- 11. PHẨM PHẠM CHÍ
- (Phần Đầu)
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá, ở
trong núi Thứu nham[02].
Bấy giờ vua nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán
Bệ-đà-đề Tử[03]
cùng với nước Bạt-kỳ[04]
thù nghịch nhau, thường ở giữa quyến thuộc nhiều lần nói rằng:
“Người nước Bạt-kỳ có đại như ý túc, có đại oai
đức, có đại phước hựu, có đại oai thần[05],
nhưng ta sẽ diệt trừ giống người Bạt-kỳ, tàn phá Bạt-kỳ, làm
cho nhân dân nước Bạt-kỳ gặp vô số tai ách.”
Khi ấy, Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề Tử, vua nước
Ma-kiệt-đà nghe Đức Thế Tôn du hóa thành Vương xá, ở trong núi
Thứu nham, nên nói với đại thần Vũ Thế[06]:
“Ta nghe Sa-môn Cù-đàm du hóa thành Vương xá, ở
trong núi Thứu nham. Này Vũ Thế, ngươi hãy đi đến chỗ Sa-môn
Cù-đàm, nhân danh ta mà thăm hỏi Thánh thể có được an vui
không bệnh, sức lực có được bình thường hay không? Rồi hãy nói
như vầy, ‘Cù-đàm, vua nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề
Tử thăm hỏi Thánh thể có được an vui không bệnh, sức lực có
được bình thường chăng? Bạch Sa-môn Cù-đàm, vua nước
Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề Tử, cùng với nước Bạt-kỳ
thù nghịch nhau, thường ở giữa quyến thuộc và nhiều lần nói
rằng: ‘Người nước Bạt-kỳ có đại như ý túc, có đại oai đức, có
đại phước hựu, có đại oai thần, nhưng ta sẽ diệt trừ giống
người Bạt-kỳ, tàn phá Bạt-kỳ, làm cho nhân dân nước Bạt-kỳ gặp
vô số tai ách’. Bạch Sa-môn Cù-đàm, về vấn đề này Ngài dạy như
thế nào?’ Này Vũ Thế, nếu Sa-môn Cù-đàm có dạy những gì thì
ngươi hãy cố gắng ghi nhớ, thọ trì. Vì sao? Bởi lẽ những người
như vậy nhất định không khi nào nói sai.”
Đại thần Vũ Thế vâng lời vua dạy xong, lên một
cỗ xe rất đẹp và cùng năm trăm cỗ xe khác đồng ra khỏi thành
Vương xá, đi đến trong núi Thứu nham và leo lên núi Thứu nham,
rồi xuống xe đi bộ đến chỗ Phật.
Đại thần Vũ Thế cùng với Đức Thế Tôn nói lời
chào hỏi rồi ngồi sang một bên, thưa rằng:
“Thưa Cù-đàm, vua nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh
Oán Bệ-đà-đề Tử thăm hỏi Thánh thể có được an vui không bệnh,
sức lực có được bình thường chăng? Bạch Sa-môn Cù-đàm, vua
nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề Tử, cùng với nước
Bạt-kỳ thù nghịch nhau, thường ở giữa quyến thuộc và nhiều lần
nói rằng: ‘Người nước Bạt-kỳ có đại như ý túc, có đại oai đức,
có đại phước hựu, có đại oai thần, nhưng ta sẽ diệt trừ giống
người Bạt-kỳ, tàn phá Bạt-kỳ, làm cho nhân dân nước Bạt-kỳ gặp
vô số tai ách’. Bạch Sa-môn Cù-đàm, về vấn đề này Ngài dạy như
thế nào?”
“Đức Thế Tôn nghe rồi, bảo rằng:
“Này Vũ Thế, xưa kia Ta đã từng đi đến nước
Bạt-kỳ. Nước đó có ngôi chùa tên là Giá-hòa-la[07].
Lúc ấy, này Vũ Thế, Ta giảng nói pháp không suy thoái[08]
cho người nước Bạt-kỳ nghe. Người nước Bạt-kỳ có thể vâng thọ
và thực hành bảy pháp không suy thoái đó. Này Vũ Thế, nếu
người dân nước Bạt-kỳ thực hành được bảy pháp không suy thoái
mà không trái phạm thì nước Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không
thể suy vi được.”
Đại thần Vũ Thế bạch Đức Thế Tôn:
“Sa-môn Cù-đàm, về việc này chỉ nói một cách
tóm tắt, chứ không phân biệt rộng rãi. Chúng con không thể
hiểu được nghĩa này. Kính xin Sa-môn Cù-đàm phân biệt rộng rãi
để chúng con được biết ý nghĩa này.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Này Vũ Thế, hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ. Ta sẽ
giảng nói rộng rãi ý nghĩa này cho ông nghe[09].”
Đại thần Vũ Thế vâng lời, lắng nghe.
Lúc ấy, Tôn giả A-nan đang cầm quạt đứng hầu
Phật, Đức Thế Tôn quay lại hỏi A-nan rằng:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ thường
xuyên hội họp và tụ tập đông đảo chăng?
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ
thường xuyên hội họp và tụ tập đông đảo.”
Đức Thế Tôn liền bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu người nước Bạt-kỳ thường xuyên hội họp và
tụ tập đông đảo thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi
được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ cùng
chung hội họp, cùng chung làm công việc của người Bạt-kỳ và
cùng giải tán?”
“Bạch Đức Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ
cùng chung hội họp, cùng chung làm công việc của người Bạt-kỳ
và cùng giải tán.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu người nước Bạt-kỳ cùng chung hội họp, cùng
chung làm công việc của người Bạt-kỳ và cùng giải tán thì nước
Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe nước Bạt-kỳ đối với những
điều chưa thi thiết thì không thi thiết thêm, những điều đã
thi thiết thì không cải đổi, những pháp cũ xưa của nước Bạt-kỳ
thì được nghiêm chỉnh phụng hành chăng?”
“Bạch Đức Thế Tôn, con nghe nước Bạt-kỳ đối với
những điều chưa thi thiết thì không thi thiết thêm; những điều
đã thi thiết thì không cải đổi; những pháp cũ xưa của nước
Bạt-kỳ thì được nghiêm chỉnh phụng hành.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu nước Bạt-kỳ đối với những điều chưa thi
thiết thì không thi thiết thêm; những điều đã thi thiết thì
không cải đổi; những pháp cũ xưa của nước Bạt-kỳ thì được
nghiêm chỉnh phụng hành, thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không thể
suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ không ỷ
thế mà xâm phạm vợ của người và con gái của người khác chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ không
ỷ thế mà xâm phạm vợ của người và con gái của người khác.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu người nước Bạt-kỳ không ỷ thế mà xâm phạm
vợ của người và con gái của người khác thì nước Bạt-kỳ tất
thắng, không thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ nếu có
những bậc danh đức đáng tôn trọng thì những người nước Bạt-kỳ
cùng nhau tôn kính, cung phụng, cúng dường chăng? Và họ có
nghe lời dạy của những bậc ấy mà làm theo chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ nếu
có những bậc danh đức đáng tôn kính thì những người nước
Bạt-kỳ cùng nhau tôn kính, cung phụng, cúng dường và họ nghe
theo lời dạy của những bậc ấy mà làm theo.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Này Vũ Thế, nếu người nước Bạt-kỳ có những bậc
danh đức đáng tôn trọng thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau tôn
kính, cung phụng, cúng dường và họ nghe lời dạy của những bậc
ấy mà làm theo, thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi
được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ nếu có
chùa cũ nào[10]
thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau tu bổ, tuân phụng cúng dường,
lễ bái, thường không bỏ bê những tế tự đã có, không giảm thiểu
tập tục đã làm chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ nếu
có chùa cũ nào thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau tu bổ, tuân
phụng cúng dường, lễ bái, thường không bỏ bê những tế tự đã
có, không giảm thiểu tập tục đã làm.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu nước Bạt-kỳ có chùa cũ nào thì người nước
Bạt-kỳ cùng nhau tu bổ, tuân phụng, cúng dường, lễ bái, thường
không bỏ bê những tế tự đã có, không giảm thiểu tập tục đã
làm, thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ thảy đều
ủng hộ các vị A-la-hán và vô cùng kính mến, thường mong muốn
các vị A-la-hán chưa đến thì đến, đã đến rồi thì mong hằng an
trụ lâu dài, thường không để các vị ấy thiếu thốn các nhu dụng
sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường chõng, thuốc thang
chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ thảy
đều ủng hộ các vị A-la-hán và vô cùng kính mến, thường mong
muốn các vị A-la-hán chưa đến thì đến, đã đến rồi thì mong
hằng an trụ lâu dài, thường không để các vị ấy thiếu thốn các
nhu dụng sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường chõng,
thuốc thang.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu người nước Bạt-kỳ thảy đều ủng hộ các vị
A-la-hán và vô cùng kính mến, thường mong muốn các vị A-la-hán
chưa đến thì đến, đã đến rồi thì mong hằng an trụ lâu dài,
thường không để các vị ấy thiếu thốn các nhu dụng sinh sống
như quần áo, đồ ăn uống, giường chõng, thuốc thang, thì nước
Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi được.
“Này Vũ Thế, người nước Bạt-kỳ đã thực hành bảy
pháp không suy thoái này. Nếu vâng giữ bảy pháp không suy
thoái này thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi được.”
Khi ấy, đại thần Vũ Thế liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, trịch áo vai hữu, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, dù cho nước Bạt-kỳ chỉ thành tựu
một pháp không suy thoái thì nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán,
con bà Bệ-đà-đề cũng không thể khuất phục họ được, huống chi
họ đầy đủ cả bảy pháp không suy thoái. Bạch Cù-đàm, con nhiều
việc nước, xin được từ giã lui về.”
Đức Thế Tôn nói:
“Muốn lui về xin cứ tùy ý.”
Lúc đó, đại thần Vũ Thế nghe lời Phật dạy, khéo
léo ghi nhớ, đi quanh Đức Thế Tôn ba vòng rồi ra về.
Sau khi đại thần Vũ Thế ra về chẳng bao lâu,
bấy giờ Đức Thế Tôn quay lại bảo Tôn giả A-nan:
“Nầy A-nan, nếu có những Tỳ-kheo hiện đang sống
rải rác trong núi Thứu nham thì ngươi hãy truyền cho tất cả
tập trung tại giảng đường. Sau khi tất cả đã tụ họp xong, hãy
đến cho Ta hay.”
Tôn giả A-nan liền vâng lời Phật dạy:
“Kính vâng, bạch Thế Tôn!”
Ngay khi đó, Tôn giả A-nan đi truyền lệnh:
“Những Tỳ-kheo nào hiện đang sống rải rác trong
núi Thứu nham thì truyền cho tất cả hãy tập trung tại giảng
đường.”
Sau khi tất cả tập họp xong, Tôn giả trở lại
chỗ Phật, cúi đầu làm lễ rồi đứng sang một bên, bạch rằêng:
“Bạch Thế Tôn, con đã truyền lệnh: nếu có những
Tỳ-kheo nào hiện đang sống rải rác trong núi Thứu nham thì tất
cả hãy tập trung tại giảng đường. Giờ đây đã tập họp xong,
kính mong Thế Tôn tự biết thời.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng Tôn giả A-nan đi đến
giảng đường, trải chỗ ngồi trước chúng Tỳ-kheo rồi nói với các
thầy Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói cho các ngươi nghe về bảy pháp
không suy thoái. Các ngươi hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ kỹ.”
Lúc ấy các Tỳ-kheo bạch Phật rằng:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu chúng Tỳ-kheo thường xuyên hội họp, tụ tập
đông đảo thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy
thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo cùng chung hội, cùng chung
làm việc chung và cùng giải tán thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn
vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo đối với những việc chưa thi
thiết thì không thêm; những việc đã thi thiết thì không thay
đổi; những giới luật do Ta nói ra được phụng hành nghiêm
chỉnh; thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy
thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo không bị chi phối[11]
bởi hữu ái đưa đến vị lai[12],
hiện hành với hỷ dục, ái lạc đời sống như vầy như kia[13],
thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo có bậc trưởng lão thượng tôn
đồng học phạm hạnh, các Tỳ-kheo thảy đều tôn kính, cung phụng,
cúng dường và nghe theo lời dạy của các vị ấy, thì chúng
Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo đối với rừng vắng, sườn núi
cao, chỗ thanh tịnh nhàn cư, vắng bặt không có tiếng động, xa
lánh sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa, hoan
lạc an trụ không rời, thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh,
không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo thảy đều ủng hộ các vị phạm
hạnh, hết sức tôn trọng, ái kính, thường mong muốn các vị phạm
hạnh chưa đến thì đến, đã đến rồi thì hằng mong an trụ lâu
dài, thường không để các vị ấy thiếu thốn những nhu dụng sinh
sống như quần áo, đồ ăn uống, giường chõng, thuốc thang, thì
chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành bảy pháp không suy
thoái này, thọ trì, không trái phạm thì chúng Tỳ-kheo chắc
chắn vững mạnh, không thể suy thoái.”
Lúc ấy Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp
không suy thoái khác. Các thầy hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu Tỳ-kheo đối với Tôn sư mà hết sức cung
kính, cúng dường, phụng sự, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh,
không thể suy thoái.
“Nếu Tỳ-kheo đối với Pháp, với Tăng, với Giới,
với sự không phóng dật, với sự cung cấp và đối với định[14]
mà hết sức cung kính thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không
thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành bảy pháp không suy
thoái này, thọ trì không trái phạm thì Tỳ-kheo chắc chắn vững
mạnh, không thể suy thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp
không suy thoái khác. Các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu chúng Tỳ-kheo không hành nơi thế nghiệp[15],
không hoan lạc nơi thế nghiệp, không tập quán thế nghiệp, thì
chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo không hành nơi phiếm luận[16],
không hoan lạc nơi phiếm luận, không tập quán nơi phiếm luận;
không hành nơi tụ hội, không hoan lạc nơi tụ hội, không thân
cận nơi tụ hội; không hành nơi sự kết hợp hỗn tạp[17],
không hoan lạc nơi sự kết hợp hỗn tạp, không tập quán sự kết
hợp hỗn tạp; không hành ngủ nghỉ, không hoan lạc ngủ nghỉ,
không tập quán ngủ nghỉ; không vì lợi, không vì tiếng khen,
không vì người khác mà tu hành phạm hạnh; đối với quả thấp,
đối với quả cao không nửa chừng gián đoạn nỗ lực hướng thượng,
thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu Tỳ-kheo thực hành bảy pháp không suy thoái
này, thọ trì không trái phạm thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh
không thể suy thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp
không suy thoái khác. Các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu Tỳ-kheo thành tựu tài sản tín, tài sản
giới, tài sản tàm, tài sản quý, tài sản bác văn, tài sản thí
và thành tựu tài sản tuệ, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh,
không thể suy thoái.
“Nếu Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy
thoái này, thọ trì không trái phạm, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững
mạnh, không thể suy thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp
không suy thoái khác. Các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu Tỳ-kheo thành tựu năng lực tín, năng lực
tinh tấn, năng lực tàm, năng lực quý, năng lực niệm, năng lực
định, và thành tựu năng lực tuệ, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững
mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy
thoái này, thọ trì không trái phạm thì Tỳ-kheo chắc chắn vững
mạnh, không thể suy thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp
không suy thoái khác. các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu Tỳ-kheo tu niệm giác chi, y trên xả ly, y
trên vô dục, y trên diệt tận, thú hướng xuất yếu. Cũng vậy,
trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định; tu xả giác chi, y
trên xả ly, y trên vô dục, y trên diệt tận, thú hướng xuất
yếu; thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy
thoái này, thọ trì không trái phạm, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững
mạnh, không thể suy thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp
không suy thoái khác. Các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu Tỳ-kheo cần cho luật hiện tiền thì cho
luật hiện tiền. Cần cho luật ức niệm thì cho luật ức niệm. Cần
cho luật bất si thì cho luật bất si. Cần cho luật tự phát lồ
thì ban cho luật tự phát lồ. Cần ban cho luật quân thì ban cho
luật quân. Cần cho luật triển chuyển thì cho luật triển
chuyển. Nếu trong chúng khởi lên sự tranh tụng thì đúng theo
pháp diệt tránh như liệng bỏ giẻ rách để chấm dứt[18].
“Nếu Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy
thoái này, thọ trì không trái phạm, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững
mạnh, không thể suy thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói cho các ngươi nghe về sáu pháp
ủy lạo[19].
Các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là sáu?
“Thân nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng phạm
hạnh. Pháp ấy gọi là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả
lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng
sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa
thuận, được Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng
đắc Niết-bàn.
“Cũng vậy, khẩu nghiệp từ hòa, ý nghiệp từ hòa.
“Lợi lộc nào đúng theo pháp mà được, cho đến
miếng cơm ở chính trong bình bát của mình, với phần lợi như
vậy mang chia xẻ cho các vị đồng phạm hạnh. Pháp đó gọi là
pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái
niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung
kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được Sa-môn, được
sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.
“Nếu có giới nào không bị sứt mẻ, không bị hư
thủng, không bị uế tạp, không bị đen, vững vàng như mặt đất[20],
được Thánh khen ngợi, đầy đủ, cẩn thận thọ trì. Với giới phần
như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh. Pháp đó gọi
là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái
niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung
kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được Sa-môn, được
sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.
“Nếu có kiến giải của Thánh, có sự xuất yếu, có
sự thấy rõ, có sự thấu triệt, đưa đến sự chân chánh diệt khổ;
với kiến phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh.
Pháp đó gọi là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả lạc,
khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự,
khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận,
được Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc
Niết-bàn.
“Nhân đây nên Ta nói sáu pháp ủy lạo.”
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe
Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản Hán, quyển
35. Tương đương Pāli: A.7.20 Vassakāra-sutta; tham chiếu
D.16 Mahāparinibbāna. Hán, biệt dịch No.125 (40.2) Tăng Nhất
phẩm 40 kinh số 2; tham chiếu No.1(2) Trường A-hàm, kinh số
2 “Du Hành”; No.5 Phật Bát-nê-hoàn Kinh, Bạch Pháp Tổ dịch;
No.6 Bát-nê-hoàn Kinh, khuyết danh dịch.
-
[02] Thứu nham,
cũng nói là Linh thứu, hay đọc âm là Kỳ-xà-quật; đỉnh Kên
kên. Pāli: Gijjakūta-pabbata.
-
[03] Vị Sanh Oán
Bệ-đà-đề Tử, hoặc A-xà-thế Vi-đề-hy Tử. Pāli: Ajātasattu
Vedehiputta, Ajātasattu, con trai của bà Vedehi.
-
[04] Bạt-kỳ. Pāli:
Vajjī.
-
[05] Pāli:
evamahiddhike evamahānubhāve, hùng mãnh như thế, uy thế như
thế.
-
[06] Vũ Thế hoặc
đọc âm là Vũ-xá. Pāli: Vassakāra, một người Bà-la-môn, Tể
tướng nước Magadha.
-
[07] Giá-hòa-la tự.
Trong bản Pāli: Sārandada-cetiya. Chùa này theo bản Hán có
lẽ là Cāpala, chỗ Phật thông báo quyết định nhập Niết-bàn.
-
[08] Bất suy pháp.
Pāli: Aparihāniya-dhamma.
-
[09] Các bản khác,
Phật chỉ nói gián tiếp.
-
[10] Cựu tự, ở đây
nói theo No.1(2): tông miếu. Pāli: vajjīna vajjicetiyāni,
các linh miếu của người Bạt-kỳ.
-
[11] Khởi bất tùy.
Pāli: na vasa gacchanti.
-
[12] Pāli:
uppannāya tahāya ponobhavikāya na vasa gacchanti, không bị
chi phối bởi khát ái hiện hành, khát ái ấy dẫn đến đời sau.
-
[13] Ái lạc bỉ bỉ
hữu.
-
[14] Pháp, chúng,
giới, bất phóng dật, cung cấp, định, cùng với tôn sư nói
trước, là bảy đề mục bất thối. So sánh bảùy pháp kể trong
No.1(2): 1. Kính Phật; 2. Kính Pháp; 3. Kính Tăng; 4. Kính
giới luật; 5. Kính thiền định; 6. Kính thuận cha mẹ; 7. Kính
pháp không buông lung.
-
[15] Bất hành ư
nghiệp. Nghiệp ở đây được hiểu là chuyện đời. Pāli: na
kammārāmā, na kammaratā, na kammārāmata anuyuttā, không
thích thế nghiệp, không hoan hỷ thế nghiệp, không đam mê thế
nghiệp.
-
[16] Bất hành hoa
thuyết. Pāli: na bhassārāmā.
-
[17] Tạp hiệp, được
hiểu là “kết hợp với ác hữu”.
-
[18] Bảy pháp chỉ
tránh, hay diệt tránh. Xem kinh số 196 ở sau.
-
[19] Sáu pháp hòa
kỉnh, hay lục hòa, xem kinh 196.
-
[20] Hán: như địa
bất tùy tha, trong bản Pāli: bhujissāni, người tự do, không
còn làm nô lệ.