- 08. PHẨM UẾ
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Câu-xá-di, trong
vườn Cù-sư-la[02].
Bấy giờ Tôn giả Đại Chu-na vào lúc xế, từ chỗ tĩnh tọa đứng
dậy, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi xuống
một bên, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, trong đời, các kiến chấp phát
sanh và phát sanh, tức các chủ trương có thần ngã, có chúng
sanh, có nhân, có thọ, có mạng, có thế gian[03].
Bạch Thế Tôn, biết như thế nào, thấy như thế nào để các kiến
chấp này được tiêu diệt, được xả ly và khiến cho các tà kiến
khác không tiếp diễn, không bị chấp thủ?”
Bấy giờ Thế Tôn nói rằng:
“Chu-na, trong đời, các kiến chấp phát sanh và
phát sanh, tức các chủ trương có thần ngã, có chúng sanh, có
nhân, có thọ, có mạng, có thế gian. Chu-na, nếu muốn các pháp
diệt tận không dư, thì phải biết như vậy, thấy như vậy mới có
thể khiến cho các kiến chấp này được tiêu diệt, được xả ly và
khiến cho các kiến chấp khác không tiếp diễn, không bị chấp,
hãy học pháp tiệm giảm[04].
“Chu-na, trong Thánh pháp luật, thế nào là tiệm
giảm? Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện, cho đến chứng đắc Tứ
thiền, thành tựu an trụ, vị ấy nghĩ như vầy: ‘Ta đã thực hành
sự tiệm giảm’. Này Chu-na, trong Thánh pháp luật không phải
chỉ có sự tiệm giảm này[05].
“Có bốn tăng thượng tâm, hiện pháp lạc trú[06],
hành giả từ đó xuất rồi lại nhập trở lại. Vị ấy nghĩ như thế
này: ‘Ta thực hành sự tiệm giảm này’. Này Chu-na, trong Thánh
pháp luật không phải chỉ có sự tiệm giảm này.
“Tỳ-kheo vượt khỏi mọi sắc tưởng, cho đến chứng
đắc phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trụ. Vị ấy
nghĩ như thế này: ‘Ta thực hành sự tiệm giảm’. Này Chu-na,
trong Thánh pháp luật không phải chỉ có sự tiệm giảm này.
“Có bốn tịch tĩnh giải thoát[07],
lìa sắc, chứng đắc vô sắc, hành giả từ đó khởi lên sẽ nói cho
người khác biết. Vị ấy nghĩ như thế này: ‘Ta thực hành sự tiệm
giảm’. Này Chu-na, trong Thánh pháp luật không phải chỉ có sự
tiệm giảm này.
“Chu-na, ‘Người khác có ác dục, niệm dục; ta
không có ác dục, niệm dục’. Hãy học tiệm giảm[08].
“Chu-na, ‘Người khác có sân hại ý[09];
ta không có sân hại ý’. Hãy học tiệm giảm.
“Chu-na, ‘Người khác có sát sanh, lấy của không
cho, phi phạm hạnh; ta không phi phạm hạnh’. Hãy học tiệm
giảm.
“Chu-na, ‘Người khác có tham lam[10],
tâm não hại[11],
thụy miên triền[12],
trạo cử[13],
cống cao và có nghi hoặc[14];
ta không có nghi hoặc’. Hãy học tiệm giảm.
“Chu-na, ‘Người khác có sân kết[15],
dua siểm, lừa gạt, vô tàm, vô quý; ta có tàm quý’. Hãy học
tiệm giảm.
“Chu-na, ‘Người khác có mạn, ta không có mạn’.
Hãy học tiệm giảm.
“Chu-na, ‘Người khác có tăng thượng mạn, ta
không có tăng thượng mạn[16]’.
Hãy học tiệm giảm.
“Chu-na, ‘Người khác không đa văn, ta có đa
văn’. Hãy học tiệm giảm.
“Chu-na, ‘Người khác không quán các thiện pháp,
ta quán các thiện pháp’. Hãy học tiệm giảm.
“Chu-na, ‘Người khác hành phi pháp, ác hạnh; ta
hành đúng pháp, diệu hạnh’. Hãy học tiệm giảm.
“Chu-na, ‘Người khác có nói láo, hai lưỡi, nói
cộc cằn, nói thêu dệt, ác giới; ta không ác giới’. Hãy học
tiệm giảm.
“Chu-na, ‘Người khác có bất tín, giải đãi, vô
niệm, vô định mà lại có ác tuệ; ta không có ác tuệ’. Hãy học
tiệm giảm.
“Chu-na, chỉ cần phát tâm nghĩ muốn cầu học các
thiện pháp còn được nhiều sự lợi ích, huống chi thân và khẩu
thực hành thiện pháp?
“Chu-na, ‘Người khác có ác dục, niệm dục; ta
không có ác dục, niệm dục’. Hãy phát tâm.
“Chu-na, ‘Người khác có sân hại ý; ta không có
sân hại ý’. Hãy phát tâm.
“Chu-na, ‘Người khác có sát sanh, lấy của không
cho, phi phạm hạnh; ta không phi phạm hạnh’. Hãy phát tâm.
“Chu-na, ‘Người khác có tham lam, tâm não hại,
thụy miên triền, trạo cử và cống cao và có nghi hoặc; ta không
có nghi hoặc’. Hãy phát tâm.
“Chu-na, ‘Người khác có sân kết, dua siểm, lừa
gạt, vô tàm, vô quý; ta có tàm quý’. Hãy phát tâm.
“Chu-na, ‘Người khác có mạn, ta không có mạn’.
Hãy phát tâm.
“Chu-na, ‘Người khác có tăng thượng mạn, ta
không có tăng thượng mạn’. Hãy phát tâm.
“Chu-na, ‘Người khác không đa văn, ta có đa
văn’. Hãy phát tâm.
“Chu-na, ‘Người khác không quán các thiện pháp,
ta quán các thiện pháp’. Hãy phát tâm.
“Chu-na, ‘Người khác hành phi pháp, ác hạnh; ta
hành đúng pháp, diệu hạnh’. Hãy phát tâm.
“Chu-na, ‘Người khác có nói láo, nói hai lưỡi,
nói cộc cằn, nói thêu dệt, ác giới; ta không ác giới’. Hãy
phát tâm.
“Chu-na, ‘Người khác có bất tín, giải đãi, vô
niệm, vô định mà lại có ác tuệ; ta không có ác tuệ’. Hãy phát
tâm.
“Chu-na, ví như con đường xấu, có con đường tốt
đối lại; bến đò xấu, có bến đò tốt, đối lại. Cũng vậy, này
Chu-na, ác dục có phi ác dục đối lại. Hại ý sân, có không hại
ý sân đối lại. Sát sanh, lấy của không cho, phi phạm hạnh, có
phạm hạnh đối lại. Tham lam, não hại, thụy miên, trạo cử cống
cao, nghi hoặc, có sự không nghi hoặc đối lại. Sân kết, dua
siểm, lừa gạt, vô tàm, vô quý; có tàm quý đối lại. Mạn, có
không mạn đối lại. Tăng thượng mạn có không tăng thượng mạn
đối lại. Không đa văn, có đa văn đối lại. Không quán các thiện
pháp, có quán các thiện pháp đối lại. Hành phi pháp, ác hạnh;
có hành đúng pháp, diệu hạnh đối lại. Nói láo, nói hai lưỡi,
nói cộc cằn, nói thêu dệt, ác giới; có thiện giới đối lại. Bất
tín, giải đãi, vô niệm, vô định, ác tuệ; có thiện tuệ đối lại.
“Chu-na, hoặc có pháp đen, có quả báo đen, dẫn
đến ác xứ; hoặc có pháp trắng, có quả báo trắng, dẫn lên thiện
xứ. Cũng như thế, này Chu-na, người ác dục thì do phi ác dục
mà đi lên. Người có hại ý sân thì do không có hại ý sân mà đi
lên. Người sát sanh, lấy của không cho, phi phạm hạnh, thì do
phạm hạnh mà đi lên. Người tham lam, não hại, thụy miên, trạo
cử cống cao, nghi hoặc thì do không nghi hoặc mà đi lên. Người
sân nhuế, dua siểm, lừa gạt, vô tàm, vô quý thì do tàm quý mà
đi lên. Người mạn thì do không mạn mà đi lên, Người tăng
thượng mạn thì do không tăng thượng mạn mà đi lên. Người không
đa văn thì do đa văn mà đi lên. Người không quán các thiện
pháp thì do quán các thiện pháp mà đi lên. Người hành phi
pháp, ác hạnh thì do hành đúng pháp, diệu hạnh mà đi lên.
Người nói láo, nói hai lưỡi, nói cộc cằn, nói thêu dệt, ác
giới thì do thiện giới mà đi lên. Người bất tín, giải đãi, vô
niệm, vô định, ác tuệ thì do thiện tuệ mà đi lên.
“Chu-na, nếu có người tự mình không điều phục,
người khác không điều phục, mà muốn có sựï điều phục, sự kiện
ấy không bao giờ có. Tự mình chìm, người khác chìm mà muốn vớt
lên, sự kiện ấy không bao giờ có. Tự mình không Bát-niết-bàn,
người khác không Bát-niết-bàn mà muốn dẫn đến nhập Niết-bàn,
sự kiện ấy không bao giờ có.
“Chu-na, nếu có người tự mình điều phục được,
người khác không điều phục được, mà muốn có sự điều phục, sự
kiện ấy có xảy ra. Tự mình không chìm, người khác bị chìm mà
muốn vớt lên, sự kiện ấy có xảy ra. Tự mình Bát-niết-bàn,
người khác không Bát-niết-bàn mà muốn đưa đến Niết-bàn, sự
kiện ấy có xảy ra.
“Cũng như thế, này Chu-na, người ác dục thì do
phi ác dục mà nhập Niết-bàn. Người có hại ý sân thì do không
có hại ý sân mà nhập Niết-bàn. Người sát sanh, lấy của không
cho, phi phạm hạnh thì do phạm hạnh mà nhập Niết-bàn. Người
tham lam, não hại, thùy miên, trạo cử, cống cao, nghi hoặc,
thì do không nghi hoặc mà nhập Niết-bàn. Người sân kết, dua
nịnh, vô tàm, vô quý, thì do tàm quý mà nhập Niết-bàn. Người
tăng thượng mạn thì do không tăng thượng mạn mà nhập Niết-bàn.
Người không đa văn thì do đa văn mà nhập Niết-bàn. Người không
quán các thiện pháp thì do quán các thiện pháp mà nhập
Niết-bàn. Người hành phi pháp, ác hạnh thì do hành đúng pháp,
diệu hạnh mà nhập Niết-bàn. Người nói láo, nói hai lưỡi, nói
cộc cằn, nói thêu dệt, ác giới, thì do thiện giới mà nhập
Niết-bàn. Người bất tín, giải đãi, vô niệm, vô định, ác tuệ,
thì do thiện tuệ mà nhập Niết-bàn.
“Chu-na, đó là Ta đã nói cho ngươi nghe về pháp
tiệm giảm, đã nói pháp phát tâm, đã nói pháp đối trị, đã nói
pháp thăng thượng, đã nói pháp nhập Niết-bàn. Như bậc Tôn sư
đối với đệ tử khởi tâm đại từ, thương xót, thương tưởng, mong
cầu cho đệ tử được phước lợi và thiện ích, mong cầu an ổn
khoái lạc. Ta đã làm như vậy. Các ngươi cũng nên tự mình làm.
Hãy đến nơi rừng vắng, núi sâu, dưới gốc cây, chỗ an tĩnh
không nhàn, tĩnh tọa tư duy, đừng phóng dật, không ngừng tinh
tấn, chớ để ân hận mai sau. Đó là lời khuyến giáo, lời huấn
thị của Ta”.
Phật thuyết như vậy. Tôn giả Đại Chu-na và các
Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M.8. Sallekha-sutta.
-
[02] Xem
Kinh 90 trên.
-
[03] (puggala),
Các kiến chấp: thần (Pāli: attā), chúng sanh (satta),
nhân thọ (āyu), mạng (jīva), thế (loka) đều liên hệ đến
quan niệm linh hồn hay tiểu ngã (attavāda). Baûn Pāli chỉ nêu:
attavādapaisayuttā lokavādapaisayuttā (dihiyo), các kiến chấp
liên hệ đến các thuyết về hữu ngã và thế giới (thường hay vô
thường v.v...).
-
[04] Tiệm giảm. Pāli:
sallekha, tổn giảm, theo nghĩa kiểm thức, sống khắc khổ.
-
[05] Pāli: na kho
panete, cunda, ariyassa vinaye sallekhā vuccanti, dihadhamma-
sukhavihārā ete ariyassa vinaye vuccanti, trong luật của bậc
Thánh, chúng không được gọi là tiệm giảm, mà được gọi là hiện
pháp lạc trú.
-
[06] Hiện pháp lạc
cư; chỉ tính chất của bốn thiền sắc giới.
-
[07] Nguyên. Hán: tức
giải thoát, tức tịch tịnh giải thoát, chỉ bốn vô sắc giới
định. Pāli: santā vimokkhā.
-
[08] Pāli: pare
vihasakā bhavissanti, maya ettha avihisakā bhavissāmā, những
người khác có thể sẽ là bạo hại; chúng ta sẽ không là bạo hại,
nên học tiệm giảm như vậy.
-
[09] Hán: hại ý
sânPāli: vihisaka, bạo hành.
-
[10] Tăng tứ; Pāli:
abhijjhālu.
-
[11] Tránh ý; Pāli:
vyāpannacitta.
-
[12] Thụy miên sở
triền, triền cái thụy miên. Pāli: thīnamiddhapariyuhāna, mê
ngủ nghỉ, bị buồn ngủ khống chế.
-
[13] Điệu cống cao,
hay trạo cử ố tác hay trạo hối. Pāli: uddahacca-kukkucca, vị
kích động và vọng động.
-
[14] Liệt kê năm
triền cái (Pāli: pañca nīvaraāni): tham, sân, thụy miên, trạo
hối và nghi.
-
[15] Sân kết, chỗ
khác (xem
Kinh 89 trên) gọi là bất ngữ kết, Pāli:
makkha, ngụy thiện và ác ý hay ác cảm.
-
[16] Tăng mạn. Pāli:
atimāna, tự cao