-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng
Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Ta đã từng nói năm hạ phần kết,
[02] các ngươi có thọ trì chăng?”
Các Tỳ-kheo im lặng không trả lời. Thế Tôn lại
hỏi đến lần thứ ba:
“Ta đã từng nói năm hạ phần kết, các ngươi có
thọ trì chăng?”
Các Tỳ-kheo im lặng không trả lời đến lần thứ
ba. Lúc bấy giờ Tôn giả Man Đồng tử
[03] , từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Phật
bạch rằng:
“Thế Tôn đã từng nói năm hạ phần kết. Con có
thọ trì.”
Thế Tôn hỏi:
“Này Man Đồng tử, Ta đã từng nói năm hạ phần
kết, ngươi có thọ trì chăng?”
Tôn giả Man Đồng tử đáp:
“Thế Tôn nói dục là hạ phần kết thứ nhất, con
thọ trì như vậy. Nhuế, thân kiến, giới thủ và nghi, Thế Tôn
nói nghi là hạ phần kết thứ năm, con thọ trì như vậy.”
Thế Tôn quở rằng:
“Man Đồng tử, ngươi sao lại thọ trì rằng Ta nói
năm hạ phần kết như vậy? Man Đồng tử, ngươi nghe từ miệng ai
mà thọ trì rằng Ta nói năm hạ phần kết như vậy?”
“Này Man Đồng tử, há không phải số đông các
người dị học cật vấn chỉ trích ngươi với thí dụ về trẻ nít sơ
sanh này chăng? Này Man Đồng tử, con nít mới sanh mềm yếu, nằm
ngủ, trong ý còn không có ý tưởng về dục tưởng, há lại có quấn
chặt nơi dục chăng? Nhưng kết sử nằm trong bản tính
[04] của chúng nên nói là dục sử.[05]
Này Man Đồng tử, con nít mới sanh, mềm yếu, nằm ngửa mà ngủ, ý
tưởng về chúng sanh còn không có, há lại có tâm về quấn chặt
nơi sân nhuế chăng? Nhưng do kết sử nằm trong bản tính của nó,
nên nói là nhuế sử
[06] . Này Man Đồng tử, con nít mới sanh mềm yếu,
nằm ngửa mà ngủ, ý tưởng về tự thân còn không có, há lại có
quấn chặt nơi thân chăng? Nhưng do kết sử ở nơi bản tính của
nó nói là thân kiến sử.
[07] Này Man Đồng tử, con nít mới sanh mềm yếu, nằm
ngửa mà ngủ, ý tưởng về giới còn không có há lại có tâm quấn
chặt nơi giới chăng? Nhưng do kết sử nơi bản tính của nó nên
nói là giới thủ sử.
[08] Này Man Đồng tử, con nít mới sanh mềm yếu, ý
tưởng về pháp còn không có, há lại có tâm quấn chặt nơi pháp
chăng? Nhưng do kết sử nơi bản tính của nó nên nói là nghi sử
[09] . Há không phải số đông các dị học đem thí dụ con
nít mới sanh này mà chỉ trích cật vấn ngươi chăng?”
Lúc bấy giờ, Tôn giả Man Đồng tử bị Thế Tôn quở
trách ngay mặt, trong lòng rầu rĩ, cúi đầu im lặng, không còn
lời lẽ biện bạch, suy nghĩ mông lung. Thế Tôn sau khi mắng Tôn
giả Man Đồng tử ngay mặt rồi, ngồi im lặng. Lúc ấy Tôn giả
A-nan đứng sau Thế Tôn, cầm quạt quạt Phật. Rồi Tôn giả A-nan
chắp tay hướng về Đức Phật, bạch:
“Bạch Thế Tôn, hôm nay thật đúng lúc, bạch
Thiện Thệ nay thật đúng lúc, nếu nói cho các Tỳ-kheo nghe năm
hạ phần kết. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Thế Tôn dạy sẽ khéo léo
thọ trì.”
Thế Tôn nói:
“Này A-nan, hãy lắng nghe, hãy khéo tư niệm.”
Tôn giả A-nan bạch Phật:
“Xin vâng lời lắng nghe.”
Phật nói:
“A-nan, ở đây có một hạng người bị dục quấn
chặt. Dục tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly; do
không biết như thật về sự xả ly, nên tham dục càng tăng thạnh,
không thể chế trừ. Đó là hạ phần kết.
“A-nan, ở đây có một hạng người bị nhuế quấn
chặt. Nhuế tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly. Do
không biết như thật xả ly sân nhuế càng tăng thạnh, không thể
chế trừ. Đó là hạ phần kết.
“A-nan, ở đây có một hạng người bị thân kiến
quấn chặt. Thân kiến tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự
xả ly. Do không biết như thật xả ly, thân kiến càng tăng
thạnh, không thể chế trừ. Đó là hạ phần kết.
“A-nan, ở đây có một hạng người bị giới thủ
quấn chặt. Giới thủ tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự
xả ly. Do không biết như thật xả ly, giới thủ càng tăng thạnh.
Không thể chế trừ. Đó là hạ phần kết.
“A-nan, ở đây có một hạng người bị nghi quấn
chặt. Nghi tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly,
nghi càng tăng thạnh. Không thể chế trừ. Đó là hạ phần kết.
“Này A-nan, y trên đạo, y trên đạo tích để đoạn
trừ năm hạ phần kết. Nếu không y trên đạo này, không y trên
đạo tích này mà đoạn trừ được năm hạ phần kết, trường hợp này
không thể có.
“A-nan, cũng như có người muốn tìm một cái gì
chắc thật
[10] . Vì để tìm cái gì chắc thật nên xách búa vào
rừng, và người ấy thấy một gốc cây đã đầy đủ rễ, thân, cành,
lá và lõi. Nhưng nếu người ấy không chặt nơi rễ nơi thân mà
tìm được cái gì chắc thật mang về, thì trường hợp này không
thể có. Cũng vậy, này A-nan, phải y trên đạo, y trên đạo tích
để đoạn trừ năm hạ phần kết. Nếu không y trên đạo này, không y
trên tích này mà đoạn trừ được năm hạ phần kết, trường hợp này
không thể có.
“Này A-nan, y trên đạo, y trên đạo tích để đoạn
trừ năm hạ phần kết. Nếu ai y trên đạo này, y trên tích này mà
đoạn trừ năm hạ phần kết, trường hợp này tất có.
“A-nan, cũng như một người muốn tìm cái gì chắc
thật. Vì để tìm cái gì chắc thật, nên xách búa vào rừng, và
người ấy thấy một gốc cây đã đầy đủ rễ, thân, cành, và lá với
lõi. Nếu người ấy chặt nơi rễ, nơi thân và được cái chắc thật
để mang về, trường hợp này chắc có. Cũng vậy này A-nan, y trên
đạo và y trên tích để đoạn trừ năm hạ phần kết. Nếu ai y trên
đạo này và y trên tích này mà đoạn trừ được năm hạ phần kết
trường hợp này tất có.
“Này A-nan, y trên đạo nào, y trên tích nào để
đoạn trừ năm hạ phần kết? A-nan, hoặc có một hạng người bị dục
quấn chặt. Nếu dục triền đã sanh, liền biết như thật về sự xả
ly; biết như thật về sự xả ly rồi dục triền nơi người ấy liền
diệt. A-nan, ở đây một người bị nhuế quấn chặt; nếu nhuế triền
phát sanh, liền biết như thật về sự xả ly. Nếu biết như thật
về sự xả ly rồi, nhuế triền nơi người ấy liền diệt. A-nan ở
đây có một người bị thân kiến quấn chặt. Nếu thân kiến đã quấn
chặt, liền biết như thật về sự xả ly. Biết như thật về sự xả
ly rồi, thân kiến triền nơi người ấy liền diệt. A-nan, ở đây
có một người bị giới thủ quấn chặt. Nếu giới thủ triền đã
sanh, liền biết như thật về sự xả ly. Biết như thật về sự xả
ly rồi, giới thủ triền nơi người ấy liền diệt. A-nan, ở đây
một người bị nghi quấn chặt, nếu nghi triền đã sanh, liền biết
như thật về sự xả ly. Biết như thật về sự xả ly rồi, nghi
triền nơi người ấy liền diệt.
“Này A-nan, y trên đạo này, y trên đạo tích này
mà đoạn trừ năm hạ phần kết.
“Này A-nan, cũng như sông Hằng-già với nước
chảy tràn lên bờ. Nếu có một người đến, có công việc ở bờ bên
kia nên muốn qua sông. Người ấy suy nghĩ rằng, ‘Sông Hằng-già
này nước chảy tràn lên bờ. Ta có công việc bờ bên kia nên muốn
qua sông. Nhưng tự thân ta không đủ sức để bình an lội sang bờ
bên kia’. A-nan, nên biết rằng người ấy không đủ sức. Cũng
vậy, này A-nan, nếu ai đối với sự chứng giác, với tịch diệt,
với Niết-bàn mà tâm không thú hướng, không thanh tịnh, không
trụ nơi giải thoát; A-nan, nên biết người ấy cũng giống như
người gầy yếu không sức lực kia.
“A-nan, cũng như sông Hằng-già với nước chảy
tràn lên bờ. Nếu có một người đến, có công việc ở bờ bên kia
nên muốn qua sông. Người ấy nghĩ rằng, ‘Sông Hằng-già này với
nước chảy tràn lên bờ. Ta có công việc ở bờ bên kia. Tự thân
ta đủ sức để bình an lội qua bờ bên kia’. A-nan, nên biết rằng
người ấy đủ sức. Cũng vậy, này A-nan, nếu ai đối với sự chứng
giác, với tịch diệt, với Niết-bàn, mà có tâm thú hướng, thanh
tịnh mà trụ nơi giải thoát; A-nan, nên biết, người này cũng
như người có sức lực kia.
“Này A-nan, cũng giống như giòng nước lũ
[11] rất sâu, rất rộng, chảy xiết, cuốn trôi nhiều
thứ, mà ở quãng giữa không thuyền, không cầu, giả sử có một
người đến, có công việc ở bờ bên kia, nên tìm cách để qua. Khi
tìm cách để qua, người ấy nghĩ rằng, ‘Nay giòng nước lũ này
rất sâu, rất rộng, chảy xiết, cuốn trôi mọi thứ, ở khoảng giữa
lại không có thuyền, không cầu để có thể qua. Với phương tiện
để ta có thể bình an sang bờ bên kia. Ta có công việc ở bờ bên
kia cần đi qua. Với phương tiện nào để ta có thể bình an qua
bờ bên kia?’ Rồi người ấy lại nghĩ rằng, ‘Bây giờ ở bờ bên này
ta hãy thu lượm cỏ, cây buộc lại mà làm chiếc bè để bơi sang’.
Người ấy bèn ở bên này thu lượm cỏ cây buộc lại làm thành
chiếc bè, rồi bình an bơi sang bờ bên kia. Cũng vậy, này
A-nan, nếu có Tỳ-kheo phan duyên vào sự yểm ly, y trên sự yểm
ly, an trụ nơi yểm ly, do làm an tịnh thân ác, do tâm nhập ly
định, ly dục, ly ác bất thiện pháp, có giác có quán, có hỷ lạc
do ly dục sanh, chứng đắc Sơ thiền thành tựu an trụ. Vị ấy y
trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ. Vị ấy y trên xứ
này mà quán sát sự hưng suy của thọ rồi, an trụ nơi đó, tất
chứng đắc Lậu tận. Giả sử trụ nơi đó mà không chứng đắc Lậu
tận, tất sẽ thăng tiến và đạt đến Tịch tịnh xứ.
“Rồi vị ấy giác quán tịch tịnh, nội tĩnh, nhất
tâm, không giác không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Nhị
thiền, thành tựu an trụ. Vị ấy y trên xứ này mà quán sát sự
hưng suy của thọ. Vị ấy sau khi y trên xứ này mà quán sát sự
hưng suy của thọ rồi, an trụ nơi đó tất chứng đắc Lậu tận. Giả
sử an trụ nơi đó mà không chứng đắc Lậu tận, tất sẽ thăng tiến
và đạt đến Tịch tịnh xứ.
“Thế nào là thăng tiến và đạt đến Tịch tịnh xứ?
Vị ấy ly hỷ dục, xả, vô cầu, an trụ với chánh niệm chánh trí,
thân cảm thọ lạc, điều mà Thánh nói là được Thánh xả, với niệm
an trú lạc, chứng đắc Tam thiền, thành tựu an trụ. Vị ấy y
trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ. Vị ấy sau khi y
trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ rồi, an trụ nơi đó
tất chứng đắc Lậu tận. Giả sử an trụ nơi đó mà không chứng đắc
Lậu tận, tất sẽ thăng tiến và đạt đến Tịch tịnh xứ.
“Thế nào là thăng tiến và đạt đến Tịch tịnh xứ?
Vị ấy diệt lạc, diệt khổ, ưu hỷ vốn cũng đã diệt, không lạc,
không khổ, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc đệ Tứ thiền, thành
tựu an trụ. Vị ấy y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của
thọ. Vị ấy sau khi y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của
thọ rồi, an trụ nơi đó tất chứng đắc Lậu tận. Giả sử an trụ
nơi đó mà không chứng đắc Lậu tận, tất sẽ thăng tiến và đạt
đến Tịch tịnh xứ.
“Thế nào là thăng tiến và đạt đến Tịch tịnh xứ?
Vị ấy vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu ngại tưởng,
[12] không suy niệm đến bất cứ loại tưởng nào, nhập
vô lượng không, chứng vô lượng không xứ, thành tựu an trụ. Vị
ấy y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ. Vị ấy sau
khi y trên xứ này mà quán sát sự hưng suy của thọ rồi, an trụ
nơi đó tất chứng đắc Lậu tận. Giả sử an trụ nơi đó mà không
chứng đắc Lậu tận tất sẽ thăng tiến và đạt đến Tịch tịnh xứ.
“Thế nào là thăng tiến và đạt đến Tịch tịnh xứ?
Vị ấy vượt qua tất cả vô lượng không xứ, nhập vô lượng thức,
chứng vô lượng thức xứ, thành tựu an trụ. Vị ấy y trên xứ này
mà quán sát sự hưng suy của thọ. Vị ấy sau khi y trên xứ này
mà quán sát sự hưng suy của thọ rồi, an trụ nơi đó tất chứng
đắc Lậu tận. Giả sử an trụ nơi đó mà không chứng đắc Lậu tận,
tất sẽ thăng tiến và đạt đến Tịch tịnh xứ.
“Thế nào là thăng tiến và đạt đến Tịch tịnh xứ?
Vị ấy vượt qua tất cả vô lượng thức xứ, nhập vô sở hữu, chứng
vô sở hữu xứ, thành tựu an trụ. Nơi vị ấy nếu có những cảm thọ
nào, hoặc lạc, khổ, hoặc không lạc, không khổ, vị ấy quán sát
cảm thọ này là vô thường, quán hưng suy, quán vô dục, quán
diệt, quán đoạn, quán xả. Vị ấy sau khi như vậy quán thọ này
là vô thường, quán hưng suy, quán vô dục, quán diệt, quán
đoạn, quán xả rồi, liền không còn chấp thủ đối với thế gian
này
[13] Sau khi không còn chấp thủ đối với thế gian
này, liền không sợ hãi. Do không sợ hãi mà nhập Niết-bàn. Biết
như thật ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã
làm xong, không còn tái sanh nữa’.
“Cũng như cách thôn không xa có một bụi chuối
to lớn, nếu có một người xách búa đến đốn ngã cây chuối, xẻ
thành mảnh, xả làm mười phần, hoặc làm trăm phần. Sau khi xả
làm mười phần hoặc trăm phần rồi, bèn vạch từng sợi, nhưng mắt
chuối không tìm thấy, há lại tìm thấy lõi được sao? A-nan,
cũng vậy, Tỳ-kheo nếu có những cảm thọ nào, hoặc lạc, hoặc
khổ, hoặc không khổ không lạc, vị ấy quán cảm thọ này là vô
thường, quán hưng suy, quán vô dục, quán diệt, quán đoạn, quán
xả. Vị ấy sau khi như vậy, quán sát thọ này là vô thường, quán
hưng suy, quán vô dục, quán diệt, quán đoạn quán xả rồi, liền
không còn chấp thủ đối với thế gian này. Sau khi không còn
chấp thủ đối với thế gian này, liền không sợ hãi. Do không sợ
hãi mà nhập Niết-bàn. Biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm
hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh
nữa’.”
Lúc bấy giờ Tôn giả A-nan chắp tay hướng về Đức
Phật mà bạch:
“Bạch Thế Tôn! Kỳ lạ thay! Hy hữu thay! Thế Tôn
vì các Tỳ-kheo y trên y, thiết lập y, giảng thuyết về sự xả ly
lậu, nói về sự vượt qua lậu. Nhưng các Tỳ-kheo không nhanh
chóng chứng đắc vô thượng, nghĩa là đạt đến cứu cánh diệt
tận.”
Thế Tôn nói:
“Thật vậy, A-nan! Thật vậy, A-nan! Thật là kỳ
lạ. Thật là hy hữu, Ta vì các Tỳ-kheo, y trên y, thiết lập y,
nói về sự xả ly lậu, nói về sự vượt qua lậu. Nhưng các Tỳ-kheo
không nhanh chóng vượt chứng đắc vô thượng, nghĩa là đạt đến
cứu cánh diệt tận. Vì sao vậy? Vì sự thắng liệt nơi mỗi người
cho nên sự tu học có tinh, có thô. Do sự tu học đạo có tinh có
thô, cho nên mỗi người có sự thắng liệt khác nhau. A-nan, vì
vậy Ta nói mỗi người có sự thắng liệt khác nhau.”
Phật thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các
Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Tương
đương Pāli: M.64. Mahā-Mālukya-sutta.
-
[02] Ngũ hạ
phần kết. Hạ phần, chỉ cho Dục giới, năm loại kết sử đưa đến
sự tái sanh ở dục giới. Cũng gọi là Ngũ thuận hạ phần kết.
Pāli: Pañc’orambhāgiyāni sayojanāni.
-
[03] Man
Đồng tử. Pāli: Mālukyāputta, con một đại thần của vua nước
Kosala. Trước kia Tôn giả tu theo ngoại đạo. Sau tu theo
Phật và chứng đắc A-la-hán. Kinh này tất nhiên được nói
trước khi Tôn giả chứng A-la-hán.
-
[04] Nguyên
Hán: bỉ tính sử cố. Pāli: anusetvevassa kāmarāgānusayo, dục
ái tùy miên tiêm phục nơi nó. Pāli dùng động từ anuseti (nằm
ngủ, tiềm phục) nêu rõ ý nghĩa phiền não được gọi là tùy
miên (anusaya).
-
[05] Dục sử;
Pāli: kāmarāgānusayo, dục ái tùy miên.
-
[06] Nhuế
sử; Pāli: vyāpādānusayo, sân tùy miên.
-
[07] Thân
kiến sử; Pāli: sakkāyadihānusayo, hữu thân kiến tùy miên.
-
[08] Giới
thủ sử; Pāli: sīlabbataparāmāsānusayo, giới cấm thủ tùy
miên.
-
[09] Nghi
sử; Pāli: vicikicchānusayo, nghi tùy miên.
-
[10] Thật;
Pāli: sāra, vừa có nghĩa chắc thật, vừa có nghĩa lõi cây.
-
[11] Nguyên
Hán: sơn thủy, nước trên núi đổ xuống. Xem thí dụ về chiếc
bè trong
Kinh 200 trên.
-
[12] Hữu
ngại tưởng; những nơi khác cũng trong bản Hán này, nói là
hữu đối tưởng. Những tưởng tương ưng với nhãn thức thuộc sắc
tưởng. Những tưởng tương ưng với bốn thức tiếp theo thuộc
hữu đối tưởng, (giải thích của Pháp Uẩn 8, No.1537, Đại
tr.488c).
-
[13] Một vị
đã diệt trừ năm hạ phần kết, sẽ không còn nguyên nhân để tái
sinh (chấp thủ hay thọ) dục giới.