- 07. PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG
-
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá,
trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa.
Bấy giờ một số đông các Tỳ-kheo sau giờ ăn
trưa, có ít việc cần làm nên tụ họp ngồi ở giảng đường để
quyết định sự tranh luận. Tức là bàn luận những vấn đề về pháp
luật, về lời Phật dạy[02].
Lúc bấy giờ Tỳ-kheo Chất-đa-la Tượng Tử[03]
cũng hiện diện trong chúng.
Trong khi một số đông các Tỳ-kheo đang bàn luận
những vấn đề về Pháp Luật, về lời Phật dạy, thì ngay trong lúc
đang bàn luận ấy, Tỳ-kheo Chất-đa-la Tượng Tử không đợi cho
các Tỳ-kheo nói pháp xong, mà cứ nói xen ào vào, lại không có
thái độ cung kính, không quan sát cẩn thận để thưa hỏi các bậc
Tỳ-kheo Thượng tôn Trưởng lão.
Bấy giờ, Tôn giả Đại Câu-hi-la[04]
cũng có mặt trong chúng, nói với Tỳ-kheo Chất-đa-la Tượng Tử
rằng:
“Hiền giả nên biết, trong khi một số đông
Tỳ-kheo đang nói những vấn đề về Pháp Luật và về lời Phật dạy
này, thì Hiền giả chớ nói xen vào ở khoảng giữa. Đợi các
Tỳ-kheo nói xong, nhiên hậu Hiền giả mới nói. Hiền giả hãy có
thái độ cung kính và quán sát cẩn thận để thưa hỏi các bậc
Tỳ-kheo Thượng tôn Trưởng lão. Chớ đem sự không cung kính,
không khéo quán sát để thưa hỏi các ngài”.
Khi đó, bạn bè quen thân của Tỳ-kheo Chất-đa-la
Tượng Tử hiện có trong chúng, nói với Tôn giả Đại Câu-hi-la
rằng:
“Này Hiền giả Đại Câu-hi-la, ngài chớ nặng lời
quở trách Tỳ-kheo Chất-đa-la Tượng Tử. Lý do vì sao? Vì
Tỳ-kheo Chất-đa-la Tượng Tử có giới đức, đa văn, trông giống
như người giải đãi nhưng không cống cao, ngã mạn. Này Hiền giả
Đại Câu-hi-la, bất cứ lúc nào, các Tỳ-kheo làm việc gì, thì
Tỳ-kheo Chất-đa-la Tượng Tử đều có thể giúp đỡ cả”.
Tôn giả Đại Câu-hi-la khi ấy nói với bạn bè
quen thuộc của Tỳ-kheo Chất-đa-la Tượng Tử rằng:
“Này chư Hiền, nếu không biết tâm của kẻ khác
thì đừng vội nói là người ấy xứng đáng hay không xứng đáng. Lý
do vì sao? Vì hoặc có một người lúc ở trước Đức Thế Tôn và
trước các bậc phạm hạnh Thượng tôn Trưởng lão, khả tàm, khả
quý, khả ái, khả kính, thì người ấy khéo léo thủ hộ, nhưng sau
đó, khi không còn ở trước Đức Thế Tôn và trước các bậc phạm
hạnh Thượng tôn Trưởng lão khả tàm, khả quý, khả ái, khả kính,
thì người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười cợt, cống
cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người ấy thường cùng với bạch y
tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện, rồi tâm
sanh tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân nhiệt, tâm nhiệt[05].
Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ đạo.
“Này chư Hiền, giống như con bò vào trong ruộng
lúa của người, người giữ ruộng bắt được, hoặc lấy tay cột,
hoặc nhốt trong chuồng. Này chư Hiền, nếu có người nói rằng:
‘Con bò này không vào ruộng lúa của người khác nữa đâu’. Người
kia nói như vậy có đúng chăng?”
“Không đúng. Vì sao? Vì nếu con bò bị trói kia,
hoặc làm đứt, hoặc làm sút sợi dây trói, hoặc nhảy ra khỏi
chuồng, nó cũng lại vào trong ruộng lúa của người khác như
trước, chứ không khác gì cả”.
“Này chư Hiền, hoặc có một người lúc ở trước
Đức Thế Tôn và trước các bậc phạm hạnh Thượng tôn Trưởng lão
khả tàm, khả quý, khả ái, khả kính thì người ấy khéo léo thủ
hộ. Nhưng sau đó, khi không còn ở trước Đức Thế Tôn và trước
các bậc phạm hạnh Thượng tôn Trưởng lão khả tàm, khả quý, khả
ái, khả kính, thì người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười
cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện, rồi thì tâm sanh tham
dục, tâm sanh ham muốn, rồi thì thân nhiệt, tâm nhiệt. Thân
nhiệt tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ đạo. Này chư Hiền, đó gọi
là có một người.
“Lại nữa, này chư Hiền, hoặc có một người vừa
được Sơ thiền; được Sơ thiền rồi, người ấy liền an trú chứ
không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, không
mong thu hoạch những gì chưa thu hoạch, không mong tác chứng
những gì chưa tác chứng. Người ấy, sau đó thường cùng với bạch
y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người
ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán
ồn ào đủ chuyện rồi thì tâm sanh tham dục. Tâm sanh tham dục
rồi thì thân nhiệt, tâm nhiệt. Thân nhiệt tâm nhiệt rồi thì xả
giới, bỏ đạo.
“Này chư Hiền, như lúc mưa to, hồ ao trong thôn
xóm đều đầy nước. Có người trước khi chưa mưa, thấy trong hồ
ao đó có cát, đá, cỏ cây, một vài loại giáp trùng, cá, rùa,
ểnh ương và các loài thủy tánh khác, lúc bơi qua, lúc bơi lại,
lúc rượt chạy, lúc đứng yên. Nhưng sau khi trời mưa, ao hồ đầy
nước, người đó không còn thấy như thế nữa. Chư Hiền, nếu người
kia nói như thế này: ‘Trong hồ ao kia nhất định không thể nào
thấy lại được cát, đá, cỏ cây, một vài loại giáp trùng, cá,
rùa, ểnh ương và các loài thủy tánh khác, lúc bơi qua, lúc bơi
lại, lúc rượt chạy, lúc đứng yên’. Người ấy nói như vậy có
đúng chăng?”
“Không đúng. Vì sao? Vì hồ ao đầy nước kia,
hoặc voi uống, ngựa uống, lạc đà, bò, lừa, heo, nai, trâu
uống, hoặc người lấy dùng, gió thổi, mặt trời rọi, thì nước sẽ
cạn. Người kia khi nước đầy hồ ao không thấy cát, đá, cỏ cây,
một vài loại giáp trùng, cá, rùa, ểnh ương và các loài thủy
tánh khác, lúc bơi qua, lúc bơi lại, lúc rượt chạy, lúc đứng
yên, nhưng sau khi nước đã cạn rồi thì vẫn thấy như cũ”.
“Cũng vậy, này chư Hiền, hoặc có một người vừa
được Sơ thiền; được Sơ thiền rồi, người ấy liền an trụ chứ
không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, thu
hoạch những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác
chứng. Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười
cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người ấy thường cùng
với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện
rồi thì tâm sanh tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân
nhiệt, tâm nhiệt. Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ
đạo. Này chư Hiền, đó gọi là có một người.
“Lại nữa, này chư Hiền, hoặc có một người được
đệ Nhị thiền; được đệ Nhị thiền rồi, người ấy liền an trụ chứ
không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, thu
hoạch những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác
chứng. Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười
cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện, rồi thì sanh tâm tham
dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân nhiệt, tâm nhiệt. Thân
nhiệt, tâm nhiệt rồi liền xả giới bỏ đạo.
“Này chư Hiền, như lúc mưa to, đất bụi ở nơi
ngã tư đường đều thành bùn. Này chư Hiền, nếu có người nói như
thế này: ‘Bùn ở nơi ngã tư đường này nhất định không khô ráo,
không thể trở lại thành bụi đất được nữa’. Người ấy nói như
vậy có đúng chăng?”
“Không đúng. Vì sao? Vì ngã tư đường này hoặc
voi đi, ngựa đi, lạc đà, bò, lừa, heo, nai, trâu và người đi,
gió thổi, mặt trời rọi, thì con đường kia bùn sẽ khô và khô
rồi sẽ trở thành đất bụi trở lại”.
“Cũng như vậy, này chư Hiền, hoặc có người được
đệ Nhị thiền; được đêï Nhị thiền rồi, người ấy liền an trụ
không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, thu
hoạch những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác
chứng. Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười
cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người ấy thường cùng
với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện
rồi thì tâm sanh tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân
nhiệt, tâm nhiệt. Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ
đạo. Này chư Hiền, đó gọi là có một người.
“Này chư Hiền, lại nữa, hoặc có một người được
đệ Tam thiền; được đệ Tam thiền rồi, người ấy liền an trụ chứ
không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, thu
hoạch những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác
chứng. Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười
cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người ấy thường cùng
với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện
rồi thì tâm sanh tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân
nhiệt, tâm nhiệt. Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ
đạo.
“Này chư Hiền, như nước suối, nước hồ lặng
trong, ngang bờ đứng yên, không xao động và cũng không có
sóng. Này chư Hiền, nếu có người nói như thế này: ‘Nước suối,
nước hồ kia nhất định không bao giờ xao động và nổi sóng nữa’.
Người ấy nói như vậy có đúng chăng?”
“Không đúng. Vì sao? Vì hoặc ở phương Đông gió
lớn chợt thổi đến làm cho nước trong hồ xao động nổi sóng.
Cũng vậy, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, gió lớn chợt
thổi đến làm cho nước trong hồ xao động nổi sóng”.
“Cũng như vậy, này chư Hiền, hoặc có một người
được đệ Tam thiền; được đệ Tam thiền rồi, người ấy liền an trụ
chứ không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được,
thu hoạch những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác
chứng. Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười
cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người ấy thường cùng
với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện
rồi thì tâm sanh tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân
nhiệt, tâm nhiệt. Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ
đạo. Này chư Hiền, đó gọi là có một người.
“Lại nữa, này chư Hiền, hoặc có một người được
đệ Tứ thiền; được đệ Tứ thiền rồi, người ấy liền an trụ chứ
không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, thu
hoạch những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác
chứng. Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười
cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người ấy thường cùng
với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện
rồi thì tâm sanh tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân
nhiệt, tâm nhiệt. Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ
đạo.
“Này chư Hiền, ví như cư sĩ hoặc con cư sĩ ăn
đồ ăn vi diệu, sau khi ăn uống no nê đầy bụng rồi thì những
món ăn mà họ đã ăn trước kia, bây giờ không còn muốn ăn nữa.
Này chư Hiền, nếu có lời nói như thế này: ‘Cư sĩ hoặc con của
cư sĩ nhất định không bao giờ muốn ăn lại nữa’. Người ấy nói
như vậy có đúng chăng?” “Không đúng. Vì sao? Vì cư sĩ hoặc con
của cư sĩ kia qua một đêm đã thấy đói, thì những gì khi no
bụng họ không muốn ăn, bây giờ lại có thể ăn như trước”.
“Cũng vậy, này chư Hiền, hoặc có một người được
đệ Tứ thiền; được đệ Tứ thiền rồi, người ấy liền an trụ chứ
không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, thu
hoạch những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác
chứng. Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười
cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người ấy thường cùng
với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện
rồi thì tâm sanh tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân
nhiệt, tâm nhiệt. Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ
đạo. Này chư Hiền, đó gọi là có một người.
“Lại nữa, này chư Hiền, hoặc có một người được
Vô tưởng tâm định[06];
được vô tưởng tâm định rồi thì người ấy liền an trụ, không
mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, thu hoạch
những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác chứng.
Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười cợt, cống
cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người ấy thường cùng với bạch y
tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện rồi thì
tâm sanh tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân nhiệt, tâm
nhiệt. Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ đạo.
“Này chư Hiền, ví như ở một khu rừng vắng,
người ta nghe tiếng dế kêu[07].
Khi vua hoặc đại thần ngủ đêm tại khu rừng vắng đó, bấy giờ
người ta nghe nào là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe cộ, tiếng
đi bộ, tiếng trống, tiếng trống cơm, tiếng trống múa, tiếng
múa, tiếng hát, tiếng đàn cầm, tiếng ăn uống, chứ không nghe
tiếng dế kêu như trước tại khu rừng này nữa. Này chư Hiền, nếu
có lời nói như thế này: ‘Khu rừng kia nhất định không bao giờ
nghe được tiếng dế kêu nữa’. Người ấy nói như vậy có đúng
chăng?”
“Không đúng. Vì sao? Vì vua hoặc đại thần ấy
qua đêm, trời sáng rồi đều trở về. Nếu chỗ đó vì nghe các
tiếng voi, ngựa, xe cộ, đi bộ, tiếng ốc, tiếng trống, trống
cơm, trống múa, tiếng múa, ca, tiếng đàn, ăn uống nên không
nghe tiếng dế kêu, nhưng khi họ đã đi rồi thì nghe lại như
cũ”.
“Cũng vậy, này chư Hiền, có một người được Vô
tưởng tâm định; được Vô tưởng tâm định rồi liền an trụ chứ
không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, thu
hoạch những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác
chứng. Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười
cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người ấy thường cùng
với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện
rồi thì tâm sanh tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân
nhiệt, tâm nhiệt. Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ
đạo. Này chư Hiền, đó gọi là có một người”.
Bấy giờ Tỳ-kheo Chất-đa-la Tượng Tử sau đó
chẳng bao lâu xả giới, bỏ đạo. Bạn bè quen thân của Tỳ-kheo
Chất-đa-la Tượng Tử nghe ông xả giới bỏ đạo, qua đến chỗ Tôn
giả Đại Câu-hi-la, đến nơi rồi, bạch rằng:
“Bạch Tôn giả Đại Câu-hi-la, ngài biết rõ tâm
của Tỳ-kheo Chất-đa-la Tượng Tử hay nhờ các việc khác mà biết?
Lý do vì sao? Vì nay Tỳ-kheo Chất-đa-la Tượng Tử đã xả giới bỏ
đạo”.
Tôn giả Đại Câu-hi-la bảo các bạn bè quen thân
kia rằng:
“Này chư Hiền, việc ấy phải như vậy. Lý do vì
sao? Vì do không biết như thật, không thấy như chân nên xảy ra
như vậy”.
Tôn giả Đại Câu-hi-la thuyết như vậy, các
Tỳ-kheo nghe Tôn giả dạy xong, hoan hỷ phụng hành[08].
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương Pāli
A .6.60. Hatthīariputta-sutta.
-
[02] Bản Pāli:
abhidhammakatha, đề tài Abhidhamma.
-
[03] Chất-đa-la Tượng
Tử. Pāli: Citta-Hathisāriputta.
-
[04] Đại Câu-hi-la.
Pāli: Mahā-kohika, một trong số các đại đệ tử xuất sắc nhất
của Phật, có khả năng phân tích (paissambhidappattānam). Ngài
sinh trong một gia đình Bà-la-môn giàu có ở Sāvathi.
-
[05] Pāli: rāgo
cittam anuddhasati, tham dục làm bại hoại tâm.
-
[06] Vô tưởng tâm
định; đây chỉ vô tướng tâm định. Bản Tống chép là tướng. Pāli:
animitta cetosamādhi.
-
[07] Nguyên Hán:
Chi-ly-di-lê trùng. Pāli: cīrika-sadda (hoặc cīriika-sadda,
tên kinh bản Hán âm từ từ này), tiếng dế kêu.
-
[08] Bản Pāli còn có
đoạn kết: Phật tiên đoán Tượng Tử sẽ xuất gia trở lại và sẽ
đắc quả A-la-hán. Lời tiên đoán đúng