-
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại thành Vương xá, ở Trúc
lâm, vườn Ca-lan-đà cùng đại chúng Tỳ-kheo một ngàn hai trăm
năm mươi người đang an cư mùa mưa.
Bấy giờ trải qua đêm, lúc vừa sáng, Thế Tôn
mang y cầm bát vào thành Vương xá để khất thực. Khất thực
xong, thu dọn y bát, rửa chân tay, Ngài khoác y ni-sư-đàn trên
vai và đi đến vườn Dị học trong rừng Khổng tước.
[02]
Tại rừng Khổng tước, trong vườn Dị học, bấy
giờ có một người Dị học tên là Tiễn Mao
[03] là một vị danh đức, là bậc Tông chủ, được
nhiều người tôn làm Thầy, có tiếng tăm lớn, nhiều người kính
trọng ông đang ở giữa đám đông ồn ào, lớn tiếng, âm thanh
huyên náo, luận bàn đủ mọi đề tài súc sanh,
[04] như: bàn chuyện vua chúa, bàn chuyện trộm
cướp, bàn chuyện đấu tranh, bàn chuyện ăn uống, bàn chuyện áo
chăn, bàn chuyện phụ nữ, bàn chuyện đàn bà, bàn chuyện con
gái, bàn chuyện dâm nữ, bàn chuyện thế gian, bàn chuyện tà
đạo, bàn chuyện trong biển; đại loại như thế, chúng tụ tập
luận bàn đủ mọi đề tài súc sanh.
Dị học Tiễn Mao thấy Phật từ xa đến, dặn dò
chúng của mình rằng: ”Này các ông, hãy ngồi im lặng, người
đang đến kia là Sa-môn Cù-đàm. Đồ chúng của ông ấy im lặng,
thường ưa sự im lặng, khen ngợi sự im lặng. Ông ấy nếu thấy
chúng ta im lặng, có thể sẽ đến thăm.”
Dị học Tiễn Mao dặn chúng im lặng, chính mình
cũng im lặng mà ngồi.
Thế Tôn đi đến chỗ Dị học Tiễn Mao. Dị học Tiễn
Mao liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo, chắp tay mà bạch
Phật rằng:
“Kính chào Sa-môn Cù-đàm, Sa-môn Cù-đàm đã lâu
không đến đây. Mời Ngài ngồi xuống chỗ này.”
Thế Tôn liền ngồi xuống chỗ ngồi Tiễn Mao đã
trải sẵn. Dị học Tiễn Mao và Thế Tôn sau khi cùng nhau chào
hỏi, rồi lui ngồi một bên.
Thế Tôn hỏi rằng: “Ưu-đà-di,
[05]các ông vừa bàn luận những gì, do việc gì mà
cùng nhóm họp ở đây?”
Dị học Tiễn Mao đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, xin bỏ qua vấn đề này. Vấn đề này
không hay ho gì. Sa-môn Cù-đàm nếu muốn nghe vấn đề này để sau
này nghe cũng không khó gì.”
Thế Tôn hỏi như vậy ba lần rằng:
“Ưu-đà-di, các ông vừa bàn luận những vấn đề
gì? Do việc gì mà cùng nhóm họp nơi đây?”
Dị học Tiễn Mao cũng đáp lại ba lần rằng:
“Bạch Cù-đàm, xin bỏ qua vấn đề này. Nó không
hay ho gì. Sa-môn Cù-đàm nếu muốn nghe sau này nghe cũng không
khó. Nhưng Sa-môn Cù-đàm ba lần muốn nghe, nay tôi phải nói.
“Bạch Cù-đàm, chúng tôi cùng với số đông các
Phạm chí nước Câu-tát-la cùng tụ tập ngồi ở học đường
Câu-tát-la
[06] bàn luận như vầy, ”Thật tốt đẹp và lợi ích
cho dân nước Ương-già Ma-kiệt-đà!
[07] Thật tốt đẹp và lợi ích cho người nước
Ương-già Ma-kiệt-đà! Chúng Đại phước điền
[08]như thế cùng an cư mùa mưa tại thành Vương xá.
“Đó là có ngài Phất-lan Ca-diếp
[09]
Vì sao? Bạch Cù-đàm, Phất-lan Ca-diếp là bậc
Tông chủ danh đức, làm Thầy mọi người, có tiếng tăm lớn, mọi
người kính trọng, lãnh đạo đồ chúng lớn, được năm trăm dị học
tôn trọng, cùng an cư mùa mưa tại thành Vương xá này.
“Cũng vậy, Ma-tức-ca-lợi Cù-xá-lợi Tử, Sa-nhã
Bệ-la-trì Tử, Ni-kiền Thân Tử, Ba-phục Ca-chiên, A-di-đa Kê-xá
Kiếm-bà-lợi. Bạch Cù-đàm, A-di-đa Kê-xá Kiếm-bà-lợi là danh
đức Tông chủ, làm Thầy mọi người, có tiếng tăm lớn, mọi người
đều kính trọng, thống lãnh đồ chúng lớn, được năm trăm dị học
tôn trọng, cùng an cư mùa mưa ở thành Vương xá.
“Vừa rồi cùng bàn đến Sa-môn Cù-đàm rằng,
‘Sa-môn Cù-đàm này là bậc danh đức Tông chủ, làm Thầy mọi
người có tiếng tăm lớn, mọi người kính trọng, thống lĩnh đại
chúng Tỳ-kheo được một ngàn hai trăm người tôn trọng, cũng
cùng nhau an cư mùa mưa tại thành Vương xá này.
“Bạch Cù-đàm, chúng tôi lại nghĩ, ‘Nay trong
các Sa-môn, Phạm chí được tôn trọng này, ai là người được đệ
tử cung kính, cúng dường, không bị đệ tử đúng theo pháp mắng
nhiếc, cũng không bị đệ tử vấn nạn rằng ‘Điều này hoàn toàn
không thể có, không tương ưng, không chính đáng’. Nói rồi bỏ
đi?’
“Bạch Cù-đàm, chúng tôi lại nghĩ, Phất-lan
Ca-diếp này không được đệ tử hầu hạ, tôn trọng, cúng dường, bị
đệ tử dùng pháp mà mắng nhiếc, rất nhiều đệ tử nạn vấn rằng
‘Điều này hoàn toàn không thể được, không tương ưng, không
chính đáng’. Nói rồi bỏ đi.
“Bạch Cù-đàm, thuở xưa Phất-lan Ca-diếp đã có
lần ở trong chúng đệ tử giơ tay la lớn, ‘Các ông hãy dừng lại!
Không có ai đến hỏi các ông. Người ta hỏi tôi, các ông không
thể giải quyết việc này, nhưng ta có thể giải quyết được việc
này’. Nhưng các đệ tử ngay trong lúc đó lại bàn luận việc khác
nữa, không chờ ngươi nói xong vấn đề. Bạch Cù-đàm, chúng tôi
lại nghĩ, như vậy, Phất-lan Ca-diếp này không được đệ tử hầu
hạ, cung kính, tôn trọng, cúng dường. Bị đệ tử dùng pháp mạ lỵ
mắng nhiếc, rất nhiều đệ tử vấn nạn rằng: ‘Điều này hoàn toàn
không thể được, không tương ưng, không chính đáng’. Nói rồi
liền bỏ đi.
“Ma-tức-ca-lợi Cù-xá-lợi Tử, Sa-nhã Bệ-la-trì
Tử, Ni-kiền Thân Tử, Ba-phục Ca-chiên, A-di-đa Kê-xá
Kiếm-bà-lợi. Cũng vậy, bạch Cù-đàm, chúng tôi lại nghĩ,
‘A-di-đa Kê-xá Kiếm-bà-lợi này, không được đệ tử hầu hạ, cung
kính, tôn trọng, cúng dường, bị đệ tử dùng pháp mạ lỵ mắng
nhiếc, rất nhiều đệ tử vấn nạn rằng ‘Điều này hoàn toàn không
thể được, không tương ưng, không chính đáng’. Nói rồi bỏ đi.
“Bạch Cù-đàm, thuở xưa A-di-đa Kê-xá
Kiếm-bà-lợi đã có lần ở trong chúng đệ tử giơ tay la lớn rằng,
‘Các ông hãy dừng lại, không có ai đến hỏi các ông. Người ta
hỏi tôi, các ông không thể giải quyết được việc này’. Nhưng
các đệ tử ngay trong lúc đó, lại bàn luận việc khác không chờ
ngươi nói xong. Bạch Cù-đàm, chúng tôi lại nghĩ, như vậy,
A-di-đa Kê-xá Kiếm-bà-lợi, không được đệ tử hầu hạ, cung kính,
tôn trọng, cúng dường mà bị đệ tử dùng pháp mạ lỵ mắng nhiếc,
rất nhiều đệ tử vấn nạn rằng ‘Điều này hoàn toàn không thể
được, không tương ưng, không chính đáng’. Nói rồi bỏ đi.
“Bạch Cù-đàm, chúng tôi lại nghĩ, Sa-môn Cù-đàm
này được đệ tử hầu hạ, cung kính, tông trọng, cúng dường, cũng
không bị đệ tử vấn nạn rằng ‘Điều này hoàn toàn không thể
được, không tương ưng, không chính đáng’. Nói rồi bỏ đi.
“Bạch Cù-đàm, thuở xưa Sa-môn Cù-đàm đã có lần
nói pháp tại đại chúng, vô lượng trăm ngàn người vây quanh.
Ngay bấy giờ có một người ngủ mà ngáy. Lại có một người bảo
người kia rằng ‘Đừng có ngủ ngáy. Ông không muốn nghe Thế Tôn
nói pháp vi diệu như cam lồ sao?’ Người kia liền im lặng không
gây tiếng động nữa.
“Bạch Cù-đàm, chúng tôi lại nghĩ, như vậy
Sa-môn Cù-đàm được đệ tử hầu hạ cung kính, tôn trọng, cúng
dường, không bị đệ tử dùng pháp mạ lỵ mắng nhiếc, cũng không
bị đệ tử vấn nạn rằng ‘Điều đó hoàn toàn không thể được, không
tương ưng, không chính đáng’. Nói rồi liền bỏ đi.”
Thế Tôn nghe rồi liền hỏi Tiễn Mao rằng:
“Ưu-đà-di, ông thấy Ta có bao nhiêu pháp khiến
cho các đệ tử hầu hạ cung kính, tôn trọng và cúng dường,
thường theo Ta không rời?”
Dị học Tiễn Mao đáp rằng:
“Tôi thấy Cù-đàm có năm pháp khiến đệ tử hầu
hạ, cung kính, tôn trọng, cúng dường phụng sự, thường theo
không rời. Những gì là năm? Sa-môn Cù-đàm trí túc về thô y,
khen ngợi tri túc về thô y. Bởi vì Sa-môn Cù-đàm tri túc về
thô y, khen ngợi tri túc về vải thô, nên tôi thấy tri túc đó
là pháp thứ nhất mà Sa-môn Cù-đàm có thể khiến cho hàng đệ tử
phụng sự cung kính, tôn trọng cúng dường, thường theo không
rời.
“Lại nữa, Sa-môn Cù-đàm tri túc về ăn uống đạm
bạc, khen ngợi về tri túc đạm bạc. Bởi vì Sa-môn Cù-đàm tri
túc về ăn uống đạm bạc, khen ngợi về tri túc ăn uống đạm bạc,
nên tôi thấy Sa-môn Cù-đàm có pháp thứ hai khiến các đệ tử
cung kính, tôn trọng cúng dường, phụng sự thường theo không
rời.
“Lại nữa, Sa-môn Cù-đàm ăn ít, khen ngợi sự ăn
ít. Vì Sa-môn Cù-đàm ăn ít và khen ngợi sự ăn ít, nên tôi thấy
Sa-môn Cù-đàm có pháp thứ ba khiến các đệ tử cung kính tôn
trọng, cúng dường phụng sự, thường theo không rời.
“Lại nữa, Sa-môn Cù-đàm tri túc về chỗ nghỉ
ngơi và giường chõng thô sơ, khen ngợi tri túc về chỗ nghỉ
ngơi và giường chõng thô sơ. Vì Sa-môn Cù-đàm tri túc như vậy,
nên tôi thấy đó là pháp thứ tư mà Sa-môn Cù-đàm có thể khiến
các đệ tử cung kính, tôn trọng, cúng dường, thường theo không
rời.
“Lại nữa Sa-môn Cù-đàm tĩnh tọa và ngợi khen
tĩnh tọa.
[10] Vì vậy tôi thấy đó là pháp thứ năm mà Sa-môn
Cù-đàm có thể khiến các đệ tử cung kính, tôn trọng, cúng
dường, phụng hành thường theo không rời.
“Đó là năm pháp mà tôi thấy Sa-môn Cù-đàm có
thể khiến các đệ tử cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng
hành, thường theo không rời.”
Thế Tôn bảo rằng:
“Này Ưu-đà-di, Ta không phải do năm pháp ấy mà
khiến các đệ tử cung kính tôn trọng, cúng dường thừa sự,
thường theo không rời. Này Ưu-đà-di, áo ta mặc được cắt theo
con dao Thánh
[11] và nhuộm màu sắc xấu xa. Như vậy, y Thánh được
nhuộm màu sắc xấu xa. Ưu-đà-di! Nhưng đệ tử Ta cũng có người
trọn đời chỉ mặc áo phấn tảo do người ta bỏ, và cũng nói thế
này, ‘Thế Tôn ta tri túc về thô y’, khen ngợi sự tri túc về
thô y. Này Ưu-đà-di, nếu đệ tử ta nhận sự tri túc về thô y mà
khen ngợi Ta, thì người đó do sự kiện này đã không cung kính
tôn trọng, cúng dường phụng sự Ta, cũng không theo Ta.
“Lại nữa, này Ưu-đà-di, Ta ăn đồ ăn gạo nếp,
nấu chín và không có hạt xép, vô lượng tạp vị. Ưu-đà-di, nhưng
đệ tử Ta có người trọn đời khất thực, ăn đồ ăn đã bỏ, cũng lại
nói rằng, ‘Thế Tôn ta tri túc về thô thực’, khen ngợi tri túc
về thô thực. Ưu-đà-di, nếu đệ tử Ta nhân sự tri túc về ăn uống
thô sơ, mà khen ngợi Ta, người ấy nhân sự kiện này đã không
cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng sự Ta, cũng không theo
Ta.
“Lại nữa, Ưu-đà-di, Ta chỉ ăn bằng một trái cây
bệ-la
[12] hoặc bằng nửa bệ-la. Nhưng đệ tử của Ta có
người ăn bằng một câu-tha
[13], hoặc bằng nửa câu-tha, cũng nói như vầy, ‘Thế
Tôn ăn ít, khen ngợi sự ăn ít’. Nếu đệ tử Ta nhân sự ăn ít mà
khen ngợi Ta, người ấy do sự kiện này đã không cung kính, tôn
trọng, cúng dường, phụng sự và theo Ta.
“Lại nữa, Ưu-đà-di, Ta hoặc ở trên lầu cao,
hoặc trên nhà rạp. Ưu-đà-di, nhưng đệ tử của Ta có người trải
qua chín mười tháng, suốt đêm ngủ ngoài trời, cũng nói như
vầy, ‘Thế Tôn của Ta tri túc về chỗ nghỉ ngơi và giường chõng
thô sơ, khen ngợi tri túc về chỗ nghỉ ngơi và giường chõng thô
sơ’. Ưu-đà-di, nếu đệ tử Ta khen ngợi tri túc về chỗ nghỉ ngơi
và giường chõng thô sơ nên khen ngợi Ta, thì người ấy do sự
kiện này đã không cung kính, tôn trọng, cúng dường phụng sự Ta
và cũng không theo Ta.
“Lại nữa, Ưu-đà-di, Ta thường sống trong sự náo
nhiệt giữa Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Nhưng đệ
tử của Ta có người quá nửa tháng mới nhập chúng một lần vì
pháp thanh tịnh
[14] cũng nói như vầy, ‘Thế Tôn của Ta tĩnh tọa và
khen ngợi sự tĩnh tọa’. Ưu-đà-di, nếu đệ tử Ta nhân sự tĩnh
tọa mà khen ngợi Ta, vị ấy do sự kiện này đã không cung kính,
tôn trọng, cúng dường, phụng sự Ta, cũng không theo Ta.
“Ưu-đà-di, Ta không có năm pháp này, khiến hàng
đệ tử cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng sự, thường theo
không rời. Ưu-đà-di, Ta lại có năm pháp khác, khiến các đệ tử
cung kính, tôn trọng, cúng dường phụng sự, thường theo không
rời.
“Những gì là năm? Này Ưu-đà-di, Ta có đệ tử do
giới vô thượng,
[15] khen ngợi Ta rằng, ‘Thế Tôn có giới, đại giới,
lời nói đúng theo việc làm, việc làm đúng theo lời nói’.
Ưu-đà-di, nếu đệ tử Ta nhân giới vô thượng mà khen ngợi Ta thì
vị ấy nhân điều này mà cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng
sự thường theo Ta không rời.
“Lại nữa, này Ưu-đà-di, Ta có đệ tử, do vô
thượng trí tuệ,[16]
khen ngợi Ta, ‘Thế Tôn có trí tuệ, cực đại trí tuệ, nếu có ai
đến bàn luận hay đối đáp, Ngài đều khuất phục được. Nghĩa là
đối với Chánh pháp luật, họ không thể nói. Đối với điều chính
mình nói, họ cũng không thể nói’. Ưu-đà-di, nếu đệ tử nhân vô
thượng trí tuệ, mà khen ngợi Ta, vị ấy nhân sự kiện này mà
cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng sự Ta, theo Ta không
rời.
“Lại nữa, Ưu-đà-di, Ta có đệ tử do vô thượng
tri kiến,
[17] khen ngợi Ta rằng, ‘Thế Tôn biết khắp chứ
không phải không biết; thấy khắp chứ không phải không thấy.
Ngài nói pháp cho đệ tử có nhân chứ không phải không nhân, có
duyên chớ không phải không duyên, có thể đáp chứ không phải
không thể đáp, có xả ly chứ không phải không xả ly’. Ưu-đà-di,
nếu đệ tử Ta nhân vô thượng tri kiến mà khen ngợi Ta, người ấy
nhân sự kiện này mà cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng
sự, thường theo ta không rời.
“Lại nữa, Ưu-đà-di, Ta có đệ tử, do nhờm tởm
mũi tên ái dục mà đến hỏi Ta về khổ là khổ, tập là tập, diệt
là diệt, đạo là đạo. Ta liền trả lời về khổ là khổ, tập là
tập, diệt là diệt, đạo là đạo. Ưu-đà-di, nếu có đệ tử đến hỏi
Ta được trả lời xứng ý, khiến được hoan hỷ, người đó nhân sự
kiện này mà cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng sự Ta,
thường theo Ta không rời.
“Lại nữa, Ưu-đà-di, Ta vì các đệ tử hoặc nói
Túc mạng trí thông, tác chứng, hoặc nói Lậu tận trí thông tác
chứng minh đạt. Ưu-đà-di, nếu đệ tử Ta trong Chánh pháp luật
này được thọ được độ, được đến bờ bên kia, không nghi không
hoặc, ở trong thiện pháp không có do dự, người ấy nhân sự kiện
này mà cung kính, cúng dường, tôn trọng, phụng sự Ta, thường
theo ta không rời.
“Này Ưu-đà-di, Đó là năm pháp Ta có khiến cho
các đệ tử cung kính, tôn trọng, cúng dường, phụng sự Ta,
thường theo không rời.”
Bấy giờ Dị học Tiễn Mao, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy trịch vai áo mặt, chắp tay hướng về Phật bạch rằng: “Kỳ
diệu thay! Hy hữu thay! Ngài khéo nói những điều vi diệu thấm
nhuần thân thể con cũng như cam lồ. Bạch Cù-đàm, cũng như mưa
lớn, cõi đất này từ cao đến thấp thảy được thắm nhuần khắp cả.
Cũng vậy, Sa-môn Cù-đàm nói cho chúng tôi những điều vi diệu,
thấm nhuần thân thể chúng tôi cũng như cam lồ.
“Bạch Thế Tôn, tôi đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con
đã hiểu. Bạch Thế Tôn, hôm nay con tự quy Phật, Pháp và Chúng
Tỳ-kheo. Mong Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc, kể từ hôm nay
con trọn đời tự quy y cho đến mạng chung.”
Phật thuyết như vậy. Dị học Tiễn Mao sau khi
nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
-
[01] Bản
Hán, quyển 57. Tương đương Pāli, M.77.
Mahā-sakuludāyi-sutta.
-
[02] Khổng
tước lâm Dị học viên, khu vườn cho các du sĩ, rừng nuôi
công. Pāli: Moranivāpa paribbājakārāma.
-
[03] Tiễn
Mao. Pāli: Sakuudāyi, và kể thêm tên hai du sĩ khác:
Varadhara, Anugāra.
-
[04] Súc
sanh luận. Pāli: tiracchāna-kathā, luận bàn phiếm, vô ích.
Đoạn kế kể các đề tài được nói là súc sanh luận.
-
[05]
Ưu-đà-di, tức tên gọi lược của Tiễn Mao; xem cht.3 trên.
Pāli: Udāyi.
-
[06] Học
đường. Pāli: Kutūhalasāla, nghị luận đường; chỉ nơi xảy ra
cuộc thảo luận.
-
[07]
Ương-già Ma-kiệt-đà. Pāli: Aga-Magadhā, lúc này hai nước
đang liên minh chính trị nên gọi chung như vậy.
-
[08] Chúng
đại phước điền: những người là ruộng phước lớn, thường chỉ
chúng Tỳ-kheo, nhưng ở đây cũng chỉ cho nhóm ngoại đạo khác.
-
[09]
Phất-lan Ca-diếp, Pāli: Pūrāa-Kassapa và năm vị kế tiếp:
Makkhali-Gosāla. Sañjaya-Belahiputta, Nigaha-Nātaputta,
Pakudha-Kaccāyana, được mệnh danh là Lục sư ngoại đạo. Về
chủ trương của họ, xem kinh Sa-môn quả, No.1 (27) và D. 2.
-
[10] Yến
tọa, ngồi nghỉ ngơi chỗ thanh vắng.
-
[11] Để bản:
Thánh lực. Tống-Nguyên-Minh: Thánh đao.
-
[12] Bệ-la
thực. Pāli: veuvāhāra, thức ăn bằng trái cây veuva, một loại
dưa (tên khoa học Aegle marmelos).
-
[13] Câu-tha
thực, kosāhāra, một bát cơm.
-
[14] Pháp
thanh tịnh, đây chỉ Giới bổn Tỳ-kheo, Pāli:
Pātimokkhuddesāya, để tụng giới bổn Pātimokkha.
-
[15] Vô
thượng giới. Pāli: adhisīla, tăng thượng giới.
-
[16] Vô
thượng trí tuệ. Pāli: adhipaññā, tăng thượng tuệ.
-
[17] Vô
thượng tri kiến. Pāli: abhikkaantañāadassana, tri kiến siêu
việt.