-
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Ương-kị[02],
cùng với đại chúng Tỳ-kheo. Ngài cùng với chúng Đại Tỳ-kheo đi
đến Mã ấp, ngụ tại Mã lâm tự.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Người ta thấy các ngươi, những Sa-môn, là
Sa-môn. Nếu có ai hỏi các ngươi, những Sa-môn, thì các ngươi
có tự xưng mình là Sa-môn chăng?”
Các Tỳ-kheo bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, có.”
Phật lại nói:
“Cho nên, các ngươi chính vì lẽ đó, chính vì là
Sa-môn, phải học đạo hạnh[03]
của Sa-môn, chớ đừng là phi Sa-môn. Sau khi đã học đạo hạnh
của Sa-môn, bấy giờ mới là Sa-môn chân chánh, không phải là
Sa-môn hư danh. Nếu có thọ nhận áo chăn, ẩm thực, giường
chõng, thuốc thang, và các thứ tư cụ sinh hoạt khác, những thứ
cung cấp ấy được phước lớn, được kết quả lớn, được công đức
lớn và được quả báo rộng rãi. Các ngươi nên học như vậy.
“Thế nào là không phải đạo hạnh của Sa-môn?
Không phải là Sa-môn? Có tham lam, không dứt tham lam. Có
nhuế, không dứt nhuế. Có sân, không bỏ sân[04].
Có bất ngữ không dứt bất ngữ[05].
Có kết không dứt kết[06].
Có bỏn sẻn, không dứt bỏn sẻn. Có tật đố, không dứt tật đố. Có
dua nịnh, không dứt dua nịnh. Có lường gạt, không dứt lường
gạt. Có vô tàm, không dứt vô tàm[07].
Có vô quý[08],
không dứt vô quý. Có ác dục, không bỏ ác dục. Có tà kiến,
không bỏ tà kiến. Đó gọi là sự cấu uế của Sa-môn, du siểm của
Sa-môn, là trá ngụy của Sa-môn, sự cong vạy của Sa-môn, dẫn
đến chỗ ác, vì chưa dứt sạch, nên sự học không phải là đạo
tích của Sa-môn, không phải là Sa-môn[09].
“Cũng như cái búa[10]
mới rèn rất bén, đầu có mũi nhọn, được bọc trong Tăng-già-lê,
Ta nói những người ngu si học đạo Sa-môn kia cũng như vậy,
nghĩa là có tham lam, không dứt tham lam, có nhuế, không dứt
nhuế, có sân, không bỏ sân, có bất ngữ không dứt bất ngữ, có
kết không dứt kết, có bỏn sẻn, không dứt bỏn sẻn, có tật đố,
không dứt tật đố, có dua nịnh, không dứt dua nịnh, có lường
gạt, không dứt lường gạt, có vô tàm, không dứt vô tàm, có vô
quý, không dứt vô quý, có ác dục, không bỏ ác dục, có tà kiến,
không bỏ tà kiến; dù khoác Tăng-già-lê, Ta không nói đó là
Sa-môn.
“Nếu ai chỉ cần đắp Tăng-già-lê mà có tham lam
dứt tham lam, có nhuế dứt nhuế, có sân bỏ sân, có bất ngữ dứt
bất ngữ, có kết dứt kết, có bỏn sẻn dứt bỏn sẻn, có tật đố dứt
tật đố, có dua nịnh dứt dua nịnh, có lường gạt dứt lường gạt,
có vô tàm dứt vô tàm, có vô quý dứt vô quý, có ác dục bỏ ác
dục, có tà kiến bỏ tà kiến, thì bạn bè thân thiết của nó nên
đến nói với nó rằng, ‘Này Hiền nhân, hãy học khoác
Tăng-già-lê. Này Hiền nhân, nếu học khoác Tăng-già-lê, thì có
tham lam dứt tham lam, có nhuế dứt nhuế, có sân dứt sân, có
bất ngữ dứt bất ngữ, có kết dứt kết, có bỏn sẻn dứt bỏn sẻn,
có tật đố dứt tật đố, có dua nịnh dứt dua nịnh, có lường gạt
dứt lường gạt, có vô tàm dứt vô tàm, có vô quý dứt vô quý, có
ác dục bỏ ác dục, có tà kiến bỏ tà kiến’.
“Bởi vì Ta thấy người đắp Tăng-già-lê mà vẫn có
tham lam, có nhuế, có sân, có bất ngữ, có kết, có bỏn sẻn, có
tật đố, có dua nịnh, có lường gạt, có vô tàm, cóù vô quý, có
ác dục, có tà kiến, cho nên người đắp Tăng-già-lê ấy Ta không
nói nó là Sa-môn.
“Cũng như vậy, lõa hình, bện tóc, ngồi, ăn một
bữa, thường tung nước, thọ trì nước. Những Sa-môn có hạnh như
vậy Ta nói không phải là Sa-môn. Nếu Sa-môn do thọ trì nước mà
có tham lam dứt tham lam, có nhuế dứt nhuế, có sân bỏ sân, có
bất ngữ dứt bất ngữ, có kết dứt kết, có bỏn sẻn dứt bỏn sẻn,
có tật đố dứt tật đố, có dua nịnh dứt dua nịnh, có lường gạt
dứt lường gạt, có vô tàm dứt vô tàm, có vô quý dứt vô quý, có
ác dục bỏ ác dục, có tà kiến bỏ tà kiến; thì bạn bè thân thiết
của nó nên đến bảo nó rằng: “Này bạn, bạn nên thọ trì nước, vì
do thọ trì nước mà có tham lam dứt tham lam, có nhuế dứt nhuế,
có sân bỏ sân, có bất ngữ dứt bất ngữ, có kết dứt kết, có bỏn
sẻn dứt bỏn sẻn, có tật đố dứt tật đố, có dua nịnh dứt dua
nịnh, có lường gạt dứt lường gạt, có vô tàm dứt vô tàm, có vô
quý dứt vô quý, có ác dục bỏ ác dục, có tà kiến bỏ tà kiến’.
“Bởi vì Ta thấy có người thọ trì nước mà vẫn có
tham lam, có nhuế, có sân, có bất ngữ, có kết, có bỏn sẻn, có
tật đố, có dua nịnh, có lường gạt, có vô tàm, cóù vô quý, có
ác dục, có tà kiến, cho nên người thọ trì nước ấy Ta nói không
phải là Sa-môn. Đó gọi là không phải đạo hạnh của Sa-môn,
không phải là Sa-môn.
“Thế nào gọi là đạo hạnh của Sa-môn? Chẳng phải
chẳng là Sa-môn? Nếu có tham lam dứt tham lam, có nhuế dứt
nhuế, có sân bỏ sân, có bất ngữ dứt bất ngữ, có kết dứt kết,
có bỏn sẻn dứt bỏn sẻn, có tật đố dứt tật đố, có dua nịnh dứt
dua nịnh, có lường gạt dứt lường gạt, có vô tàm dứt vô tàm, có
vô quý dứt vô quý, có ác dục bỏ ác dục, có tà kiến bỏ tà kiến.
Sự tật đố ấy của Sa-môn[11],
sự dua nịnh của Sa-môn, sự trá ngụy của Sa-môn, sự tà vạy của
Sa-môn dẫn đến chỗ dữ đều đã bị dứt sạch, rồi học đạo hạnh của
Sa-môn. Vị ấy như vậy không phải không là Sa-môn. Đó là đạo
hạnh của Sa-môn, không phải không là Sa-môn.
“Vị ấy như vậy thành tựu giới, thân thanh tịnh,
miệng, ý thanh tịnh, không tham lam, trong tâm không có sân
nhuế, không có thụy miên, không trạo cử kiêu ngạo, đoạn nghi
trừ hoặc, chánh niệm chánh trí, không có ngu si. Tâm vị ấy câu
hữu với từ, biến mãn một phương, thành tựu an trú. Cũng vậy,
hai, ba, bốn phương, phương trên, phương dưới và bốn phương
bàng, khắp tất cả, tâm của vị ấy câu hữu với từ, không kết
không oán, không nhuế không tranh, rất rộng lớn, khéo tu vô
lượng, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trú. Cũng vậy,
tâm bi, tâm hỷ câu hữu với xả, không kết không oán, không
nhuế, không tranh, rất rộng lớn, khéo tu vô lượng, biến mãn
tất cả thế gian, thành tựu an trú.
“Vị ấy tự nghĩ: “Có thô, có diệu, có tưởng, dẫn
đến thượng xuất yếu[12],
biết như thật. Sau khi biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải
thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu và vô minh lậu. Sau khi
đã giải thoát, vị ấy biết như thật ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh
đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.
“Cũng như cách làng nọ không xa, có ao tắm tốt,
nước trong chảy tràn, cỏ xanh phủ bờ, cây hoa bốn phía. Giả sử
có một người từ phương Đông đến, bị đói khát mệt mỏi, cởi áo
bỏ trên bờ, xuống ao mặc sức tắm rửa sạch bụi nhơ, trừ khử
nóng bức và khát. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc cũng vậy,
giả sử có một người từ các phương đó đến bị đói khát mệt mỏi,
cởi áo bỏ trên bờ, xuống ao mặc sức tắm rửa sạch bụi nhơ, trừ
khử nóng bức và khát. Cũng vậy, một thiện nam tử dòng
Sát-đế-lợi, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia
đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, thực hành nội tâm
tĩnh chỉ, khiến được nội tâm tĩnh chỉ. Người với nội tâm tĩnh
chỉ, Ta nói người ấy là Sa-môn, là Phạm chí, là Thánh, là Tịnh
dục.
“Cũng vậy, một thiện nam tử dòng Phạm chí, Cư
sĩ, Công sư, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia
đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, thực hành nội tâm
tĩnh chỉ, khiến được nội tâm tĩnh chỉ. Người với nội tâm tĩnh
chỉ, Ta nói người ấy là Sa-môn, là Phạm chí, là Thánh, là Tịnh
dục.
“Thế nào gọi là Sa-môn? Là người đã đình chỉ[13]
các pháp ác bất thiện, các lậu ô uế, là gốc rễ của sự hữu
trong tương lai, là sự phiền nhiệït, là nhân của khổ báo, của
sanh lão bệnh tử. Đó gọi là Sa-môn.
“Thế nào gọi là “Phạm chí”? Là người xa lìa các
pháp ác, pháp bất thiện, các lậu ô uế mà là gốc rễ của sự hữu
trong tương lai, là sự phiền nhiệt, là nhân của khổ báo, của
sanh lão bệnh tử. Đó gọi là Phạm chí.
“Thế nào gọi là Thánh? Là người xa lìa các pháp
ác, pháp bất thiện, các lậu ô uế, làm gốc rễ của sự hữu trong
tương lai, là sự phiền nhiệt, là nhân của khổ báo, của sanh
lão bệnh tử. Đó gọi là Thánh.
“Thế nào gọi là “Tịnh dục”? Là người đã tắm rửa
sạch các pháp ác, pháp bất thiện, các lậu ô uế, là gốc rễ của
hữu trong tương lai, là sự phiền nhiệt, là nhân của khổ báo,
của sanh lão bệnh tử. Đó gọi là Tịnh dục. Đó gọi là Sa-môn, là
Phạm chí, là Thánh, là Tịnh dục.”
Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo ấy sau khi
nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M. 40. Cūa-Assapura-sutta.
-
[02] Xem kinh 182
trên.
-
[03] Đạo tích;
Pāli: msāmicīpaipadā, sự thực hành chân chính, chính xác,
đạo chân chính.
-
[04] Hán: nhuế và
sân; những từ dễ lẫn lộn. Nhuế, Pāli: vyāpāda, sân hận hay
thù nghịch, có ác ý muốn làm thiệt hại người. Sân, Pāli:
kodha, nóng giận, phẫn nộ.
-
[05] Bất ngữ; Pāli:
makkha, phú tàng, sự che giấu, đạo đức giả, ngụy thiện.
-
[06] Kết; Pāli:
paāsa, não hại, ác ý, thù nghịch muốn gây hại.
-
[07] Vô tàm; không
biết tự thẹn.
-
[08] Vô quý; không
biết thẹn với người.
-
[09] Tham chiếu
Pāli: imesa... samaamalāna samaadosāna samaakasaāna
āpāyikāna thānāna duggativedaniyāna appahānā na
samaasāmīcipaipada paipanno, những sự cấu uế của Sa-môn này,
những khuyết điểm, những tà ác của Sa-môn này, dẫn đến chỗ
thấp kém, cảm thọ ác thú; vì chưa dứt trừ chúng nên không có
sự thực hành Chánh đạo của Sa-môn.
-
[10] Việt phủ;
Pāli: mataja, một loại vũ khí nhọn hai đầu.
-
[11] Bản Hán,
Sa-môn tật, ở trên nói là Sa-môn cấu. Có lẽ đây chép nhầm.
-
[12] Lai thượng
xuất yếu; không rõ. Có lẽ ý nói dẫn đến sự xuất ly cao
thượng hơn (Tham khảo Pāli, M. 49 tr. 326: ito ca panañña
uttari nissaraa natthi).
-
[13] Đoạn này giống
đoạn cuối kinh 183 trên.