sa-môn Cù-đàm theo Uất-tỳ-la
Ca-diếp học phạm hạnh mà chính Uất-tỳ-la Ca-diếp theo Sa-môn
Cù-đàm để học phạm hạnh.” Đức Thế Tôn biết ý nghĩ trong tâm
của người xứ Ma-kiệt-đà, liền thuyết pháp cho Tẩy-ni
Tần-bệ-sa-la, vua nước Ma-kiệt-đà nghe, khuyến phát khát
ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi ngài đã dùng vô lượng
phương tiện thuyết pháp cho vua nghe, khuyến phát khát
ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Ngài theo đúng pháp của chư Phật,
trước tiên thuyết pháp đoan chánh, khiến người nghe vui
mừng, ấy là thuyết về bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về
pháp sanh thiên, chỉ trích dục là tai họa, sanh tử là ô uế,
khen ngợi vô dục là diệu đạo phẩm, bạch tịnh.
Đức Thế Tôn đã nói cho vị đại vương ấy nghe
những pháp như vậy. Ngài biết nhà vua có tâm hoan hỷ, tâm cụ
túc, tâm nhu nhuyến, tâm kham nhẫn, tâm tăng thượng, tâm
chuyên nhất, tâm vô nghi, tâm vô tận, có khả năng, có sức
lực thọ nhận Chánh pháp. Tức là, như các pháp yếu mà chư
Phật đã giảng thuyết, Đức Thế Tôn nói cho nhà vua nghe về
Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Ngài dạy:
“Này Đại vương, sắc là pháp sanh diệt. Đại
vương nên biết, sắc là pháp sanh diệt. Này Đại vương, giác,
tưởng, hành, thức là pháp sanh diệt. Đại vương nên biết,
thức là pháp sanh diệt.
“Này Đại vương, giống như mưa lớn thì bọt
trên mặt nước hoặc sanh hoặc diệt. Này Đại vương, sắc sanh
diệt cũng như vậy. Đại vương nên biết sắc là pháp sanh diệt.
Này Đại vương, giác, tưởng, hành, thức là pháp sanh diệt.
Đại vương nên biết, thức là pháp sanh diệt.
“Này Đại vương, nếu một thiện nam tử biết sắc
sanh diệt thì biết rằng sắc không sanh lại ở tương lai. Này
Đại vương, nếu một thiện nam tử nào biết giác, tưởng, hành,
thức sanh diệt thì liền biết rằng thức không sanh lại ở
tương lai. Này Đại vương, nếu một thiện nam tử biết sắc đúng
như thật thì không trước sắc, không kế sắc, không nhiễm sắc,
không trụ nơi sắc, không hoan lạc rằng ‘sắc là ta’. Này Đại
vương, nếu một thiện nam tử biết giác, tưởng, hành, thức
đúng như thật thì không trước thức, không kế thức, không
nhiễm thức, không trụ nơi thức, không hoan lạc rằng ‘thức là
ta’. Này Đại vương, nếu một thiện nam tử không trước sắc,
không kế sắc, không nhiễm sắc, không an trụ nơi sắc, không
hoan lạc cho rằng ‘sắc là ta’, thì người ấy không thọ nhận
sắc tương lai. Này Đại vương, nếu một thiện nam tử nào không
trước giác, tưởng, hành, thức, không kế thức, không nhiễm
thức, không trụ thức, không hoan lạc rằng ‘thức là ta’, thì
người ấy không thọ nhận thức tương lai. Này Đại vương, thiện
nam tử ấy vô lượng, không thể kể xiết, vô hạn, chứng đắc
tịch tịnh, nếu xả bỏ thân ngũ ấm này thì không còn thọ ấm
thân khác nữa.”
Bấy giờ, những người xứ Ma-kiệt-đà nghĩ rằng:
“Nếu như sắc là vô thường; giác, tưởng, hành, thức là vô
thường, thì ai làm, ai thọ nhận khổ, lạc?”
Đức Thế Tôn biết ý nghĩ của những người xứ
Ma-kiệt-đà, liền bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Hàng phàm phu ngu si không học, thấy ngã là
ngã mà đắm trước nơi ngã, nhưng thực ra không có ngã, không
có ngã sở. Ngã vốn không, ngã sở vốn không; pháp sanh thì
sanh, pháp diệt thì diệt; thảy đều do nhân duyên hội tụ mà
sanh khổ. Nếu không có nhân duyên thì các khổ liền diệt.
Chúng sanh do duyên tụ hội liên tục mà sanh các pháp. Như
Lai sau khi thấy chúng sanh liên tục sanh ra nên nói ‘có
sanh có tử’. Ta dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn người
thường, thấy đúng như thật về chúng sanh này, lúc tử lúc
sanh, hoặc đẹp hoặc xấu, hoặc diệu hoặc bất diệu, qua lại
thiện xứ, hoặc bất thiện xứ, đều tùy theo nghiệp mà chúng
sanh ấy đã tạo, và thấy đúng như thật.
“Nếu chúng sanh nào thành tựu ác hạnh nơi
thân, ác hạnh nơi khẩu, ý, phỉ báng Thánh nhân, tà kiến và
thành tựu nghiệp tà kiến, thì do nhân duyên kia, khi thân
này hoại diệt, mạng chung, chúng sanh ấy chắc chắn đi đến
chỗ ác, sanh vào địa ngục. Nếu chúng sanh nào thành tựu
thiện hạnh nơi thân, thiện hạnh nơi khẩu, ý, không phỉ báng
Thánh nhân, có chánh kiến, thành tựu nghiệp chánh kiến; thì
do nhân duyên đó, khi thân này hoại diệt, mạng chung, chúng
sanh ấy chắc chắn đi lên chỗ thiện, cho đến cõi trời. Ta
biết chúng sanh kia như vậy nhưng không nói rằng: Đó là ngã,
có thể cảm giác, có thể nói năng, làm và sai làm, đứng dậy
và khiến đứng dậy, ở nơi này hay nơi kia thọ nhận nghiệp báo
thiện ác. Ở đây, hoặc có suy nghĩ như vầy: Điều đó không hợp
lý, điều đó không đứng vững, việc làm ấy đúng như pháp; nhân
cái này mà cái kia sanh, nếu không nhân cái này thì cái kia
không sanh; cái này có thì cái kia có, cái này diệt thì cái
kia diệt. Tức là duyên vô minh có hành cho đến duyên sanh mà
có già, chết. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sanh
diệt thì già, chết diệt.
“Này Đại vương, Đại vương nghĩ sao, sắc là vô
thường hay thường?”
Nhà vua đáp:
“Bạch Thế Tôn, là vô thường.”
Lại hỏi:
“Nếu vô thường thì khổ hay không khổ?
“Bạch Thế Tôn, là khổ, là biến dịch.”
“Nếu pháp là vô thường, khổ, biến dịch, thì
Đa văn Thánh đệ tử có nên cho rằng: ‘Cái này là ta, cái này
là sở hữu của ta; ta là sở hữu của cái kia’?”
“Bạch Thế Tôn, không nên.”
Lại hỏi:
“Nếu vô thường thì khổ hay không khổ?
“Bạch Thế Tôn, là khổ, là biến dịch.”
“Nếu pháp là vô thường, khổ, biến dịch, thì
Đa văn Thánh đệ tử có nên cho rằng: ‘Cái này là ta, cái này
là sở hữu của ta; ta là sở hữu của cái kia’?”
“Bạch Thế Tôn, không nên.”
“Này Đại vương, Đại vương nên học như vầy:
Những gì có sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại,
hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc đẹp hoặc xấu,
hoặc gần, hoặc xa; tất cả đều chẳng phải là ta, chẳng phải
là sở hữu của ta; ta chẳng phải là sở hữu của kia. Nên dùng
trí tuệ quán biết như thật.
“Này Đại vương, những gì có giác, tưởng,
hành, thức nào, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại,
hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc đẹp hoặc xấu,
hoặc gần, hoặc xa; tất cả đều chẳng phải là ta, chẳng phải
là sở hữu của ta; ta chẳng phải là sở hữu của kia. Nên dùng
trí tuệ quán biết như thật. Ngã của ta, chẳng phải là của
ta. Nên dùng trí tuệ quán biết đúng như thật.
“Này Đại vương, nếu Đa văn Thánh đệ tử quán
đúng như vậy, thì liền nhàm chán sắc, nhàm chán giác, tưởng,
hành, thức. Nhàm chán rồi liền vô dục, vô dục rồi, liền được
giải thoát, đã giải thoát liền có tri kiến giải thoát, biết
như thật rằng: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần
làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa”.
Lúc Đức Phật nói pháp này xong, Tẩy-ni
Tần-bệ-sa-la, vua nước Ma-kiệt-đà xa lìa trần cấu, pháp nhãn
về các pháp sanh khởi và tám vạn chư thiên, một vạn hai ngàn
người xứ Ma-kiệt-đà xa lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp
sanh khởi. Bấy giờ Tẩy-ni Tần-bệ-sa-la, vua nước Ma-kiệt-đà
thấy pháp, đắc pháp, giác ngộ pháp bạch tịnh, đoạn nghi,
vượt khỏi mê hoặc, không còn tôn thờ ai, không theo ai nữa,
không còn do dự, đã an trụ nơi quả chứng, đối với pháp của
Thế Tôn mà chứng đắc vô sở úy; liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ dưới chân Phật và bạch:
“Bạch Thế Tôn, hôm nay con xin tự quy y Phật,
Pháp và Chúng Tỳ-kheo. Cúi mong Thế Tôn nhận con làm
Ưu-bà-tắc, bắt đầu từ hôm nay, trọn đời con xin tự quy y cho
đến lúc mạng chung.”
Đức Phật thuyết như vậy. Tẩy-ni Tần-bệ-sa-la,
vua nước Ma-kiệt-đà và tám vạn chư Thiên, và một vạn hai
ngàn người xứ Ma-kiệt-đà cùng một ngàn Tỳ-kheo, sau khi nghe
Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Chú thích:
-
[01] Bản kinh
tường thuật lần đầu tiên vua Tần-bà-sa-la (Bimbisāra) gặp
Phật và trở thành đệ tử của Phật. Tương đương Pāli: Luật
tạng, Mv. I. 22. Hán biệt dịch: No.41 Phật Thuyết
Tần-bà-sa-la Vương Kinh, Tống Pháp Hiền dịch; No.99 (1074)
Tạp 38, kinh 1074; No.100(13) Biệt Dịch Tạp A-hàm, kinh số
13. Tham chiếu, No.200 Soạn Tập Bách Duyên Kinh quyển 2;
No.1421 Ngũ Phần Luật quyển 16; No.1428 Tứ Phần Luật quyển
33; No.1435 Thập Tụng Luật quyển 24.
-
[02] Tất cả đều
là A-la-hán.
-
[03] Biên phát.
Pāli: jaṭilaka, đây chỉ ba anh em Uruvelakassapa cùng với
các đệ tử, sau khi quy y Phật.
-
[04] Ma-kiệt-đà
vương Tần-bệ-sa-la. Pāli: Bimbisāra Magadha-rāja.
-
[05] Thiện trụ
Ni-câu-loại thọ vương.
-
[06] Tẩy-ni
Tần-bệ-sa-la. Pāli: Seniya Bimbisāra.
-
[07] Uất-tỳ-la
Ca-diếp. Pāli: Uruvela-Kassapa, anh cả trong ba anh em,
thuộc hàng tông sư của ngoại đạo bện tóc.