- KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật
Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
|
- 12. PHẨM PHẠM CHÍ
- (Phần Sau)
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng
Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ có nhiều Phạm chí nước Câu-sa-la[02],
vào lúc xế trưa, quanh quẩn đi đến chỗ Đức Phật, chào hỏi nhau
rồi, ngồi qua một bên và thưa:
“Này Cù-đàm, chúng tôi có điều muốn hỏi, ông có
nghe chăng?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Các ông hỏi gì thì hỏi.”
Nghe thế, các Phạm chí hỏi:
“Này Cù-đàm, bây giờ còn có Phạm chí học pháp
Phạm chí cổ đại[03]
hay đã vượt khỏi pháp Phạm chí cổ đại rồi chăng?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Nay không còn Phạm chí học pháp Phạm chí cổ
đại, Phạm chí đã vượt khỏi pháp Phạm chí cổ đại từ lâu rồi.”
Nghe thế, các Phạm chí hỏi:
“Này Cù-đàm, tại sao nay không còn Phạm chí học
pháp Phạm chí cổ đại và các Phạm chí vượt khỏi pháp Phạm chí
cổ đại từ bao giờ?”
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ trả lời:
- Vì xưa có
Phạm chí,
- Tự chế ngự,
nhiệt hành[04],
- Bỏ năm công
đức dục,
- Hành Phạm
hạnh thanh tịnh.
- Phạm hạnh và
giới hạnh,
- Khiến tâm
tính nhu thuận,
- Rộng lượng,
tâm không hại,
- Nhẫn nhục thủ
hộ ý.
- Thuở xưa có
pháp này
- Phạm chí
chẳng thủ hộ.
- Phạm chí
không thủ hộ,
- Của cải, tiền
lúa gạo.
- Tụng đọc là
tài sản,
- Thủ hộ kho
tàng này.
- Sắc áo đủ các
loại,
- Nhà cửa và
giường chõng,
- Dân các nước,
các thành,
- Học Phạm chí
như vậy[05].
- Phạm chí này
chớ hại,
- Thủ hộ tất cả
pháp,
- Đi đến cửa
nhà người,
- Không ai ngăn
cản họ.
- Lần lượt xin
từng nhà,
- Xin ăn theo
từng bữa.
- Những Phạm
chí tại gia,
- Trông thấy,
thích bố thí.
- Bốn tám năm
đã tròn,
- Tu Phạm hạnh
thanh tịnh,
- Mong Minh,
Hạnh chóng thành;
- Cổ Phạm chí
như vậy.
- Không lấy
trộm của cải,
- Cũng không hề
sợ hãi,
- Thương mến
đùm bọc nhau,
- Và cùng sống
hòa hợp.
- Bởi không có
phiền não,
- Pháp liên hệ
oán, dâm,
- Tất cả các
Phạm chí,
- Không thể
hành như vậy.
- Nếu có hạnh
bậc nhất,
- Phạm chí
quyết mong cầu.
- Các pháp dâm
dục ấy,
- Không thực
hành, dù mộng.
- Nhân các phạm
hạnh ấy,
- Tự xưng ”Ta
là Phạm”
- Biết họ có
hạnh ấy,
- Bậc có tuệ sẽ
biết.
- Giường thưa,
chiếc áo mỏng,
- Cơm, sữa cốt
sanh tồn,
- Khất cầu đều
như pháp,
- Trai tự, hành
bố thí,
- Hiến tế,
chẳng cầu khác,
- Chỉ cầu xin
nơi mình.
- Lúc tổ chức
trai thí,
- Người ấy
không giết bò;
- Như cha mẹ,
anh em,
- Và các người
thân khác,
- Xem người, bò
cũng vậy.
- Nhân đó sanh
khoái lạc.
- Ăn uống, thân
khoẻ mạnh,
- Nhờ vậy mà
yên vui.
- Biết được
nghĩa lý này,
- Không ưa giết
hại bò.
- Mềm mại, thân
lực lớn,
- Tinh sắc,
được khen ngợi.
- Ân cần tự cầu
lợi,
- Như vậy, Phạm
chí xưa.
- Phạm chí vì
lợi mình,
- Biết nên làm,
phải tránh.
- Cõi này,
trong tương lai,
- Người ấy nhất
định thoát.
- Tuần trăng đã
quá tuần,
- Xứng ý xin
cầu thân.
- Đêm dài mãi
du hí,
- Những người
vợ phấn son.
- Đàn bò, quây
trước mặt,
- Vợ đẹp nối
sau lưng,
- Dục vi diệu ở
đời.
- Phạm chí
thường ước mong.
- Ngựa xe trang
bị đủ,
- Tài nghệ giỏi
vá may,
- Hôn nhân và
nhà cửa,
- Phạm chí
thường ước mong.
- Họ tạo triền
phược ấy,
- Chúng tôi từ
kia lại,
- Đại vương[06]
mở cuộc chay,
- Đừng để mất
tài lợi.
- Nhiều tài vật
lúa gạo,
- Hoặc có dư
tiền tài,
- Đại vương
tương ưng đó[07],
- Phạm chí và
cưỡi xe[08];
- Tế voi và tế
ngựa,
- Tế ngựa được
suốt thông[09],
- Tụ tập làm
trai thí,
- Thí cho
Bà-la-môn.
- Họ do đó được
lợi,
- Say mê đắm
tài vật,
- Họ khơi dậy
lòng dục,
- Càng dục càng
say mê,
- Cũng như ao
nước rộng,
- Và vô lượng
tài vật,
- Cũng vậy,
người có bò,
- Các vật dụng
sanh sống,
- Họ tạo triền
phược ấy,
- Chúng tôi từ
kia lại.
- Đại vương mở
cuộc chay,
- Đừng để mất
tài lợi;
- Nhiều tài vật
lúa gạo,
- Nếu ngài có
nhiều bò,
- Đại vương
tương ưng đó,
- Phạm chí và
ngựa xe.
- Bò vô lượng
trăm ngàn,
- Vì trai tự mà
giết,
- Đầu, sừng
không não hại,
- Bò heo thời
xưa kia.
- Đi đến nắm
sừng bò,
- Cầm dao bén
mà giết.
- Gọi bò và gọi
cha,
- La sát tên là
Hương,
- Họ hô hoán
phi pháp,
- Khi cầm dao
đâm bò,
- Pháp ấy hành
trai thí,
- Vượt qua tại
trước nhất.
- Không hữu sự
mà giết,
- Viễn ly pháp
suy thoái,
- Thời xưa có
ba bệnh,
- Dục vọng, đói
và già.
- Do thù nghịch
với bò,
- Khởi bệnh
chín mươi tám,
- Thù nghịch ấy
như vậy,
- Nên kẻ trí
rất ghét.
- Nếu người
thấy như vậy,
- Ai mà không
oán ghét;
- Như vậy,
trong đời này,
- Vô trí thấp
hèn nhất.
- Mỗi, mỗi vì
dục, tranh,
- Như vợ rủa xả
chồng.
- Sát-lợi, Phạm
chí nữ,
- Người thủ hộ
chủng tánh,
- Vi phạm pháp
chủng tánh,
- Tự do theo
dục vọng.
“Như vậy, này Phạm chí, hiện tại không còn Phạm
chí học pháp Phạm chí cổ đại. Phạm chí đã vượt khỏi pháp Phạm
chí cổ đại từ lâu rồi.”
Nghe vậy, các Phạm chí nước Câu-sa-la thưa:
“Bạch Thế Tôn, chúng con đã biết. Bạch Thiện
Thệ, chúng con đã rõ. Nay chúng con tự đem mình quy y Phật,
Pháp, và chúng Tỳ-kheo, mong Thế Tôn nhận chúng con làm những
Ưu-bà-tắc từ nay và đến trọn đời; chúng con tự đem mình quy y
cho đến lúc mạng chung.”
Đức Phật thuyết như vậy, các Phạm chí nước
Câu-sa-la và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ
phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Pāli, Sn. 2.
7. Brahmaadhammika-sutta.
-
[02] Câu-sa-la.
Pāli: Kosala.
-
[03] Cố phạm chí
pháp. Pāli: porāāna brāhmaāna brāhmaadhamma, pháp Bà-la-môn
của các Bà-la-môn thượng cổ.
-
[04] Hán: nhiệt
hành; Pāli: tapassin, khổ hành giả.
-
[05] Pāli:
nānārattehi vatthei sayanehi āvasathehi ca phitā janapadā
rahā te namassisu brahmaie, bằng các loại vải vóc, giường
chõng, nhà cửa, nhân dân từ các nước giàu có đến lễ những
người Bà-la-môn.
-
[06] Trong bản
Pāli: Okkāka (Cam Giá vương), Tổ tiên của dòng họ Thích-ca.
-
[07] Hán: Đại vương
tương ưng thử. Câu này và câu kế tiếp, bản Hán tối nghĩa.
Pāli: tato ca rājā saññatto (brahmaehi): Vua được khuyên bảo
bởi các người Bà-la-môn. Pāli: saññatta: khuyến cáo, trong
bản Hán đọc là samyutta: tương ưng.
-
[08] Pāli:
brahmaehi rathesabho, bởi những người Bà-la-môn, và chúa
binh xa. Bản Hán phân tích ngữ pháp không giống bản Pāli.
Trong bản Pāli, brahmaṇehi, cách ba số nhiều, tác nhân của
saññatto (dẫn cht.6 trên); rathesabho, chủ cách, đồng cách
với rājā: nhà vua là chúa của binh xa.
-
[09] Pāli: tato ca
rājā saññatto brāhmaehi rathesabbho assamedha purisamedha
sammāpāsa vācapeyya maggaa, do sự khuyên bảo của các
Bà-la-môn, nhà vua, chúa của binh xa, cử hành các tế lễ: tế
ngựa, tế người, tế quăng gậy, tế rượu Soma, tế lễ vô già
(không hạn chế ). Xem các cht. 6,7 trên.
|