-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, tại
Đông viên, Lộc tử mẫu giảng đường[02].
Bấy giờ Tôn giả A-nan vào lúc xế, từ thiền tọa
đứng dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, lui
đứng sang một bên mà bạch rằng:
“Một thời Thế Tôn du hành giữa những người họ
Thích, trong thành tên là Thích đô ấp[03].
Con lúc ấy được nghe Thế Tôn nói nghĩa như vầy, ‘Này A-nan, Ta
phần nhiều hành nơi không tánh’[04].
Thế Tôn! Phải là con biết rõ, nhận rõ và nhớ kỹ không?”
Khi ấy Thế Tôn đáp rằng:
“Này A-nan, lời nói của Ta đó, ông thật sự biết
rõ, nhận rõ và nhớ kỹ. Vì sao? Vì Ta tự bao giờ cho đến hôm
nay phần nhiều hành nơi không tánh.
“Này A-nan, như giảng đường Lộc tử mẫu này
trống không, không có voi, ngựa, bò, dê, tài vật, lúa thóc, nô
tỳ; nhưng có cái không trống không. Đó là chỉ có chúng
Tỳ-kheo. Cho nên, này A-nan, nếu trong đó không có gì cả thì
chính do đó mà Ta thấy là trống không. Nếu trong này còn có
cái khác thì Ta thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là hành
trong sự chân thật, không tánh, sự không điên đảo[05].
“Này A-nan, Tỳ-kheo nào nếu muốn hành nhiều
trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác đến ý tưởng về xóm làng,
đừng tác ý đến ý tưởng về người, mà hằng tác ý đến ý tưởng về
duy nhất tánh là ý tưởng về khu rừng[06].
Vị ấy nhận biết như vầy, ‘Trống không ý tưởng về xóm làng,
trống không ý tưởng về người, nhưng có một cái không trống
không, đó là duy nhất tánh do ý tưởng về khu rừng. Nếu có sự
phiền nhọc[07]
do ý tưởng về xóm làng, thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có sự
phiền nhọc do ý tưởng về người, thì ở đây ta không có sự ấy. Ở
đây chỉ có sự phiền nhọc là do duy nhất tánh ý tưởng về khu
rừng’. Nếu trong đó không có gì cả thì, thì chính do đó mà vị
ấy thấy đó là trống không. Nếu trong này còn có cái khác, thì
vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là hành trong sự
chân thật, không tánh, sự không điên đảo.
“Lại nữa, này A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn hành
nhiều trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác ý đến ý tưởng về
người, đừng tác ý đến ý tưởng khu rừng mà hằng tác ý đến duy
nhất tánh là ý tưởng về đất. Tỳ-kheo ấy nếu thấy đất này có
cao có thấp, có ổ rắn, có bụi gai, có cát, có đá, núi chởm,
sông sâu thì chớ có tác ý đến. Nếu thấy đất này bằng phẳng như
lòng bàn tay, chỗ trông ra được rõ ràng, thì hãy thường tác ý
đến.
“Này A-nan, ví như da bò, lấy một trăm cây đinh
mà căng ra; sau khi căng rất thẳng, nó không nhăn, không rút
lại. Nếu thấy chỗ đất này có cao có thấp, có ổ rắn, có bụi
gai, có cát, có đá, núi chởm, sông sâu thì đừng tác ý đến. Nếu
thấy chỗ đất này bằng phẳng như lòng bàn tay, chỗ trông ra
được rõ ràng, thì hãy thường tác ý. Vị ấy biết như vậy, biết
rằng, ‘Trống không ý tưởng về người, trống không ý tưởng về
khu rừng, nhưng có một cái không trống không, đó là duy nhất ý
tưởng về đất. Nếu có sự phiền nhọc do ý tưởng về người, thì ở
đây ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền nhọc do ý tưởng về khu
rừng, thì ở đây ta không có sự ấy. Ở đây chỉ có sự phiền nhọc
do duy nhất tánh là ý tưởng về đất’. Nếu trong đó không có gì
cả, thì chính do đó mà vị ấy thấy là trống không. Nếu trong
này còn có cái khác thì vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan,
đó là hành trong sự chân thật, không tánh, sự không điên đảo.
“Lại nữa, này A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn hành
nhiều trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác ý đến ý tưởng về
khu rừng, đừng tác ý đến ý tưởng về đất, mà hằng tác ý đến duy
nhất tánh là ý tưởng thuần nhất về vô lượng không xứ[08].
Vị ấy nhận biết như vầy, ‘Trống không ý tưởng về khu rừng,
trống không ý tưởng về đất, nhưng có cái không trống không, đó
là duy nhất ý tưởng về vô lượng không xứ. Nếu có sự phiền nhọc
do ý tưởng về khu rừng, thì ở đây ta không có sự đó. Nếu có sự
phiền nhọc do ý tưởng về đất, thì ta không có sự đó. Ở đây chỉ
có sự phiền nhọc do duy nhất tánh là ý tưởng về vô lượng không
xứ’. Nếu trong đó không có gì cả, thì chính do đó mà vị ấy
thấy là trống không. Nếu trong này còn có cái khác, thì vị ấy
thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là hành trong sự chân
thật, tánh không, không điên đảo.
“Lại nữa, này A-nan, Tỳ-kheo muốn hành nhiều
trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác ý đến ý tưởng về khu
rừng, đừng tác ý đến ý tưởng về đất, đừng tác ý về ý tưởng vô
lượng không xứ, hãy hằng tác ý đến duy nhất tánh là ý tưởng về
vô lượng thức xứ[09].
Vị ấy nhận biết như vầy, ‘Trống không ý tưởng về khu rừng,
trống không ý tưởng về đất, trống không ý tưởng về vô lượng
không xứ, nhưng có một cái không trống không, đó là duy nhất ý
tưởng về vô lượng thức xứ. Nếu có sự phiền nhọc do ý tưởng về
khu rừng, thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền nhọc do
ý tưởng về đất, thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền
nhọc do ý tưởng về vô lượng không xứ, thì ở đây ta không có sự
ấy. Ở đây chỉ có sự phiền nhọc do duy nhất tánh là ý tưởng về
vô lượng thức xứ.’ Nếu trong đó không có gì cả, thì chính vì
vậy mà vị ấy thấy là trống không. Nếu trong này còn có một cái
khác, thì vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là hành
trong sự chân thật, tánh không, không điên đảo.
“Lại nữa, này A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn hành
nhiều trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác ý đến ý tưởng về
vô lượng không xứ, đừng tác ý đến ý tưởng về vô lượng thức xứ,
mà hãy hằng tác ý đến duy nhất tánh là ý tưởng về vô sở hữu xứ[10].
Vị ấy niệm biết như vầy, ‘Trống không vô lượng không xứ, trống
không vô lượng thức xứ, nhưng có một cái không trống không. Đó
là duy nhất ý tưởng về vô sở hữu xứ. Nếu có sự phiền nhọc do ý
tưởng về vô lượng không xứ, thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu
có sự phiền nhọc do ý tưởng về vô lượng thức xứ, thì ở đây ta
không có sự ấy. Ở đây chỉ có sự phiền nhọc do duy nhất tánh là
ý tưởng về vô sở hữu xứ’. Nếu trong đó không có gì cả, thì
chính vì vậy mà vị ấy thấy là trống không. Nếu trong đó còn có
cái khác, thì vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là
hành trong sự chân thật, tánh không, không điên đảo.
“Lại nữa, này A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn hành
nhiều trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác ý đến ý tưởng về
vô lượng thức xứ, đừng tác ý đến ý tưởng về vô sở hữu xứ, mà
hãy hằng tác ý đến duy nhất tánh là ý tưởng về vô tưởng tâm
định[11].
Vị ấy nhận biết như vầy, ‘Trống không ý tưởng về vô lượng thức
xứ, trống không ý tưởng về vô sở hữu xứ, nhưng có cái không
trống không, đó là duy nhất tánh do vô tưởng tâm định. Nếu có
sự phiền nhọc do ý tưởng về vô lượng thức xứ, thì ở đây ta
không có sự ấy. Nếu có sự phiền nhọc do ý tưởng về vô sở hữu
xứ, thì ở đây ta cũng không có sự ấy. Ở đây chỉ có sự phiền
nhọc do duy nhất là về tưởng tâm định’. Nếu trong đó không có
gì cả, thì chính vì vậy mà vị ấy thấy là trống không. Nếu
trong này còn có cái khác, thì vị ấy thấy là chân thật có. Này
A-nan, đó là hành trong sự chân thật, tánh không, không điên
đảo.
“Vị ấy lại suy nghĩ như vầy, ‘Vô tưởng tâm định
mà ta đã có đây vốn là sở hành, vốn là sở tư[12].
Nếu nó vốn là sở hành, vốn là sở tư thì ta không ái lạc nó[13],
không mong cầu nó, không an trụ trên nó’.
“Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải
thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu và vô minh lậu. Giải
thoát rồi, thì biết là mình đã giải thoát, biết như thật rằng
‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong,
không còn tái sanh nữa’. Vị ấy biết như vầy, ‘Trống không là
dục lậu, trống không là hữu lậu, trống không là vô minh lậu;
nhưng có cái không trống không, đó là chỉ có thân này của ta
với sáu xứ cho mạng tồn tại. Nếu có sự phiền nhọc do dục lậu,
thì ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền nhọc do hữu lậu và vô
minh lậu, ta cũng không có sự ấy. Ở đây chỉ có sự phiền nhọc
do nơi thân này của ta và sáu xứ cho mạng tồn tại[14]’.
Nếu trong đó không có gì cả thì chính vì vậy mà vị ấy thấy là
trống không. Nếu trong này còn có cái khác thì vị ấy thấy là
chân thật có. Này A-nan, đó là hành trong sự chân thật, tánh
không, không điên đảo. Đó là lậu tận, vô lậu, vô vi, tâm giải
thoát.
“Này A-nan, trong quá khứ, nếu có các Đức Như
Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, các vị ấy tất cả đều
hành trong sự chân thật, tánh không, không điên đảo này; đó là
lậu tận, vô lậu, vô vi, tâm giải thoát.
“Này A-nan, trong vị lai, nếu có các Đức Như
Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, các vị ấy tất cả đều
hành trong sự chân thật, tánh không, không điên đảo này; đó là
lậu tận, vô lậu, vô vi, tâm giải thoát.
“Này A-nan, trong hiện tại, Ta là Như Lai, Bậc
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Ta cũng hành trong sự chân thật,
tánh không, không điên đảo này; đó là lậu tận, vô lậu, vô vi,
tâm giải thoát.
“Cho nên, này A-nan, hãy học như vậy.”
Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các
Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương đương
Pāli, M.124. Cūa-suññatā-sutta.
-
[02] Xem
Kinh 189 trên.
-
[03] Pāli: Sakkesu
(.....) nagarakam nāma sakyānaṃ nigamo, giữa những người họ
Thích, một thị trấn của họ Thích ca, tên là Nagaraka.
-
[04] Hành không.
Pāli: suññatāvihāra, không trụ, sự an trụ nơi tánh không,
sống trong trạng thái không tánh.
-
[05] Hành chân thật
không bất điên đảo. Pāli: Yathābhuccā avipallatthā
parisuddhā sunnatāvakkam. Thâm nhập không tánh, chân thật,
thanh tịnh, không điên đảo. Bốn từ này ở đây được coi là
đồng nghĩa.
-
[06] Hán: niệm nhất
vô sự tưởng. Pāli: araññasañña paicca manasi karoti ekatta,
duyên vào ý tưởng về khu rừng mà tác ý cái một. Duyên vào ý
tưởng rừng mà tập trung trên một đối tượng duy nhất, nhất
tánh.
-
[07] Bì bao, Pāli:
daratha, bất an, buồn phiền.
-
[08] Vô lượng không
xứ tưởng. Pāli: ākāsānañcāyatana-saññā.
-
[09] Vô lượng thức
xứ tưởng. Pāli: viññāañcanāyatana-saññā.
-
[10] Vô sở hữu xứ
tưởng. Pāli: ākiñcaññāyatana-saññā.
-
[11] Vô tưởng tâm
định. Pāli: animitta-cetosamādhi (vô tướng tâm định). Bản
Hán bỏ qua Phi hữu tưởng phi vô tưởng phi vô tưởng xứ
(nevasaññāsaññāyātana-saññā) được đề cập trong bản Pāli.
-
[12] Bổn sở hành,
bổn sở tư. Pāli: ayampi kho animoitto cetosamādhi abhsakhato
abhisañcetayito, vô tướng tâm định này là thắng hữu vi, được
tư duy. Thắng hữu vi, thuộc hữu vi, vì những thù thắng, siêu
việt hơn. Trong bản Hán, đọc là abhisakhāra (bổn sở hành hay
thắng hành) thay vì là abhisakhata. Bổn sở tư
(abhisañcetayita), ở đây hiểu là cái được tạo ra do tư niệm,
tư sở tác.
-
[13] So Pāli:
abhismkhatm (....) aniccm: thuộc về hữu vi, là vô thường.
-
[14] Pāli: kāya
paicca-saāyatanika jīvitapaccayā, duyên nơi thân với sáu xứ
là điều kiện cho mạng tồn tại.