-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong
rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Nếu các Tỳ-kheo nào đến trước các ngươi nói
lên trí mà mình đã chứng đắc, biết một cách như thật rằng ‘Sự
sanh đã hết, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong,
không còn tái sanh nữa’. Các ngươi nghe rồi nên khen là đúng
và hoan hỷ phụng hành[02].
“Sau khi đã khen vị ấy là đúng và hoan hỷ phụng
hành rồi, các ngươi nên hỏi Tỳ-kheo ấy như vầy, ‘Này Hiền giả,
Thế Tôn đã nói năm thủ uẩn[03],
thọ[04],
tưởng, hành và thức. Này Hiền giả, làm sao biết, làm sao thấy
năm thủ uẩn này để được biết là không còn chấp thủ, mà dứt
sạch các lậu, tâm giải thoát[05]?’
“Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết được rằng
phạm hạnh đã vững ấy nên như pháp mà đáp lại như vầy, ‘Này chư
Hiền, sắc thủ uẩn là không hiệu quả[06],
là không hư, không đáng ham muốn, không bằng hữu, cũng không
thể dựa, là pháp biến dịch. Tôi biết như vậy. Nếu đối với sắc
thủ uẩn mà có tham dục, có ô nhiễm, có đắm trước, có trói
buộc; sự đắm trước, sự trói buộc, sự sai sử này mà bị tận trừ,
ly dục, diệt, tịch tĩnh, do đó biết là không còn chấp thủ, dứt
sạch các lậu, tâm giải thoát. Cũng như vậy, thọ, tưởng, hành,
thức thủ uẩn là không hiệu quả, là không hư, là không đáng ham
muốn, không bằng hữu, cũng không thể dựa, là pháp biến dịch.
Tôi biết như vậy. Nếu đối với thức thủ uẩn mà có tham dục, có
ô nhiễm, có đắm trước, có trói buộc; sự đắm trước, sự trói
buộc, sự sai sử này mà tận trừ, ly dục, diệt, tịch tĩnh, do đó
biết là không còn chấp thủ, dứt sạch các lậu, tâm giải thoát.
Này chư Hiền, đối với năm thủ uẩn, tôi biết như vậy, thấy như
vậy, được rõ biết là không còn chấp thủ, dứt sạch các lậu, tâm
được giải thoát’.
“Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết được rằng
phạm hạnh đã vững ấy nên như pháp mà đáp lại như vậy. Và các
ngươi sau khi nghe rồi nên khen là đúng và hoan hỷ phụng hành.
“Khi đã khen là đúng và hoan hỷ phụng hành rồi,
lại hỏi Tỳ-kheo ấy như vầy, ‘Này Hiền giả,Thế Tôn đã nói bốn
loại thức ăn[07],
chúng sanh nhờ đó mà được tồn tại và được trưởng dưỡng. Những
gì là bốn? Một là đoàn thực hoặc thô hoặc tế. Hai là xúc thực.
Ba là ý niệm thực. Bốn là thức thực’.
“‘Này Hiền giả, làm sao biết, làm sao thấy được
bốn loại thực này để rõ biết là không còn chấp thủ, đã dứt
sạch các lậu, tâm giải thoát?’
“Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết được phạm
hạnh đã vững ấy nên như pháp mà đáp như vầy, ‘Này chư Hiền,
đối với đoàn thực, ý tôi không coi trọng, không coi rẻ, không
đam mê, không ràng buộc, không nhiễm, không đắm, được giải
thoát, giải thoát một cách rốt ráo, tâm không còn điên đảo;
biết một cách như thật rằng ‘Sự sanh đã hết, phạm hạnh đã
vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Cũng
như vậy, đối với xúc thực, ý niệm thực và thức thực, ý tôi
không coi trọng, không coi rẻ, không đam mê, không ràng buộc,
không nhiễm, không đắm, được giải thoát, giải thoát một cách
rốt ráo, tâm không còn điên đảo; biết một cách như thật rằng
‘Sự sanh đã hết, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong,
không còn tái sanh nữa’. Này chư Hiền, tôi biết như vậy, tôi
thấy như vậy đối với bốn loại thực này, rõ biết không còn chấp
thủ, dứt sạch các lậu, tâm giải thoát’.
“Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu, biết mình phạm
hạnh đã vững nên như pháp mà đáp như vậy. Các ngươi nghe rồi
nên khen là đúng và hoan hỷ phụng hành.
“Sau khi khen là đúng và hoan hỷ phụng hành
rồi, lại hỏi Tỳ-kheo ấy như vầy, ‘Này Hiền giả, Đức Thế Tôn đã
nói bốn loại tuyên thuyết[08].
Những gì là bốn?
- Một là thấy
thì nói là thấy.
- Hai là nghe
thì nói là nghe.
- Ba là hay thì
nói là hay.
- Bốn là biết
thì nói là biết.’
“‘Này Hiền giả, làm sao biết, làm sao thấy bốn
loại tuyên thuyết này để rõ được mình không còn chấp thủ, đã
dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát?’
“Tỳ-kheo các lậu đã dứt sạch, biết được mình
phạm hạnh đã vững, nên như pháp mà đáp như vầy, ‘Này chư Hiền,
đối với sự thấy nói thấy, tôi không coi trọng, không coi rẻ,
không đam mê, không ràng buộc, không nhiễm, không đắm, được
giải thoát, giải thoát một cách rốt ráo, tâm không còn điên
đảo; biết một cách như thật rằng ‘Sự sanh đã hết, phạm hạnh đã
vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Này
chư Hiền, tôi biết như vậy, thấy như vậy đối với bốn loại
tuyên thuyết này, tôi biết rõ mình đã dứt sạch các lậu, không
còn chấp thủ, tâm được giải thoát’. Tỳ-kheo đã dứt sạch các
lậu, tự biết phạm hạnh đã vững ấy nên như pháp mà đáp như vậy.
Các ngươi sau khi nghe rồi nên khen là đúng và hoan hỷ phụng
hành.
“Sau khi khen là đúng và hoan hỷ phụng hành
rồi, lại hỏi Tỳ-kheo ấy như vầy, ‘Này Hiền giả,Thế Tôn đã nói
pháp sáu nội xứ[09],
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý xứ. Này Hiền giả, làm sao biết,
làm sao thấy được sáu nội xứ này để biết rõ là đã dứt sạch các
lậu, không còn chấp thủ, tâm được giải thoát?’
“Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu, tự biết phạm hạnh
đã vững ấy nên như pháp mà đáp như vầy, ‘Này chư Hiền, đối với
mắt và thức con mắt, pháp được biết bởi thức con mắt, tôi đều
biết. Sau khi biết hai pháp, này chư Hiền, nếu đối với mắt và
thức con mắt, pháp được biết bởi thức con mắt mà ái lạc đã dứt
sạch; do dứt sạch, ly dục, diệt, tịch tĩnh mà tôi biết là đã
dứt sạch các lậu, không còn chấp thủ, tâm được giải thoát.
Cũng như vậy, đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý và ý thức, pháp
biết bởi ý thức, tôi đều biết. Sau khi biết hai pháp, này chư
Hiền, nếu đối với ý và ý thức, pháp được biết bởi ý thức, mà
ái lạc đã dứt sạch; do dứt sạch, ly dục, diệt, tịch tĩnh mà đã
biết là đã dứt sạch các lậu, không còn chấp thủ, tâm được giải
thoát. Này chư Hiền, tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với
nội lục xứ được biết là đã dứt sạch các lậu, không còn chấp
thủ, tâm được giải thoát’. Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết
mình phạm hạnh đã vững ấy nên như pháp mà đáp như vậy. Các
ngươi sau khi nghe rồi nên khen là đúng và hoan hỷ phụng hành.
“Sau khi khen là đúng và hoan hỷ phụng hành rồi
nên hỏi vị Tỳ-kheo ấy như vầy, ‘Này Hiền giả, Thế Tôn nói sáu
giới, là: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không
giới và thức giới. Này Hiền giả, làm sao biết, làm sao thấy
sáu giới này để rõ biết mình đã dứt sạch các lậu, không còn
chấp thủ, tâm được giải thoát?’
“Tỳ-kheo đã dứt sạch phiền não, biết được mình
phạm hạnh đã vững, nên như pháp mà đáp như vầy, ‘Này chư Hiền,
tôi không thấy rằng địa giới là sở thuộc của tôi. Tôi không
phải là sở thuộc của địa giới. Địa giới chẳng phải là thần
ngã. Nhưng ba thủ[10]
nương địa giới mà trụ và các kết sử[11]
dựa vào đó mà sanh. Chúng bị diệt sạch, ly dục, diệt, tịch
tĩnh, do đó mà biết là đã dứt sạch các lậu, không còn chấp
thủ, tâm được giải thoát. Cũng như vậy, thủy, hỏa, phong,
không và thức giới chẳng phải sở thuộc của tôi. Tôi không phải
sở thuộc của thức giới. Thức giới chẳng phải là thần ngã.
Nhưng ba thủ nương địa giới mà trụ và các kết sử dựa vào đó mà
sanh. Chúng bị diệt sạch, ly dục, diệt, tịch tĩnh, do đó mà
biết là đã dứt sạch các lậu, không còn chấp thủ, tâm được giải
thoát. Này chư Hiền, tôi biết như vậy, thấy như vậy đối với
sáu giới ấy, rõ biết mình đã dứt sạch các lậu, không còn chấp
thủ, tâm được giải thoát’. Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và biết
mình phạm hạnh đã vững ấy nên như pháp mà đáp như vậy. Các
ngươi sau khi nghe rồi nên khen ngợi là đúng và hoan hỷ phụng
hành.
“Sau khi khen ngợi là đúng và hoan hỷ rồi nên
hỏi vị Tỳ-kheo ấy như vầy, ‘Này Hiền giả, làm sao biết, làm
sao thấy bên trong thân cùng với thức này[12]
và tất cả các tướng bên ngoài, ngã, ngã tác và kết sử mạn,
thảy đều đuợc đoạn tri[13],
nhổ tuyệt cội gốc của chúng, không còn tái sanh nữa?’ Tỳ-kheo
đã dứt sạch các lậu và biết mình phạm hạnh đã vững ấy nên như
pháp mà đáp như vầy, ‘Này chư Hiền, thuở xưa, khi tôi chưa
xuất gia học đạo đã nhàm tởm sự sanh, già, bệnh, chết, khóc
than, khốn khổ, sầu muộn, bi ai; tôi muốn đoạn trừ khối khổ
đau to lớn này. Này chư Hiền! Sau khi đã nhàm tởm ghê sợ, tôi
quán sát, tại gia là đời sống hẹp hòi, là chốn trần lao bụi
bặm. Xuất gia học đạo là đời sống rộng rãi bao la. Nay ta sống
đời tại gia bị xiềng xích quấn chặt, không thể trọn đời tịnh
tu phạm hạnh. Vậy ta hãy vứt bỏ các tài sản nhỏ và lớn, từ giã
thân tộc ít hay nhiều rồi cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí
tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo. Này chư
Hiền! Sau đó, tôi vứt bỏ tài sản nhỏ và lớn, từ giã thân tộc
ít hay nhiều, rồi cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, lìa bỏ gia
đình, sống không gia đình mà học đạo.
“Này chư Hiền! Sau khi tôi xuất gia học đạo, từ
bỏ của cải họ hàng rồi, thọ lãnh cấm giới mà Tỳ-kheo phải tu
tập, thủ hộ Tùng giải thoát, tôi lại cẩn thận thu nhiếp các
oai nghi lễ tiết, thấy tội nhỏ nhiệm cũng thường ôm lòng lo
sợ, nhớ kỹ điều cốt yếu đã học.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ sát sanh, xa lìa sát
sanh, xả bỏ kiếm gậy, biết hổ, biết thẹn, nuôi lòng từ bi, làm
lợi ích cho tất cả, cho đến loài côn trùng. Đối với tâm sát
sanh, tôi đã tịnh trừ.
“Tôi từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của
không cho; chỉ lấy của đã cho, thích của đã cho, thường thích
bố thí, vui vẻ không cầu mong sự đáp lại. Đối với tâm ưa lấy
của không cho, tôi đã tịnh trừ
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ sự phi phạm hạnh,
tránh xa phi phạm hạnh, siêng năng tu phạm hạnh, tinh tấn với
diệu hạnh, thanh tịnh không ô uế, từ bỏ dục vọng, dứt trừ dâm
dục. Đối với tâm phi phạm hạnh, tôi đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ nói láo, tránh xa nói
láo, nói điều chân thật, ưa điều chân thật, dựa trên sự chân
thật không sai chạy. Tất cả lời nói của tôi đều đáng tin cậy,
không lừa dối thế gian. Đối với tâm nói láo, tôi đã dứt trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa
nói hai lưỡi, tu hạnh không nói hai lưỡi, không phá hoại người
khác, không nghe lời người này đem nói với người kia để phá
hoại người này, không nghe lời người kia đem nói với người này
để phá hoại người kia; người ly gián tôi làm cho hòa hợp,
người đã sống hòa hợp, tôi làm cho họ hoan hỷ, không chia phe
đảng, không thích phe đảng, không khen ngợi phe đảng. Đối với
tâm nói hai lưỡi, tôi đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ lời nói thô ác, tránh
xa lời nói thô ác, giọng điệu thô bỉ, lớn tiếng, nghịch tai,
người nghe không ưa không mến, khiến họ khổ não không định
tâm. Tôi đoạn trừ lời nói như vậy. Nếu có lời nói êm dịu, nhẹ
nhàng, thuận tai, thông cảm đến tâm, làm cho người nghe vui
vẻ, mến chuộng, sung sướng, tiếng nói rõ ràng, không làm cho
người khác sợ, trái lại họ được định tâm, tôi nói lời nói như
vậy. Đối với tâm nói lời độc ác, tôi đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ lời nói thêu dệt,
tránh xa lời nói thêu dệt, nói đúng lúc, nói chân thật, nói
đúng pháp, nói đúng nghĩa, nói về tịch tĩnh, ưa nói về tịch
tĩnh, hợp thời, hợp lý, khéo dạy, khéo la mắng. Đối với tâm
nói thêu dệt, tôi đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ buôn bán, tránh xa sự
buôn bán, xả bỏ thói cân lường và đấu hộc, cũng không nhận
hàng hóa, không chèn ép người, không mong gian lận, không vì
lợi nhỏ mà lấn lướt người. Đối với sự sinh hoạt buôn bán, tâm
tôi đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ không nhận đàn bà góa,
con gái thơ, tránh xa việc nhận đàn bà góa, con gái thơ. Đối
với việc nhận đàn bà góa, con gái thơ, tâm tôi đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ không nhận nô tỳ,
tránh xa việc nhận nô tỳ. Đối với việc nhận nô tỳ, tâm tôi đã
tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ không nhận voi, ngựa,
bò, dê; tránh xa việc nhận voi, ngựa, bò, dê. Đối với việc
nhận voi, ngựa, trâu, dê, tâm tôi đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ không nhận gà, heo;
tránh xa việc nhận gà, heo. Đối với việc nhận gà, heo, tâm tôi
đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ không nhận ruộng
nương, hàng quán; tránh xa việc nhận ruộng nương, hàng quán.
Đối với việc nhận ruộng nương, hàng quán, tâm tôi đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ không nhận lúa giống,
lúa mạch, đậu; tránh xa việc nhận lúa giống, lúa mạch, đậu.
Đối với việc nhận lúa giống, lúa mạch, đậu, tâm tôi đã tịnh
trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ rượu, tránh xa rượu.
Đối với việc uống rượu, tâm tôi đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ không dùng giường cao,
rộng lớn; tránh xa giường cao, rộng lớn. Đối với việc dùng
giường cao, rộng lớn, tâm tôi đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ không trang sức vòng
hoa, chuỗi ngọc, hương liệu, dầu thơm; tránh xa không trang
sức vòng hoa, ngọc ngà, hương thoa, phấn sáp. Đối với việc
trang sức vòng hoa, chuỗi ngọc, hương thoa, phấn sáp, tâm tôi
đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ không ca múa, xướng
hát và đi xem nghe; tránh xa sự ca múa, xướng hát và đi xem
nghe. Đối với sự ca múa, xướng hát và đi xem nghe, tâm tôi đã
tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ không nhận vàng bạc,
tránh xa việc nhận vàng bạc. Đối với việc nhận vàng bạc, tâm
tôi đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi từ bỏ sự ăn quá ngọ, tránh
xa sự ăn quá ngọ, ăn đúng ngọ, không ăn ban đêm, không ăn phi
thời, học ăn đúng thời. Đối với sự ăn quá ngọ, tâm tôi đã tịnh
trừ.
“Này chư Hiền, tôi đã thành tựu Thánh giới này,
thân lại tu hành sự tri túc, áo cốt để che thân, ăn cốt đủ để
nuôi thân. Tôi đến chỗ nào mang theo y bát, không có luyến
tiếc, ví như chim nhạn cùng với hai cánh bay liệng trong không
theo hai cánh, tôi cũng như vậy.
“Này chư Hiền, tôi đã thành tựu Thánh giới thân
này và cực tri túc, rồi lại thủ hộ các căn, thường niệm sự
khép kín, niệm tưởng muốn minh đạt, thủ hộ niệm tâm mà được
thành tựu, hằng mướn khởi ý. Khi mắt thấy sắc, không chấp thủ
sắc tướng, không đắm sắc vị; vì sự phẫn tránh[14]
mà thủ hộ căn con mắt, trong tâm không sanh tham lam, ưu não,
ác bất thiện pháp, vì thú hướng đến kia[15],
nên thủ hộ căn con mắt. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, khi ý
biết pháp không chấp thủ pháp tướng, không đắm pháp vị; vì sự
phẫn tránh mà thủ hộ ý căn, trong tâm không sanh tham lam, ưu
não, ác bất thiện pháp, vì thú hướng đến kia, nên thủ hộ ý
căn.
“Này chư Hiền, tôi đã thành tựu Thánh giới thân
này và cực tri túc, Thánh thủ hộ các căn, lại biết rõ chân
chánh sự ra vào, khéo quán sát phân biệt sự co, duỗi, cúi,
ngước, nghi dung chững chạc, khéo đắp Tăng-già-lê và mang các
y bát; đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, nghỉ, nói năng thảy đều biết
rõ chân chánh.
“Này chư Hiền, tôi đã thành tựu Thánh giới thân
này và cực tri túc, và cũng thành tựu Thánh thủ hộ các căn,
chân chánh biết sự ra vào, rồi lại sống cô độc tại nơi xa
vắng, ở trong rừng vắng, trong rừng sâu, dưới gốc cây, những
nơi trống vắng yên tĩnh, sườn non, động đá, đất trống, lùm
cây, hoặc đến trong rừng, hoặc giữa bãi tha ma. Tôi sau khi ở
trong rừng vắng, hoặc đến gốc cây, những chỗ không nhàn yên
tĩnh, trải ni-sư-đàn, ngồi xếp kiết già, chánh thân chánh
nguyện, hướng niệm nội tâm[16],
đoạn trừ tâm tham lam, không có não hại, thấy tài vật và các
nhu dụng sinh sống của người khác mà không khởi tâm tham lam
muốn khiến về mình. Tôi đối với tham lam, tâm được tịnh trừ.
Cũng vậy, đối với sân nhuế, thùy miên, trạo hối, đoạn trừ nghi
hoặc, đối với các thiện pháp không còn do dự. Tôi đối với sự
nghi hoặc, tâm đã tịnh trừ.
“Này chư Hiền, tôi đã đoạn trừ năm triền cái,
những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, ly dục, ly ác bất thiện
pháp, có giác có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, cho đến,
chứng đắc Tứ thiền, thành tựu an trụ.
“Này chư Hiền, tôi đã đắc định tâm như vậy,
thanh tịnh không ô uế, không phiền nhiệt, nhu nhuyến, an trú
vững vàng, được bất động tâm, hướng đến chứng ngộ Trí lậu tận
thông. Này chư Hiền, tôi biết như thật rằng, ‘Đây là Khổ’,
biết như thật: ‘Đây là Khổ tập’, biết như thật: ‘Đây là Khổ
diệt’, và biết như thật: ‘Đây là Khổ diệt đạo’. Biết như thật,
‘Đây là lậu’, ‘Đây là lậu tập’, ‘Đây là lậu diệt’, và ‘Đây là
lậu diệt đạo’. Biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát dục
lậu, tâm giải thoát hữu lậu và vô minh lậu. Khi đã giải thoát
liền biết mình đã giải thoát và biết một cách như thật rằng,
‘Sự sanh đã hết, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong,
không còn tái sanh nữa’. Này chư Hiền, tôi biết như vậy, thấy
như vậy đối với bên trong thân cùng với thức này và tất cả các
tướng bên ngoài, ngã, ngã tác và kết sử mạn, thảy đều được
đoạn tri, nhổ tuyệt cội gốc của chúng, không còn tái sanh
nữa’. Tỳ-kheo đã dứt sạch các lậu và tự biết phạm hạnh đã vững
ấy nên như pháp mà đáp như vậy. Các ngươi sau khi nghe rồi,
nên khen ngợi là đúng và hoan hỷ phụng hành.
“Sau khi khen ngợi là đúng và hoan hỷ phụng
hành rồi, nên nói với vị Tỳ-kheo ấy như vầy, ‘Này Hiền giả,
khi Hiền giả vừa nói, chúng tôi đã đẹp lòng, đã hoan hỷ, nhưng
chúng tôi muốn theo Hiền giả để tăng tiến càng tăng tiến, mong
cầu trí tuệ và ứng đối biện tài. Vì vậy chúng tôi hỏi Hiền
giả, rồi lại hỏi nữa’.”
Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật
thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản Hán quyển
49. Tương đương Pāli M.112 Chabbisodhana-sutta.
-
[02] Bản Pāli:
n’eva abhinanditabba nappatikkositabba, không hoan hỷ cũng
không phản đối.
-
[03] Hán: thạnh ấm.
-
[04] Nguyên Hán:
giác.
-
[05] Lậu tận tâm
giải thoát. Pāli: anupādāya āsavehi citta vimutta, sau khi
không chấp thủ, do vô lậu mà tâm được giải thoát.
-
[06] Vô quả. Pāli:
abala, không có thế lực. Hình như theo bản Hán, aphala, thay
vì abala.
-
[07] Tứ thực: đoàn
thực thô tế, cánh lạc, ý niệm, thức;. Thức ăn vo nắm tức vật
chất, thức ăn do xúc chạm, thức ăn do ý niệm và thức ăn do
thức. Bản Pāli không đề cập. Tham khảo, S. II. pp.11-12, 98,
M. I. p. 261: cattāro āhārā... kabalikāro āhāro oḷāriko vā
sukhume vā, phasso dutiyo, manosañcetanā tatiyā, viññāa
catuttha.
-
[08] Tứ thuyết:
kiến, văn, thức (giác), tri. Pāli: cattaro vohārā... dihe
dihavāditā, sute sutavāditā, mute mutavāditā, viññāte
viññātavāditā, bốn ngôn thuyết: đối với cái được thấy thì
nói là cái được thấy, cái được nghe nói là cái được nghe,
cái được cảm nói là cái được cảm, cái được nhận thức nói là
cái được nhận thức.
-
[09] Hán: nội lục
xứ.
-
[10] Tam thọ, ba
bản Tống-Nguyên-Minh chép là “hai thọ”, ở đây thọ được hiểu
là thủ, hay chấp thủ và có hai: dục thủ, kiến thủ. Hay ba
thủ, thêm ngã ngữ thủ.
-
[11] Trong để bản:
thức sử; Tống-Nguyên-Minh: chư sử. Sử, trong bản Pāli:
anusaya: tùy miên.
-
[12] Thân cọng hữu
thức, hay hữu thức thân, thân tồn tại cùng với thức, hay là
sở y cho thức hoạt động. Pāli: saviññāaka kāya.
-
[13] Đoạn tri, có
lẽ là đoạn biến tri. Phát Trí 2 (Đại 26, trang 924 c), “Thế
nào là đoạn biến tri? Các tham đã vĩnh viễn bị đoạn trừ, sân
và si vĩnh viễn bị đoạn trừ. Tất cả phiền não vĩnh viễn bị
đoạn trừ”. Pāli: susamāhata. Nguyên đoạn này, Pāli: imasmi
ca-saviññāake kāye bahiddhā ca-sabbanimittesu
ahakāra-mamakāra-mānānusayā susamūhatā, ở trong các thân câu
hữu với thức này và trong tất cả, tướng bên ngoài, mà hoàn
toàn đoạn tuyệt ngã kiến, ngã sở kiến và mạn tùy miên.
-
[14] Vị phẫn tránh
cố; vì sự phẫn nộ và tranh cãi. Pāli: yatvādhikaraam enam…,
do nguyên nhân gì mà… Trong bản Hán, adhikaraṇa, nguyên
nhân, được hiểu là sự tranh cãi.
-
[15] Thú hướng bỉ
cố; Pāli: (akusalā dhammā) anvāssaveyy, (các pháp bất thiện)
có thể khởi lên (trôi chảy vào tâm).
-
[16] Chánh thân
chánh nguyện phản niệm bất hướng. Pāli: uju kāya paidhāya,
parimukha sati upahapetvā, giữ thân ngay thẳng; dựng chánh
niệm để trước mặt. Trong bản Pāli, paidhāya, “đặt để” trong
bản Hán hiểu là paidhāna, “ước nguyện”.