- 12. PHẨM PHẠM CHÍ
- (Phần Sau)
-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Bệ-đà-đề[02],
cùng với chúng Đại Tỳ-kheo.
Bấy giờ ở Di-tát-la[03]
có Phạm chí tên là Phạm-ma[04]
giàu có, của cải vô lượng, sản nghiệp chăn nuôi không thể tính
toán, phong hộ, thực ấp đầy đủ mọi thứ. Di-tát-la này cho đến
nước, cỏ, cây, đều là đặc tặng, là ân tứ của Vị Sanh Oán, con
bà Bệ-đà-đề, vua nước Ma-kiệt-đà[05].
Phạm chí Phạm-ma có một Ma-nạp tên là Ưu-đa-la được cha mẹ
sanh ra với sự thọ sanh thanh tịnh cho đến bảy đời cha mẹ,
chủng tộc không tuyệt, đời đời không ác, học rộng, thông suốt,
tụng đọc hết bốn loại kinh điển, thấu triệt nhân duyên, chánh
văn, hí truyện, và thứ năm là cú thuyết. Phạm chí Phạm-ma nghe
có Sa-môn Cù-đàm, con dòng tộc Thích, đã từ giả dòng họ Thích,
cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống
không gia đình, xuất gia học đạo, đang du hóa tại nước
Bệ-đà-đề cùng với chúng Đại Tỳ-kheo. Sa-môn Cù-đàm ấy có danh
tiếng lớn lao, muời phương đều nghe: ‘Sa-môn Cù-đàm là Như
Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự[06],
Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Vị ấy ở trong thế gian này
giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ loài người cho
đến loài trời, tự tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu và an
trụ. Pháp mà vị ấy thuyết, khoảng đầu thiện, khoảng giữa
thiện, cứu cánh cũng thiện, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm
hạnh thanh tịnh trọn đủ[07].’
Lại nghe rằng: ‘Sa-môn Cù-đàm thành tựu ba mươi
hai tướng của bậc Đại nhân. Nếu ai thành tựu tướng của Đại
nhân, thì chắc chắn có hai trường hợp chân thực không sai lầm.
Đó là, nếu vị ấy ở tại gia thì chắc chắn làm Chuyển luân
vương, thông minh, trí tuệ, có bốn loại quân, chỉnh trị thiên
hạ, tự do, tự tại, là pháp vương như pháp, thành tựu bảy báu.
Bảy báu đó là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư
sĩ báu và tướng quân báu. Đó là bảy báu. Nhà vua có đủ một
ngàn người con, dung mạo khôi ngô, dõng mãnh, không sợ, hàng
phục được địch quân, chắc chắn thống lãnh toàn cõi đất này,
cho đến bể cả, không dùng đao gậy, chỉ đem pháp giáo hóa,
khiến dân an ổn. Và nếu vị ấy cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa,
chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học
đạo, thì chắc chắn đắc quả Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh
Giác, tiếng tăm lan khắp, mười phương đều nghe.’
Phạm chí Phạm-ma nghe vậy, liền bảo:
“Này Ưu-đa-la, ta nghe như thế này: 'Sa-môn
Cù-đàm, con dòng tộc Thích, đã từ giã dòng họ Thích, cạo bỏ
râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không
gia đình, xuất gia học đạo, đang du hóa tại nước Bệ-đà-đề cùng
với chúng Đại Tỳ-kheo. Sa-môn Cù-đàm ấy có danh tiếng lớn lao,
muời phương đều nghe: ‘Sa-môn Cù-đàm là Như Lai, Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Vị ấy
ở trong thế gian này giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm
chí, từ loài người cho đến loài trời, tự tri tự giác, tự tác
chứng, thành tựu và an trụ. Pháp mà vị ấy thuyết, khoảng đầu
thiện, khoảng giữa thiện, cứu cánh cũng thiện, có nghĩa, có
văn, hiển hiện phạm hạnh thanh tịnh trọn đủ.’ Lại nghe rằng:
‘Sa-môn Cù-đàm thành tựu ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân.
Nếu ai thành tựu tướng của Đại nhân, thì chắc chắn có hai
trường hợp chân thực không sai lầm. Đó là, nếu vị ấy ở tại gia
thì chắc chắn làm Chuyển luân vương, thông minh, trí tuệ, có
bốn loại quân, chỉnh trị thiên hạ, tự do, tự tại, là pháp
vương như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu đó là xe báu, voi
báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và tướng quân báu.
Đó là bảy báu. Nhà vua có đủ một ngàn người con, dung mạo khôi
ngô, dõng mãnh, không sợ, hàng phục được địch quân, chắc chắn
thống lãnh toàn cõi đất này, cho đến bể cả, không dùng đao
gậy, chỉ đem pháp giáo hóa, khiến dân an ổn. Và nếu vị ấy cạo
bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không
gia đình, xuất gia học đạo, thì chắc chắn đắc quả Như Lai, Bậc
Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, tiếng tăm lan khắp, mười phương
đều nghe.’ Ngươi có biết như vậy chăng?
Ưu-đà-la đáp:
“Thưa Tôn sư, con thọ trì các kinh, có biết về
ba hai tướng của bậc Đại nhân, và biết rằng, nếu ai thành tựu
tướng của bậc Đại nhân, thì chắc chắn có hai trường hợp chân
thật, không sai lầm: đó là, nếu vị ấy ở tại gia, thì chắc chắn
làm Chuyển luân vương, thông minh, trí tuệ, có bốn loại quân,
chỉnh trị thiên hạ, tự do, tự tại, là pháp vương như pháp,
thành tựu bảy báu. Bảy báu đó là xe báu, voi báu, ngựa báu, nữ
báu, cư sĩ báu, và tướng quân báu. Đó là bảy báu. Nhà vua có
đủ một ngàn người con dung mạo khôi ngô, dõng mãnh, không sợ,
hàng phục nổi địch quân. Vị ấy chắc chắn thống lãnh toàn cõi
đất này, cho đến bể cả, không dùng đao gậy, đem pháp giáo hóa,
khiến dân an ổn. Và nếu vị ấy cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa,
chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học
đạo, thì chắc chắn đắc quả Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh
Giác, tiếng tăm lan khắp, mười phương đều nghe.”
Nghe vậy, Phạm chí Phạm-ma bảo:
“Này Ưu-đa-la, ngươi hãy đến chỗ Sa-môn Cù-đàm,
xem Sa-môn Cù-đàm có đúng như thế, hay không đúng như thế, quả
thực có ba mươi hai tướng của Đại nhân chăng?”
Ma-nạp Ưu-đa-la nghe bảo như vậy, liền cúi đầu
đảnh lễ sát chân Phạm chí Phạm-ma, đi quanh ba vòng, rồi lui
ra, đi đến chỗ Đức Phật, chào hỏi xong, ngồi qua một bên, quan
sát ba mươi hai tướng trên thân Đức Thế Tôn. Ma-nạp ấy thấy
trên thân Ngài có ba mươi tướng, còn nghi ngờ về hai tướng, đó
là tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài.
Bấy giờ Đức Thế Tôn thầm nghĩ: ”Ưu-đa-la này
với ba mươi hai tướng của Ta, chỉ thấy được ba mươi tướng, còn
nghi ngờ về hai tướng là mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài;
nay Ta nên trừ mối nghi ngờ ấy.” Nghĩ vậy, Đức Thế Tôn liền
như vậy mà hiện thần thông[08].
Sau khi Thế Tôn bằng như vậy mà hiện thần thông, thì Ma-nạp
Ưu-đa-la thấy được tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài
trên thân Đức Thế Tôn. Tướng lưỡi rộng dài là khi le ra, lưỡi
phủ khắp cả mặt.
Khi đã trông thấy, Ưu-đa-la Ma-nạp nghĩ:
‘Sa-môn Cù-đàm thành tựu ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân,
chắc chắn có hai trường hợp chân thật, không sai lầm: đó là,
nếu vị ấy ở tại gia, thì chắc chắn làm Chuyển luân vương,
thông minh, trí tuệ, có bốn loại quân, chỉnh trị thiên hạ, tự
do, tự tại, là pháp vương như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu
đó là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu
và tướng quân báu. Đó là bảy báu. Nhà vua có đủ một ngàn người
con, dung mạo khôi ngô, dõng mãnh, không sợ, hàng phục nổi
địch quân. Vị ấy chắc chắn thống lãnh toàn cõi đất này, cho
đến biển cả, không dùng đao gậy, đem pháp giáo hoá, khiến dân
an ổn. Và nếu vị ấy cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa
bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, thì chắc
chắn đắc quả Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, tiếng
tăm lan khắp, mười phương đều nghe.’
Ma-nạp Ưu-đa-la lại nghĩ: “Ta nên quán sát kỹ
về oai nghi, lễ tiết và nơi Cù-đàm du hành.” Nghĩ vậy, Ma-nạp
Ưu-đa-la lẽo đẽo theo Đức Phật, trong bốn tháng hạ, quán sát
oai nghi, lễ tiết và nơi Đức Phật du hành. Qua bốn tháng hạ,
Ma-nạp Ưu-đa-la cảm thấy sung sướng khi đã quán sát oai nghi,
lễ tiết và nơi Đức Phật du hành, liền thưa:
“Thưa Cù-đàm, con nay có việc muốn trở về, xin
từ giã Cù-đàm.”
Thế Tôn bảo:
“Này Ưu-đa-la, ngươi cứ đi, tùy ý.”
Ma-nạp Ưu-đa-la nghe Đức Thế Tôn nói như vậy,
khéo thọ trì, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh ba vòng rồi
lui ra, đi đến chỗ Phạm chí Phạm-ma, cúi đầu đảnh lễ sát chân,
rồi ngồi qua một bên. Phạm chí Phạm-ma hỏi:
“Này Ưu-đa-la, có quả như lời đồn, Sa-môn
Cù-đàm có tiếng tăm lớn, mười phương đều nghe, đúng như vậy
hay không đúng như vậy? Quả Cù-đàm có ba mươi hai tướng của
bậc Đại nhân chăng?”
Ma-nạp Ưu-đa-la đáp:
“Đúng như vậy, thưa Tôn sư. Quả như lời đồn,
Sa-môn Cù-đàm có tiếng tăm lớn, mười phương đều nghe. Sa-môn
Cù-đàm quả thực như vậy, chứ không phải không thực như vậy,
thực có ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân.
“Sa-môn Cù-đàm có lòng bàn chân bằng phẳng, đó
là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, thưa Tôn sư, lòng bàn chân của Sa-môn
Cù-đàm có hình bánh xe. Bánh xe có một ngàn tăm và đầy đủ các
bộ phận. Đó là tướng của Đại nhan Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, ngón chân của Sa-môn Cù-đàm thon dài.
Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, mu bàn chân của Sa-môn Cù-đàm thì
ngay ngắn. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, ở phía sau hai bên mắt cá của gót
chân Sa-môn Cù-đàm thì đầy đặn, bằng phẳng. Đó là tướng của
Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, hai mắt cá nơi bàn chân của Sa-môn
Cù-đàm thì nhỏ. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, lông ở thân thể Sa-môn Cù-đàm mọc
hướng lên. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, bàn tay và bàn chân của Sa-môn Cù-đàm
có màng lưới như nhạn chúa. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn
Cù-đàm.
“Lại nữa, tay chân của Sa-môn Cù-đàm rất đẹp,
mềm mại xòe ra như hoa đâu-la. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn
Cù-đàm.
“Lại nữa, da thịt của Sa-môn Cù-đàm mịm màng,
bụi nước không dính được. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn
Cù-đàm.
“Lại nữa, mỗi một lỗ chân lông ở trên thân của
Sa-môn Cù-đàm mọc một sợi lông màu xanh lóng lánh, xoáy ốc về
phía bên phải. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, đùi của Sa-môn Cù-đàm như đùi của nai
chúa. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
Lại nữa, mã âm tàng của Sa-môn Cù-đàm giống như
ngựa chúa tốt. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, thân hình của Sa-môn Cù-đàm cân xứng,
đẹp đẽ cũng giống như cây ni-câu-loại, trên dưới hoàn toàn
tương xứng. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, thân hình Sa-môn Cù-đàm không gù,
không còng. Thân không còng nghĩa là đứng thẳng mà duỗi tay,
thì sờ tận đầu gối. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, thân của Sa-môn Cù-đàm màu vàng,
giống như màu vàng tía. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn
Cù-đàm.
“Lại nữa, thân của Sa-môn Cù-đàm có bảy chỗ đầy
đặn. Bảy chỗ đầy đặn là hai bàn tay, hai bàn chân, hai vai và
cổ. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, thân của Sa-môn Cù-đàm phần trên lớn
giống như thân sư tử. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, quai hàm của Sa-môn Cù-đàm như của sư
tử. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, xương sống và lưng của Sa-môn Cù-đàm
thẳng bằng. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, trên hai vai của Sa-môn Cù-đàm liên
tiếp qua cổ đầy đặn, bằng phẳng. Đó là tướng của đại nhân
Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, Sa-môn Cù-đàm có bốn mươi cái răng,
trắng đều đặn, răng không khuyết hở, răng trắng trong, có mùi
vị bậc nhất. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, tiếng nói của Sa-môn Cù-đàm đáng ưa
như tiếng trời Phạm thiên, âm thanh như tiếng chim
ca-lăng-tần-già. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, Sa-môn Cù-đàm có lưỡi rộng dài. Lưỡi
rộng dài là lưỡi khi le ra trùm khắp cả mặt. Đó là tướng của
Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, khóe mắt của Sa-môn Cù-đàm đầy như
của trâu chúa. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, mắt của Sa-môn Cù-đàm màu xanh lóng
lánh. Đó là tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, đỉnh đầu của Sa-môn Cù-đàm có nhục
kế, tròn, cân đối, xoáy tròn về hướng phải như vỏ ốc. Đó là
tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Lại nữa, giữa hai hàng lông mày của Sa-môn
Cù-đàm có sợi lông trắng trong, mọc xoáy về hướng phải. Đó là
tướng của Đại nhân Sa-môn Cù-đàm.
“Sa-môn Cù-đàm đã thành tựu ba mươi hai tướng
của bậc Đại nhân như vậy. Nếu ai thành tựu tướng của bậc Đại
nhân thì chắc chắn có hai trường hợp, chân thật, không sai
lầm: đó là, nếu vị ấy ở tại gia thì làm Chuyển luân vương,
thông minh, trí tuệ, có bốn loại quân, chỉnh trị thiên hạ, tự
do, tự tại, là pháp vương như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu
đó là: xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu
và tướng quân báu. Đó là bảy báu. Nhà vua có đủ một ngàn người
con, dung mạo khôi ngô, dõng mãnh, không sợ, hàng phục được
quân địch, chắc chắn thống lãnh toàn cõi đất này, cho đến bể
cả, không dùng đao gậy, đem pháp giáo hóa khiến dân an ổn. Và
nếu vị ấy cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia
đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, thì chắc chắn đắc
quả Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, tiếng tăm vang
khắp mười phương đều nghe.
“Lại nữa, thưa Tôn sư, con thấy Sa-môn Cù-đàm
lúc đang khoác y, lúc đã khoác y; lúc đang quấn y, lúc đã quấn
y; lúc ra khỏi phòng, đã ra khỏi phòng; lúc ra khỏi vườn, đã
ra khỏi; đang trên đường đi đến thôn xóm, lúc đã vào thôn xóm;
đứng ở đường hẻm, đang vào nhà, đã vào; đang sửa giường, đã
sửa giường; đang ngồi, đã ngồi; đang rửa tay, đã rửa tay; đang
nhận đồ ăn, thức uống, đã nhận; đang ăn, đã ăn; sau khi rửa
tay, chú nguyện xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, đang ra khỏi, đã
ra khỏi nhà; đến đường hẻm, đang ra khỏi thôn xóm, đã ra khỏi;
lúc đang vào vườn, đã vào; đang vào phòng, đã vào.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm khoác y ngay ngắn,
không cao không thấp, áo không bó sát thân, gió không thể thổi
tung khiến y tuột khỏi thân.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm quấn y ngay ngắn,
không cao không thấp, y không bó sát thân, gió không thể thổi
tung khiến y tuột khỏi thân.
“Thưa Cù-đàm, Sa-môn Cù-đàm mỗi khi đắp y mới,
tùy thuận Thánh nhân, dùng dao cắt ra từng miếng rồi may lại,
nhuộm thành hoại sắc, cũng như y hoại sắc của bậc Thánh đã
nhuộm. Vị ấy đắp y không phải vì của cải, không phải vì cống
cao, không phải để trang sức, không phải để cho oai vệ, mà chỉ
để ngăn chặn muỗi mòng và tránh sự ma sát của gió và nắng, và
vì sự hổ thẹn, nên phải che kín thân thể.
“Thưa Tôn sư, khi ra khỏi phòng, Sa-môn Cù-đàm
thân không cúi xuống, cũng không ngước lên, ra khỏi phòng thân
không bao giờ cúi thấp.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm lúc muốn đi, trước
hết bước chân bên phải, dở chân lên, để chân xuống một cách
chững chạc, đi không gây thành tiếng động, không đi quàng
xiên; lúc đi, hai gót chân không bao giờ chạm nhau. Thưa Tôn
sư, Sa-môn Cù-đàm lúc đi không bị bụi dính vào. Vì sao? Vì nhờ
thiện hành thuở trước.
“Thưa Tôn sư, lúc ra khỏi vườn, Sa-môn Cù-đàm
thân không cúi xuống, không ngước lên, lúc ra khỏi vườn, thân
không bao giờ cúi thấp. Đi đến xóm làng, thân luôn luôn quay
về lối phải, quán sát như cái nhìn của một con voi chúa nhìn
khắp nơi, không hãi, không sợ, cũng không khiếp đảm, xem khắp
các phương. Vì sao? Vì là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh
Giác. Thưa Tôn sư, lúc vào thôn xóm, thân không cúi xuống,
không ngước lên, lúc vào thôn xóm, Sa môn Cù-đàm không bao giờ
cúi thấp.
“ Lúc ở đường hẻm Sa-môn Cù-đàm không cúi xuống
mà nhìn cũng không ngước lên mà trông, chỉ nhìn ngay thẳng,
trong đó không có gì ngăn ngại đối với sự thấy và biết.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm có các căn thường
định. Vì sao? Vì nhờ thiện hành thuở trước.
“Thưa Tôn sư, lúc vào nhà, Sa-môn Cù-đàm thân
không cúi xuống, không ngước lên; lúc vào nhà thân không bao
giờ cúi thấp.
“Thưa ôn sư, Sa-môn Cù-đàm xoay mình lại thì
xoay theo hướng phải, ngồi trên giường kê ngay ngắn; không
ngồi lên giường một cách nặng nề, cũng không chống tay dưới
trôn mà ngồi; khi đã ngồi, không thấy táy máy, không bức rức,
cũng không ham thích; lúc thọ nhận nước rửa, không cao, không
thấp, không nhiều, không ít; thọ nhận đồ ăn thức uống, cũng
không cao, không thấp, không nhiều, không ít.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm thọ thực ngang bình
bát; canh và cơm bằng nhau.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm bốc thức ăn chỉnh
tề, từ từ bỏ vào miệng, khi thức ăn chưa đến thì không há
miệng ra mà đợi sẵn, khi thức ăn đã vào miệng thì nhai ba lần
mới nuốt, không có miếng cơm hay canh nào mà không nghiền nát,
thức ăn còn lại trong miệng thì nuốt xuống hết rồi mới bốc nắm
khác.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm do ba việc thanh
tịnh[09]
mà ăn, cảm giác được vị lúc ăn[10],
nhưng không nhiễm trước vào vị. Vị ấy không phải ăn vì của
cải, không vì cống cao, không vì trang sức, không vì oai vệ,
mà chỉ muốn bảo tồn thân thể sống lâu, không tai hoạn, để ngăn
chận bệnh cũ, không sanh bệnh mới, duy trì sự sống không tai
hoạn, sức khỏe, an lạc[11].
Ăn xong, vị ấy dùng nước rửa tay, không cao, không thấp, không
nhiều, không ít; dùng nước rửa bát, không cao, không thấp,
không nhiều, không ít. Sau khi rửa tay sạch, thì bát cũng
sạch; rửa bát sạch thì tay cũng sạch; lau tay rồi lau bát; lau
bát rồi lau tay. Khi đã rửa và lau bát xong, để đặt xuống một
bên, không gần, không xa, không nhìn hoài vào bát, cũng không
lơ là bát. Sa-môn Cù-đàm không chê thức ăn này, cũng không
khen thức ăn kia, chỉ im lặng. Ăn xong, thuyết pháp cho các cư
sĩ, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi bằng
vô lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng,
thành tựu hoan hỷ, vị ấy liền từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm lúc ra khỏi nhà,
thân không cúi xuống, ngước lên; lúc ra khỏi nhà, thân không
bao giờ cúi xuống. Lúc ở tại đường cái, ngõ hẻm, không cúi
nhìn xuống, cũng không ngước lên, chỉ nhìn thẳng đằng trước,
trong đó không có gì ngăn ngại đối với sự biết và sự thấy.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm có các căn thường
định. Vì sao? Vì nhờ thiện hành thuở trước.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm lúc ra khỏi thôn,
thân không cúi xuống, ngước lên; lúc ra khỏi thôn, thân không
bao giờ cúi xuống.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm lúc đi vào vườn,
thân không cúi xuống, ngước lên; lúc đi vào vườn thân không
bao giờ cúi xuống.
“Thưa Tôn sư, sau bữa ăn trưa, Sa-môn Cù-đàm
thu dọn y, bát, rửa tay chân, lấy ni-sư-đàn vắt lên vai vào
phòng tĩnh tọa. Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm vào phòng tĩnh tọa
để làm lợi ích cho thế gian.
“ThưaTôn sư, vào lúc xế, Sa-môn Cù-đàm từ chỗ
tĩnh tọa đứng dậy, sắc diện trong sáng. Vì sao? Vì là Như Lai,
Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm từ miệng phát ra
với tám thứ âm thanh, một là sâu sắc, hai là tỳ-ma-lâu-bá[12],
ba là nhập tâm, bốn là khả ái, năm là rất đầy, sáu là sống
động, bảy là rõ ràng, tám là có trí, khiến cho mọi người mến
chuộng, mọi người ưa thích, mọi người ghi nhớ, sẽ được định
tâm.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm thuyết pháp tùy
theo chúng; âm thanh không ra ngoài chúng, chỉ vừa ở trong
chúng. Thuyết pháp cho chúng, khuyến phát khát ngưỡng, thành
tựu hoan hỷ, Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy trở về chỗ cũ.
“Thưa Tôn sư, Sa-môn Cù-đàm là như thế đó, có
những cái thù thắng hơn nữa. Con muốn đến theo học Phạm hạnh
với Sa-môn Cù-đàm.”
Phạm chí Phạm-ma đáp:
“Tùy ý ngươi.”
Rồi thì, Ma-nạp Ưu-đa-la cúi đầu đảnh lễ sát
chân Phạm chí Phạm-ma, đi quanh ba vòng rồi lui ra, đi đến chỗ
Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên và thưa:
“Bạch Thế Tôn, con nay xin theo Thế Tôn học
đạo, thọ Cụ túc giới, trở thành Tỳ-kheo, để được theo Thế Tôn
tu hành Phạm hạnh.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn độ cho Ma-nạp Ưu-đa-la, cho
theo học đạo, cho thọ Cụ túc. Sau khi độ cho Ma-nạp Ưu-đa-la,
cho theo học đạo, cho thọ Cụ túc, Thế Tôn du hành tại nước
Bệ-đà-đề cùng đại chúng Tỳ-kheo, lần hồi đi lên Di-tát-la, trú
ở rừng xoài Đại thiên[13]
trong xứ ấy.
Các cư sĩ ở Di-tát-la nghe rằng: “Sa-môn Cù-đàm
là con dòng họ Thích, từ bỏ thân tộc, xuất gia học đạo, đang
du hành tại nước Bệ-đà-đề cùng đại chúng Tỳ-kheo, lần hồi đi
lên Di-tát-la, trú ở rừng xoài Đại thiên trong xứ ấy. Sa-môn
Cù-đàm có tiếng tăm lớn, mười phương đều nghe: ‘Sa-môn Cù-đàm
là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên
Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu; Sa-môn ấy ở đời này, giữa chư Thiên,
Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí từ Người đến Trời, mà tự tri, tự
giác, tự thân chứng đắc, thành tựu an trú; vị ấy thuyết pháp
phần đầu thiện, phần giữa thiện và phần cuối cũng thiện, có
nghĩa, có văn, đầy đủ thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh.’ Nếu ai
chiêm ngưỡng đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, mà
kính trọng lễ bái, cúng dường, thừa sự thì sẽ được thiện lợi,
vui thay! Chúng ta nên cùng nhau đến chiêm ngưỡng Sa-môn
Cù-đàm và lễ bái, cúng dường.”
Rồi thì, Phạm chí cư sĩ ở Di-tát-la, mỗi hạng
có quyến thuộc tháp tùng, từ Di-tát-la đi đến hướng bắc, đến
rừng xoài Đại thiên, muốn chiêm ngưỡng Thế Tôn, lễ bái, cúng
dường. Khi đã đến chỗ Đức Phật, trong số Phạm chí cư sĩ ấy, có
người cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi sang một bên; có
người chấp tay hướng về Đức Phật rồi ngồi sang một bên, có
người từ xa nhìn dức Phật, rồi im lặng ngồi xuống. Khi các cư
sĩ Phạm chí Di-tát-la đã ngồi xong, Đức Phật thuyết pháp cho
họ, khuyến phát tâm khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi
Đức Phật dùng vô lượng phương tiện thuyết pháp cho họ, khuyến
phát tâm khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ, Ngài im lặng an trú.
Phạm chí Phạm-ma nghe rằng: “Sa-môn Cù-đàm con
dòng họ Thích, từ bỏ tông tộc họ Thích, xuất gia học đạo, du
hành tại nước Bệ-đà-đề cùng chúng Đại Tỳ-kheo, lần hồi đi đến
nước Di-tát-la, trú ở rừng xoài Đại thiên. Sa-môn Cù-đàm có
tiếng tăm lớn lao, mười phương đều nghe. Sa-môn ấy là Như Lai,
Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư,
Phật, Chúng Hựu. Vị ấy ở đời này, giữa chư Thiên, Ma, Phạm,
Sa-môn, Phạm chí, từ Người đến Trời mà tự tri, tự giác, tự
thân chứng đắc, thành tựu an trú. Sa-môn Cù-đàm thuyết pháp
phần đầu thiện, phần giữa thiện, phần cuối cũng thiện, có
nghĩa, có văn, đầy đủ thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh. Nếu ai
chiêm ngưỡng Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, kính
trọng, lễ bái, cúng dường, thừa sự thì sẽ được thiện lợi, an
vui. Vậy, ta nên đến chiêm ngưỡng Sa-môn Cù-đàm và lễ bái cúng
dường.”
Phạm chí Phạm-ma bảo người đánh xe:
“Ngươi hãy sửa soạn xe. Ta muốn đi đến chỗ
Sa-môn Cù-đàm.”
Người đánh xe vâng lời, sửa soạn xe xong, trở
lại thưa:
“Xe đã sửa soạn xong, mong Tôn sư tự biết
thời.”
Rồi Phạm-ma dùng cỗ xe rất xinh đẹp, từ
Di-tát-la đi đến hướng Bắc, đến rừng xoài Đại thiên để chiêm
ngưỡng Thế Tôn và lễ bái, cúng dường. Bấy giờ Đức Thế Tôn đang
thuyết pháp cho vô lượng đồ chúng ngồi vây quanh trước sau.
Phạm chí Phạm-ma từ xa trông thấy Thế Tôn đang thuyết pháp cho
vô lượng đồ chúng ngồi vây quanh trước sau. Thấy vậy, Phạm-ma
khiếp sợ, liền rẽ qua một bên lề đường dừng lại dưới gốc cây,
bảo một Ma-nạp rằng:
“Ngươi hãy đến chỗ Sa-môn Cù-đàm, thay ta thăm
hỏi thế này: ‘Thưa Cù-đàm, Thánh thể có khang kiện, an lạc,
không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực như thường chăng?’
Ngươi hãy nói như thế này: ‘Thưa Cù-đàm Tôn sư Phạm-ma của con
xin kính lời thăm hỏi Ngài Thánh thể có khang kiện, an lạc,
không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lục như thường chăng? Tôn
sư Phạm-ma của con muốn đến chiêm ngưỡng Sa-môn Cù-đàm’.”
Bấy giờ Ma-nạp vâng lời, đến chỗ Phật, chào hỏi
rồi ngồi qua một bên thưa:
“Thưa Cù-đàm, Tôn sư Phạm-ma của con có lời
thăm hỏi rằng: ‘Thánh thể Cù-đàm có khang kiện, an lạc, không
bệnh, đi đứng thoải mái, có khí lực như thường chăng?’ Thưa
Cù-đàm, Tôn sư Phạm-ma của con muốn đến chiêm ngưỡng Sa-môn
Cù-đàm.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Này Ma-nạp, mong cho Phạm chí Phạm-ma an ổn
khoái lạc, mong cho Trời và Người, A-tu-la, Kiền-đạt-hòa,
La-sát và các chủng loại khác, được an ổn khoái lạc, này
Ma-nạp, Phạm chí Phạm-ma muốn đến thì tùy ý.”
Nghe Đức Phật nói như vậy, Ma-nạp khéo thọ trì,
từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh Phật ba vòng rồi lui ra, trở về
chỗ Phạm chí Phạm-ma và thưa:
“Thưa Tôn sư, con đã thưa như vậy với Sa-môn
Cù-đàm. Sa-môn Cù-đàm hiện đang đợi Tôn sư. Mong Tôn sư biết
thời.”
Phạm chí Phạm-ma bèn bước xuống, đi đến chỗ
Phật. Chúng kia từ xa trông thấy Phạm-ma đi đến, bèn đứng dậy
tránh đường. Vì sao? Vì là người có danh đức, và nổi tiếng.
Phạm chí Phạm-ma nói với chúng kia rằng:
“Chư Hiền, mời các vị ngồi lại chỗ cũ. Tôi muốn
đi thẳng đến thăm Sa-môn Cù-đàm.”
Rồi Phạm-ma đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong,
ngồi sang một bên.
Lúc bấy giờ, hai căn của Phạm-ma, nhãn căn và
nhĩ căn, chưa bị hủy hoại. Sau khi ngồi xuống, Phạm-ma quán
sát kỹ ba mươi hai tướng nơi thân Phật. Ông thấy ba mươi
tướng. Hai tướng còn ngờ; đó là mã âm tàng và tướng lưỡi rộng
dài. Phạm chí Phạm-ma nói bài kệ để hỏi Đức Thế Tôn:
- Như trước tôi
từng nghe,
- Đại nhân ba
hai tướng.
- Nay xem thân
Cù-đàm,
- Trong đó,
thiếu hai tướng,
- Mã âm tàng có
chăng,
- Kín nhiệm,
Bậc Tôn Quý?
- Tại sao nay
Tối Tôn,
- Không hiện
lưỡi vi diệu?
- Nếu có lưỡi
rộng dài,
- Mong tôi nay
được thấy.
- Nay tôi thật
nghi hoặc,
- Mong Điều Ngự
giải trừ.
Thế Tôn nghĩ rằng: ”Phạm chí Phạm-ma này muốn
tìm ba mươi hai tướng nơi thân Ta, nay chỉ thấy được ba mươi
tướng, còn nghi ngờ về hai tướng là tướng mã âm tàng và tướng
lưỡi rộng dài. Nay Ta nên trừ mối nghi hoặc ấy.” Đức Thế Tôn
biết thế, nên như vậy mà thị hiện như ý túc. Sau khi Thế Tôn
như vậy mà thị hiện như ý túc, Phạm chí Phạm-ma thấy được
tướng mã âm tàng và lưỡi rộng dài trên thân Đức Thế Tôn. Trong
đó, tướng lưỡi rộng và lưỡi khi từ trong miệng le ra trùm khắp
cả mặt. Đức Thế Tôn thâu lại như ý túc, nói cho Phạm-ma nghe
bài tụng:
- Trước đây ông
từng nghe,
- Đại nhân ba
hai tướng,
- Tất cả trên
thân Ta,
- Tròn đầy,
Chánh tối thượng,
- Điều Ngự đoạn
trừ nghi,
- Phạm chí phát
diệu tín,
- Thực khó được
thấy nghe,
- Bậc Chánh
Giác tối thượng.
- Quả rất hiếm
ra đời,
- Bậc Chánh
Giác tối thượng,
- Phạm chí, Ta
Chánh Giác,
- Chánh pháp Vô
thượng vương.
Phạm chí Phạm-ma nghe vậy liền nghĩ: ”Sa-môn
Cù-đàm này thành tựu ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân. Ai
thành tựu tướng của bậc Đại nhân, thì chắc chắn có hai trường
hợp chân thật không sai lầm: ấy là nếu vị ấy ở tại gia, thì
chắc chắn làm Chuyển luân vương, thông minh trí tuệ, có bốn
loại quân, chỉnh trị thiên hạ, tự do, tự tại, là pháp vương
như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu ấy là xe báu, voi báu,
ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, và tướng quân báu. Đó
là bảy báu. Nhà vua có đủ một ngàn người con, dung mạo khôi
ngô, dõng mãnh, không sợ, hàng phục được địch quân. Vị ấy chắc
chắn thống lãnh toàn cõi đất này, cho đến bể cả, không dùng
đao gậy, đem pháp giáo hóa, khiến dân an lạc. Và nếu vị ấy cạo
bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không
gia đình, xuất gia học đạo, thì chắc chắn đắc quả Như Lai, Bậc
Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, tiếng tăm lan khắp mười phương
đều nghe.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ như thế này: ”Phạm chí
Phạm-ma này không bao giờ dua nịnh, lừa dối, nếu muốn hỏi điều
gì là vì muốn biết, chớ không phải để quấy rầy. Phạm chí ấy
cũng vậy, ta nên thuyết A-tỳ-đàm thậm thâm cho vị ấy. Đức Thế
Tôn biết như vậy, liền nói cho Phạm chí Phạm-ma nghe bài tụng:
- Vì pháp lạc
đời nay,
- Và ích lợi
đời sau,
- Phạm chí hãy
thưa hỏi,
- Tùy những
điều đã nghĩ.
- Phạm chí hỏi
các điều,
- Ta đoạn nghi
cho ông,
- Thế Tôn đã
cho phép,
- Phạm chí
Phạm-ma hỏi.
- Thế Tôn về
những điều,
- Tùy theo ý đã
nghĩ.
- Thế nào là
Phạm chí?
- Tam đạt[14]
có nghĩa gì,
- Vì sao nói Vô
trước[15],
- Đẳng Chánh
Giác là gì?
- Bấy giờ Đức
Thế Tôn nói tiếp bài kệ để giải thích:
- Diệt pháp ác,
bất thiện,
- Vững trú nơi
Phạm hạnh,
- Tu tập hạnh
Phạm chí,
- Như vậy là
Phạm chí.
- Thấu suốt về
quá khứ,
- Thấy lạc và
ác đạo,
- Dứt trừ sạch
vô minh,
- Biết vậy là
Mâu-ni.
- Khéo biết tâm
thanh tịnh,
- Dứt sạch dâm,
nộ, si.
- Thành tựu
được ba minh,
- Như vậy là
tam đạt.
- Viễn ly pháp
bất thiện,
- Chánh trú đệ
nhất nghĩa,
- Thế gian tôn
kính nhất,
- Như vậy là Vô
trước.
- Làm lợi ích
Trời, Người,
- Thánh nhân,
dứt đấu tranh.
- Biết khắp
chứng diệt tận,
- Như vậy là
Chánh giác.
Nghe vậy, Phạm-ma liền đứng dậy, cúi đầu lễ sát
chân Phật. Bấy giờ đại chúng cùng một lúc nói lớn rằng:
“Sa-môn Cù-đàm kỳ lạ thay, hy hữu thay! Ngài có
Đại như ý túc, có Đại oai đức, có Đại phước hựu, có Đại oai
thần. Vì sao? Vì trong tất cả Phạm chí, cư sĩ ở Di-tát-la này,
thì Phạm chí Phạm-ma là người bậc nhất về sự thọ sanh. Phạm
chí Phạm-ma được cha mẹ sanh ra với sự thọ sanh thanh tịnh cho
đến bảy đời cha mẹ, chủng tộc không tuyệt, đời đời không ác,
thế mà Phạm chí ấy đã hết lòng tôn kính, lễ bái, cúng dường,
phụng sự Sa-môn Cù-đàm.
“Sa-môn Cù-đàm kỳ lạ thay, hy hữu thay! Ngài có
Đại như ý túc, Đại oai đức, Đại phước hựu. Vì sao? Vì trong
tất cả Phạm chí, cư sĩ ở Di-tát-la này, Phạm chí Phạm-ma là
người bậc nhất, về sự học kinh điển, Phạm chí Phạm-ma học
rộng, thông suốt, đọc tụng hết bốn loại kinh điển, thấu triệt
nhân duyên, chánh văn, hí truyện thứ năm và cú thuyết; thế mà
Sa-môn Phạm chí ấy đã hết lòng cung kính, lễ bái cúng dường,
phụng sự Sa-môn Cù-đàm.
“Sa-môn Cù-đàm kỳ lạ thay, hy hữu thay! Ngài có
Đại như ý túc, có Đại oai đức, có Đại phước hựu, Đại oai thần.
Vì sao? Vì trong tất cả Phạm chí cư sĩ ở Di-tát-la này Phạm
chí Phạm-ma là người bậc nhất về tài sản, Phạm chí Phạm-ma rất
giàu, của cải vô lượng, sản nghiệp chăn nuôi không thể tính
toán, phong hộ thực ấp đầy đủ mọi thứ. Di-tát-la này cho đến
nươc, cỏ cây đều là đặc tặng, ân tứ của Vị Sanh Oán, con bà
Bệ-đà-đề, vua nước Ma-kiệt-đà; thế mà Phạm chí ấy đã hết lòng
tôn trọng, lễ bái, cúng dường, phụng sự Sa-môn Cù-đàm.
“Sa-môn Cù-đàm kỳ lạ thay, hy hữu thay! Ngài có
Đại như ý túc, Đại oai đức, Đại phước hựu, Đại oai thần. Vì
sao? Vì trong tất cả Phạm chí, cư sĩ ở nước Di-tát-la này,
Phạm chí Phạm-ma là người bậc nhất về tuổi thọ. Phạm chí
Phạm-ma là vị trưởng lão, sống đến một trăm hai mươi sáu tuổi.
Thế mà Phạm chí ấy đã hết lòng tôn kính, lễ bái, cúng dường,
phụng sự Sa-môn Cù-đàm.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn với tha tâm trí, biết tâm
đại chúng đang nghĩ gì. Biết vậy, Thế Tôn bảo Phạm chí
Phạm-ma:
“Hãy thôi, này Phạm chí, chỉ cần với tâm thỏa
mãn là được. Hãy ngồi trở lại, Ta sẽ thuyết pháp cho.”
Phạm chí Phạm-ma cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật,
ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn thuyết pháp cho Phạm chí,
khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi bằng vô
lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành
tựu hoan hỷ, đúng như pháp của chư Phật, trước hết, Đức Thế
Tôn thuyết pháp đoan chánh, khiến người nghe hoan duyệt. Đó là
thuyết về pháp thí, về giới và về sanh thiên, chỉ trích dục là
tai họa, sanh tử là ô uế; tán thán vô dục là diệu đạo phẩm, là
bạch tịnh. Sau khi thuyết như vậy, Thế Tôn biết Phạm chí ấy có
tâm hoan hỷ, tâm cụ túc, tâm nhu nhuyến, tâm kham nhẫn, tâm
tăng thượng, tâm nhất hướng, tâm không nghi, tâm không bị che
lấp, có đủ khả năng thọ nhận Chánh pháp của Phật, Đức Thế Tôn
theo như những pháp qua yếu mà chư Phật đã thuyết, Ngài thuyết
cho Phạm chí nghe đầy đủ về Khổ, Tập, Diệt và Đạo. Phạm chí
Phạm-ma ngay nơi chỗ ngồi thấy bốn Thánh đế, Khổ, Tập, Diệt,
Đạo. Cũng như vải trắng nhuộm dễ ăn màu; cũng vậy, Phạm-ma
ngay trong chỗ ngồi thấy rõ bốn Thánh đế, Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Bấy giờ, Phạm-ma đã thấy pháp đắc pháp, chứng pháp bạch tịnh,
đoạn trừ nghi hoặc, không còn tôn kính một ai khác nữa, không
còn do dự, đã an trú vào quả vị chứng đắc. Đối với pháp của
Thế Tôn, Phạm chí chứng đắc vô úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ sát chân Phật và bạch:
“Bạch Thế Tôn, con nay đem mình quy y Phật,
Pháp và chúng Tỳ-kheo. Mong Đức Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc
từ nay và suốt đời; con đem mình quy y cho đến lúc mạng
chung.”
Và rồi Phạm chí Phạm-ma lại chấp tay hướng về
Thế Tôn và bạch tiếp:
“Bạch Thế Tôn, mong ngày mai Đức Thế Tôn và
chúng Tỳ-kheo đoái tưởng nhận lời mời của con!”
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời mời của Phạm-ma.
Phạm chí Phạm-ma biết Đức Thế Tôn đã im lặng
nhận lời mời, nên cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, đi quanh ba
vòng và lui ra, trở về nhà.
Ngay đêm ấy, Phạm chí Phạm-ma cho sửa soạn các
món ăn mỹ diệu ngon lành, đủ các thức nhai và nuốt. Sửa soạn
xong, sáng lại cho trải giường, và đúng lúc thì xướng lên
rằng: “Bạch Thế Tôn, bữa cơm được soạn xong, kính mong Đức
Thánh biết thời.”
Sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn mang y cầm bát đi
trước, chúng Tỳ-kheo theo sau, đi đến nhà của Phạm chí
Phạm-ma, đến nơi, Đức Thế Tôn trải chỗ ngồi, ngồi trước chúng
Tỳ-kheo. Phạm chí Phạm-ma thấy Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo đã
ngồi xong, liền thân hành múc nước rửa, đem thức ăn ngon lành,
cùng các thứ nhai và nuốt, tự tay sớt vào, khiến các vị ăn no.
Sau khi ăn rồi, thu dọn và lấy nước rửa xong, Phạm chí ngồi
vào một ghế nhỏ để thọ nhận sự chú nguyện. Phạm chí Phạm-ma
ngồi xong, Đức Thế Tôn chú nguyện rằng:
- Chú hỏa, tế
bậc nhất,
- Thông âm, gốc
các âm,
- Vua, tôn quý
trong người,
- Biển, lớn hơn
sông ngòi,
- Trăng, sáng
hơn các sao,
- Nhưng sáng
nhất: mặt trời.
- Cùng tận khắp
mười phương,
- Trong tất cả
thế gian,
- Chư Thiên và
Nhân loại,
- Duy Phật đệ
nhất tôn.
Sau khi chú nguyện cho Phạm chí Phạm-ma, Đức
Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến nước Di-tát-la, ở lại vài
ngày, rồi mang y, cầm bát du hành nước Xá-vệ. Lần hồi đi đến
nước Xá-vệ, Ngài trú tại vườn Cấp cô độc, trong rừng Thắng.
Bấy giờ, có nhiều Tỳ-kheo vào Xá-vệ khất thực nghe Phạm chí
Phạm-ma nước Di-tát-la, sau khi dùng bài kệ hỏi Đức Phật mọi
việc thì liền lâm chung. Nghe vậy, sau bữa ăn trưa, các
Tỳ-kheo thu dọn y bát, rửa tay chân, lấy ni-sư-đàn vắt lên
vai, đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi đứng sang một
bên, thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo chúng con vào lúc sáng
sớm mang y, cầm bát vào Xá-vệ khất thực, nghe rằng Phạm chí
Phạm-ma ở nước Di-tát-la, sau khi dùng bài kệ vấn sự Đức Phật,
thì liền lâm chung. Bạch Thế Tôn, như vậy Phạm chí ấy sẽ đến
nơi nào? Sanh nơi nào? Đời sau ra sao?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Nay các Tỳ-kheo, Phạm chí Phạm-ma có đại lợi
ích, vào lúc tối hậu, đã biết pháp, vì pháp cho nên không làm
phiền nhọc Ta. Này Tỳ-kheo, Phạm chí Phạm-ma đã dứt sạch năm
hạ phần kết, sanh đến nơi ấy sẽ đắc Niết-bàn, đắc pháp bất
thối, không trở lại cõi này nữa. Bấy giờ Ta đã ghi nhận rằng
Phạm chí Phạm-ma đắc A-na-hàm.”
Đức Phật thuyết như vậy, Phạm chí Phạm-ma và
các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản Hán, quyển
41. Pāli, M. 91 Brahmāyu-sutta. Hán, biệt dịch, No.76.
-
[02] Bệ-đà-đề.
Pāli: Videhā
-
[03] Di-tát-la.
Pāli: Mithilā.
-
[04] Phạm-ma. Pāli:
Brahmāyu.
-
[05] Ma-kiệt-đà
vương, Vị Sanh Oán, Bệ-đà-đề Tử. Pāli:
Magadharāja-Ajātasattu-Vedehi-putta
-
[06] Đạo Pháp Ngự.
Pàli: Damma-sārathi, Điều Ngự Trượng Phu. Bản Hán đọc là
dhamma-(đạo pháp), thay vì là damma- (huấn luyện, điều ngự).
-
[07] Hán: cụ túc
thanh tịnh hiển hiện phạm hạnh. Pāli: kevala-paripua
pari-suddha brahmacari-ya pakāseti, hiển bày đời sống phạm
hạnh thanh tịnh và hoàn hảo tuyệt đối.
-
[08] Hán: như kỳ
tượng tác như ý túc. Xem cht.25, kinh 33.
-
[09] Tam sự thanh
tịnh. Pāli: ahagasamannāgata, thành tựu tám chi. Xem cht.11
dưới.
-
[10] Hán: thực dục
đắc vị. Pāli: rasapatisavedī, cảm nhận được mùi vị (của thức
ăn).
-
[11] Tám chi, như
liệt kê trong bản Pāli.
-
[12] Tỳ-ma-lâu-bá;
không rõ phiên âm từ chữ gì. Tám thứ giọng theo bản Pāli:
visaaha (cực hay), viññeyya (dễ biết), mañju (dịu dàng),
savanīya (hài hòa), bindu (sung mãn), avisārī (phân minh),
gambhīra (sâu xa), ninnādi (lan rộng).
-
[13] Đại thiên nại
lâm. Pāli: Maghadevambavane.
-
[14] Tam đạt, tức
tam minh; thiên nhãn, tuc mạng, lậu tận. Đây cũng chỉ ba bộ
Vệ-đà. Pāli: tevijja.
-
[15] Vô trước, tức
A-la-hán.