|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
(Kinh Duy Ma Cật Giảng Luận)
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn -
USA
1991
- 03- PHẨM ÐỆ TỬ
-
-
Phẩm này khởi đầu phần quan trọng của
bộ Kinh Duy Ma Cật, ghi chép những lời đối đáp giữa Cư Sĩ Duy Ma
Cật và các đại đệ tử của Phật để hiển dương pháp môn Bất Nhị,
lìa Sự Tướng tương đối để nhập Lý Tánh tuyệt đối.
-
Ðệ là em, tử là con. Thầy coi trò như
em và cư xử đúng cách anh đối với em; trò thờ thầy như cha và
phụng sự thầy theo đúng cách con đối với cha. Riêng ở đây, hai
chữ đệ tử chỉ hàng Thanh Văn là những người đã xuất gia, sống
gần Phật và đi theo Phật nhiều nơi, được nghe Pháp, hiểu biết tu
hành, ngộ đạo chứng quả.
-
Xá Lợi Phất, phiên âm chữ Phạn
Sariputra, là đệ tử lớn của Phật, lúc đầu tu theo đạo Bà La Môn,
sau quy y với Phật, có trí tuệ cao, nghe Pháp rất mau hiểu giáo
lý nhiệm mầu nên được coi là người có trí tuệ bậc nhất trong
hàng đệ tử Thanh Văn của Phật.
-
Ðức Thế Tôn biết ông Duy Ma Cật có
bệnh liền bảo Ngài Xá Lợi Phất tới thăm. Ngài Xá Lợi Phất từ
chối vì trước đây trong lúc Ngài ngồi thiền bị ông Duy Ma Cật
chất vấn không trả lời được nên nay không dám đến thăm bệnh
ông.
-
Tọa thiền hoặc ngồi thiền là ngồi yên
lặng không cử động, tập trung tư tưởng vào một vấn đề, một câu
nói (thoại đầu), giữ thân miệng ý không cho buông lung rong
ruổi, tâm được an định, trí huệ phát sinh. Thông thường trong
bốn cách đi đứng ngồi nằm thì cách ngồi là thích hợp hơn hết cho
người tu thiền. Ði thì động loạn, đứng thì chóng mỏi mệt, nằm
thì dễ buồn ngủ, chỉ có ngồi thiền là hơn cả, ngồi lâu mau tùy
sức, mới tập thì chỉ ngồi 15 phút tới nửa giờ, người tu thuần
thục có thể ngồi nhiều giờ, có khi nhiều ngày mà không mệt không
đói, thân tâm lại khoan khoái hỷ lạc, gọi là Thiền Duyệt Thực.
-
Ở đoạn kinh này, ông Xá Lợi Phất cũng
ngồi thiền yên lặng. Cư Sĩ Duy Ma Cật lại nói: Bất tất phải ngồi
yên lặng mới là tọa thiền. Như vậy có mâu thuẫn không? Xá Lợi
Phất tuy có trí tuệ cao siêu, nhưng thuộc hàng Thanh Văn, mới
phá được ngã chấp, hãy còn pháp chấp, còn thấy có phương pháp để
tu, có quả vị để chứng, chấp phải ngồi thì tâm mới an, giác ngộ,
chứng quả A La Hán. Cư Sĩ Duy Ma Cật dạy phải phá trừ pháp chấp,
bỏ Sự theo Lý. Những lời nói của ông là đứng về Chân Lý Thể Tánh
tuyệt đối mà luận, còn ông Xá Lợi Phất đứng về Sự Tướng tương
đối mà hành, không có mâu thuẫn giữa hai ông hoặc giữa hai lối
tu thiền, mà chỉ có sai khác giữa Sự và Lý, Tướng và Tánh.
-
Ðừng chấp cứ phải ngồi mới là tu
thiền, mà đi đứng ngồi nằm đều là thiền, lúc nào cũng thiền, ở
đâu cũng thiền, trong lúc ăn cơm mặc áo nói chuyện cũng thiền.
Chẳng cần phải ngồi yên lặng không nói năng mà chỉ cần làm chủ
được tâm mình, giữ tâm an nhiên tự tại, không để vọng thức khách
trần chi phối, sai khiến điên đảo. Mầm luân hồi trong ba cõi sáu
đường là tham sân si. Giữ tâm không bị tham sân si chi phối mới
là tu thiền, tu tâm cần hơn tu thân, tâm an thì thân miệng ý an
theo. Vậy đi đứng nằm cũng thiền được, không nhất thiết cứ phải
ngồi. Người tu thiền vẫn làm mọi việc ở đời, tùy thuận đởi sống
hoàn cảnh mà tâm không dao động, gặp cảnh thuận nghịch không đắm
nhiễm hoặc chán nản, không chấp tướng lệch lạc, không cầu Niết
Bàn, không sợ phiền não, lúc nào cũng giữ tâm thanh tịnh là đủ
rồi. Gặp duyên lành cảnh thuận cũng tu, gặp khó khăn nghịch cảnh
cũng tu, ở đâu cũng tu, ở nhà cũng tu, ở chợ cũng tu, ở chùa
cũng tu, tại gia cũng tu mà xuất gia cũng tu. Không cứ buổi sáng
hoặc ban đêm mới thiền mà suốt ngày đêm lúc nào cũng thiền, làm
mọi việc mà không để tham sân si sai khiến, tâm an định là
thiền.
-
Ở trong ba cõi mà không hiện thân ý.
Tại sao không nói thân miệng ý cho đủ ? Vì người ngồi thiền giữ
yên lặng không nói năng, chăm chú quán sát hơi thở, cái miệng đã
yên rồi, chỉ cần giữ thêm thân và ý. Chữ hiện ở đây có nghĩa là
kiến (chữ Hán hiện và kiến viết giống nhau), là thấy, là nhớ
đến, là chú ý. Không hiện thân ý là đừng thấy, đừng nhớ, đừng
chú ý tới thân và ý, quên mình để diệt bệnh chấp ngã, đừng cho
các ý tưởng chạy lăng xăng. Tuy vẫn sống như mọi người nhưng
người tu thiền trụ tâm vào một chỗ, lúc nào đi tu chỉ biết đi,
lúc nào đứng thì đứng, ăn cơm mặc áo thì chú ý vào việc ăn cơm
mặc áo, giữ gìn tâm ý không cho nghĩ đến việc khác, lúc nào niệm
Phật là chỉ niệm Phật, lúc nào ngủ là ngủ, Tâm an nhiên tự tại,
không cần cố gắng mà vần giữ oai nghi tác phong đàng hoàng, cử
chỉ đĩnh đạc mà chẳng cần lưu ý vì đã được rèn luyện quá thuần
thục rồi. Không hiện thân ý trong ba cõi còn có nghĩa ẩn là
không tạo nghiệp luân hồi trong ba cõi, mọi hành động của thân
và ý đều hướng về giải thoát.
-
Diệt Tận Ðịnh, dịch nghĩa chữ Phạn
Nirodha Samapatti, cũng gọi là Diệt Thọ Tưởng Ðịnh, là phương
pháp tu Ðịnh để diệt hết hai ấm Thọ và Tưởng, không còn cảm xúc
và tư tưởng, ngồi yên lặng không cử động giống như thân cây chết
khô, chim làm tổ trên đầu, rễ cây mọc trùm lên thân. Ông Duy Ma
Cật muốn phá cái thiên chấp đó nên dạy không cần khởi Diệt Tận
Ðịnh mà cứ đi đứng ngồi nằm như người thường, mọi cảm xúc và tư
tưởng không còn khởi vọng, các thói hư tật xấu đã chịu tiềm
phục, mình làm chủ thân tâm, không chạy theo ngoại cảnh, chẳng
ham hưởng thọ ngũ dục lạc, được như vậy mới là tu thiền. Ðây
cũng là lối phá cháp, đừng thấy có Thọ và Tưởng phải diệt, đừng
chấp có Ðịnh phải chứng, cứ thản nhiên mà hoạt động, tự tại
không bị nhiễm ô, đó là Trung Ðạo, là pháp môn Bất Nhị.
-
Những câu tiếp theo: Không rời đạo
pháp mà hiện các việc phàm phu, tâm không trụ trong cũng không ở
ngoài, đối với các kiến chấp không động mà tu 37 phẩm trợ đạo,
không đoạn phiền não mà vào Niết Bàn... đều cùng một ý như trên,
nghĩa là người tu thiền phải lìa hai bên mà vào Trung Ðạo, không
bỏ thế gian mà được giác ngộ, đời Ðạo không hai, lìa các kiến
chấp mà vẫn tu hành, không chấp có phiền não phải đoạn, có Niết
Bàn phải chứng mà nên tìm Niết Bàn trong phiền não; trong Kinh
có dạy: phiền não tức Bồ Ðề, sinh tử tức Niết Bàn, không cần lìa
tránh mà chỉ cần chuyển tâm, tâm tịnh thì quốc độ tịnh. Cứ an
nhiên tự tại mà tu hành, tâm định trí huệ chiếu rọi, phiền não
tự đoạn, Niết Bàn tự đến.
-
Ông Xá Lợi Phất tu theo Sự Tướng, bị
Cư Sĩ Duy Ma Cật đem Lý Tánh ra vặn hỏi, nên không trả lời được.
Ðó là ý Kinh muốn diễn tả trí huệ của hàng Thanh Văn, dù là đệ
nhất Thanh Văn, cũng không bì kịp trí huệ của Bồ Tát. Thanh Văn
còn kẹt trong vòng tương đối, còn chấp có bên này bên kia, có
phiền não phải diệt, có pháp môn cần tu, có quả vị để chứng,
chưa lìa hai bên, chưa đạt tới Lý Tánh tuyệt đối. Vì những lý do
đó mà ông Xá Lợi Phất không kham đi thăm bệnh Cư Sĩ Duy Ma Cật.
-
Ðức Phật bảo ông Mục Kiền Liên đi
thăm bệnh, ông này cũng từ chối vì trước kia ông thường nói pháp
cho các hàng cư sĩ nghe, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến bảo rằng nói
pháp như thế là không đúng, nói pháp phải đúng như pháp (xứng
Tánh mà nói), Pháp Tướng như thế đâu có thể nói ư? Cư Sĩ Duy Ma
Cật có biện tài như vậy nên ông Mục Kiền Liên không dám đi thăm
bệnh.
-
Ðại Mục Kiền Liên, phiên âm chữ Phạn
Maha Moggalyana, trước tu theo Bà La Môn giáo cùng với ông Xá
Lợí Phất, sau đó được nghe bài kệ Nhân Duyên của Phật dạy, cả
hai ông liền tới xin quy y, tinh tấn tu hành, ông Xá Lợi Phất
được trí huệ bậc nhất, ông Mục Kiền Liên được thần thông bậc
nhất trong các hàng Thanh Văn.
-
Ðại Mục Kiền Liên hằng ngày vào thành
khất thực đồng thời nói pháp cho các cư sĩ nghe. Ông học được
giáo lý của Phật rồi cứ theo đó mà nói lại cho mọi người nghe.
Thế mà Cư Sĩ Duy Ma Cật lại bảo: không phải như ông nói đó. Vậy
ông Mục Kiền Liên nói sai chăng? Ông Mục Kiền Liên lập lại những
lời Phật dạy, dùng lời nói mà thức tỉnh chúng sinh, nhưng đó chỉ
là những phương tiện tương đối để đưa đến Chân Lý chứ không phải
là Chân Lý tuyệt đối. Chữ PHÁP mà trưởng giả Duy Ma Cật muốn nói
phải được viết bằng chữ in hoa, đó là Chân Lý tuyệt đối, là Phật
Tri Kiến, là Phật Tánh Chân Tâm, là Bản Thể Chân Như, là Bản Lai
Diện Mục, là KHÔNG... Nếu hiểu theo nghĩa này thì Pháp lìa ngôn
ngữ văn tự tâm duyên không thể nói được, không phải như ông Mục
Klên Liên nói ra, không phải những Kinh sách chúng ta thường
đọc.
-
Nói pháp phải đúng như pháp, đúng với
Chân Lý, xứng tánh mà nói, nghĩa là Pháp như thế nào thì nói y
như thế (Như Thị), đừng để tâm so sánh thêm bớt, xứng tánh là
đúng với bản tánh chân thật (Phật Tánh) sẵn có nơi mọi loài
chúng sinh, nói pháp một cách tự nhiên vô ngại, vô phân biệt coi
đó là bổn phận phải làm, không vì danh lợi hoặc lời khen, hoặc
phẩm vật cúng dường, ví như mặt trời ban ánh sáng không phân
biệt quốc gia chủng tộc. Trong nghi thức tụng niệm có câu: Xứng
tánh tác Phật sự là theo nghĩa đó.
-
Kinh sách thường dạy: Pháp Nhĩ Như
Thị (Dharmata), nghĩa là Chân Lý lúc nào cũng như vậy, không
thay đổi theo thời gian và không gian, không đối đãi so sánh, vì
là Tuyệt Ðối rồi.
-
Mọi chúng sinh đều có Phật Tánh, muốn
chúng sinh nghe pháp cho có lợi lạc thì phải nói đúng với Chân
Lý, hợp với Phật Tánh, đó là đứng về Tánh mà luận. Nếu đứng về
Tánh thì không còn có bốn tướng: Ngã, nhân, chúng sinh, thọ
mạng. Pháp là Bản Thể tuyệt đối thì làm gì có ta có người, có
chúng sinh, có thọ mạng. Không có ta có người có chúng sinh có
thọ mạng thì làm gì còn sinh tử luân hồi, làm gì còn làn trước
làn sau. Cứ dựa theo cái lý Pháp là Bản Thể tuyệt đối thì tất cả
các câu sau đều hiểu được dễ dàng: Pháp thường vắng lặng, bặt
hết các tướng... cho đến câu pháp lìa tất cả quán hạnh.
-
Thưa Ngài Ðại Mục Kiền Liên, Pháp
Tướng như thế đâu có thể nói được. Pháp Tướng đây là Thật Tướng,
Vô Tướng, Phi Tướng, như Kinh Kim Cang có câu: Phàm sở hữu tướng
giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng Phi Tướng tức kiến Như
Lai, nghĩa là mọi vật có hình tướng đều là giả huyễn, nếu thấy
được cái Phi Tướng (Tướng Không) của mọi sự mọi vật thì thấy
được Chân Lý. Ðã là Không, là Tuyệt Ðối thì sao có thể dùng lời
nói mà diễn tả được.
-
Người nói pháp không nói không dạy,
còn người nghe cũng không nghe không được, câu này tổng kết tóm
lược tất cả ý đoạn kinh vừa học. Nếu đứng về Bản Tánh mà nói thì
Chân Lý không sao diễn tả bằng lời nói được, nói mà không nói,
dạy mà không dạy, nghe mà không nghe, được mà không được. Hơn
nữa, chẳng có người nói, chằng có người nghe, chẳng thấy pháp
được nói, được nghe (tam luân không tịch), đúng như lời Phật
nói: “Trong 49 năm, ta chưa hề nói lời nào.” Kinh Kim Cang có
câu: Nếu nói rằng Như Lai có thuyết pháp thì người ấy khinh báng
Phật. Như Lai nói thuyết pháp, không có pháp gì có thể nói, ấy
gọi là thuyết pháp.
-
Nhưng e chúng sinh không hiểu, rồi bỏ
không nói, không dạy, không nghe, không học, không tu, nên Kinh
dạy tiếp: ví như nhà huyễn thuật nói pháp cho người huyễn hóa
nghe, phải dụng tâm như thế mà nói pháp. Ở thế gian thì phải
dùng phương tiện để đạt cứu cánh, dùng lời nói để thuyết giảng
cho mọi người thấu hiểu Chân Lý, phải tu hành để chứng ngộ đạt
đạo giải thoát. Tuy biết là huyễn nhưng lấy huyễn, dùng huyễn để
tới Chân Lý (dĩ huyễn độ chân), đạp gai lấy gai mà nhổ, biết mọi
pháp ở thế gian đều là giả huyễn, nhưng vẫn nói, vẫn dạy, vẫn độ
chúng sinh: đó là dùng huyễn pháp, độ huyễn nhân, đắc huyễn quả,
nương cái giả để tới cái thật, lìa sự tướng nhập Pháp Tánh. Bồ
Tát biết tất cả là giả mà vẫn làm, vì khi biết giả là cái chân
thật tự nhiên hiện ra, phải tìm cái Chân nơi cái giả, lìa giả
không tìm được Chân, lìa sóng không tìm ra nước, phải hiểu biết
và dụng tâm như thế mà nói pháp.
-
Phải biết căn cơ của chúng sinh có
lợi độn... cho đến câu như vậy mới nên nói pháp: đây là phần
thực hành. Sau khi nắm vững lý thuyết, bước sang phần thực hành,
trở về đời sống thế gian thì việc nói pháp làm lợi ích chúng
sinh cần phải hợp căn cơ chúng sinh: căn tánh chúng sinh có lợi
độn, hoàn cảnh có thuận nghịch, người nói pháp phải tùy thuận
chúng sinh và hoàn cảnh, lúc nói lý nói sự, lúc nói cao nói
thấp, lúc dùng phương tiện ẩn dụ, lúc nói thẳng Phật Thừa, chúng
sinh nhiều bệnh thì pháp dược nhiều phương, tùy bệnh cho thuốc,
thì chúng sinh mới tuân phục, vui vẻ mà nghe theo. Thí dụ: nói
pháp cho người xuất gia và tại gia phải khác nhau. Nói với người
xuất gia phải dạy đời là khổ cần chán lìa, bỏ gia đình vào chùa
tu, rời bổn phận xã hội (kiếm tiền, đóng thuế, đi lính...), nhớ
ơn Phật, ơn Thầy, ơn cha mẹ, ơn thí chủ, quyết chí tu hành để
làm phước điền cho mọi người. Còn nói với người tại gia thì cũng
dạy đời là khổ nhưng biết khổ để tu tâm dưỡng tánh, không lìa bỏ
gia đình xã hội mà vẫn tự tu tự học, hành Bồ Tát Ðạo, tự lợi tự
tha, cúng dường Tam Bảo để hưởng phước báo mà không bỏ lòng cầu
Vô Thượng Bồ Ðề, tu Lục Ðộ, phá mọi chấp trước, hiểu luật vô
thường, lý vô ngã, tuy sống ở thế gian mà vẫn hướng về quả vị
giải thoát.
-
Người nói pháp phải nắm vững lý pháp
Không, pháp chỉ là phương tiện dùng xong rồi bỏ, như qua sông bỏ
bè, thì không bị pháp làm trở ngại.
-
Lấy tâm đại bi khen ngợi pháp Ðại
Thừa, nghĩa là nói pháp vì lòng đại bi thương xót chúng sinh,
muốn thức tỉnh chúng sinh quay về bờ giác, tu tới khi thành Phật
chứ không ích kỉ mong giải thoát riêng mình, dùng cỗ xe lớn để
đưa tất cả chúng sinh tới chỗ giác ngộ hoàn toàn, chứ không dừng
bước nửa đường hoặc quay trở lại.
-
Nghĩ nhớ đền trả ơn Phật. Phật làm ơn
không cầu báo, nhưng các đệ tử Phật có bổn phận nghĩ nhớ đền trả
ơn Phật, mà Ðức Thế Tôn không còn ở thế gian thì trả ơn cách
nào? Xây chùa, tạo tượng, in kinh, cúng hoa quả, thắp hương nến,
cúng tiền... chỉ là hình thức bề ngoài. Muốn đền trả ơn Phật một
cách đúng đắn nhất là y theo lời Phật dạy, tinh tấn tu hành để
giác ngộ và giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh. Cứu độ
chúng sinh tức là cúng dường mười phương chư Phật.
-
Chớ để ngôi Tam Bảo dứt mất. Tam Bảo
là Ba Ngôi Báu Phật Pháp Tăng. Ðứng về Sự thì Phật là Ðức Thích
Ca, Pháp là những lời Phật dạy, những kinh sách phương pháp tu
hành, Tăng là những đệ tử Phật xuất gia tu hành giữ gìn đầy đủ
giới luật, tuân theo Lục Hòa, thay mặt Phật ở thế gian để hướng
dẫn mọi người tu học. Ðứng về Lý thì Phật là sự giác ngộ giải
thoát hoàn toàn, Pháp là sự từ bi hỷ xả, Tăng là sự hòa hợp,
thanh tịnh, nhu nhuyễn. Tất cả đức tánh này đều đầy đủ nơi Phật
cũng như nơi chúng sinh, không hơn không kém.
-
Sau các khóa lễ tụng kinh có phần tam
tự quy y, chúng ta trở về nương tựa với ba ngôi quý báu sẵn có
bên trong chúng ta. Tự quy y Phật là tự mình trở về nương tựa
với Phật Tánh, với sự giác ngộ giải thoát sẵn có của mình; tự
quy y Pháp là tự mình trở về nương tựa với sự từ bi hỷ xả sẵn có
đầy đủ trong tâm mình; tự quy y Tăng là tự mình trở về nương tựa
với các đức tánh hòa hợp, thanh tịnh, nhu nhuyễn sẵn có nơi
mình.
-
Theo nghĩa đen, chớ để ngôi Tam Bảo
dứt mất là đừng để cho tượng Phật, chùa chiền, kinh sách và chư
Tăng không còn hiện diện ở thế gian. Nhưng hiểu theo nghĩa bóng
là đừng để cho sự giác ngộ, giải thoát, từ bi hỷ xả, thanh tịnh
hòa hợp nhu nhuyễn phải biến mất trong tâm chúng ta, đừng để vô
minh che lấp Phật Tánh. Chúng sinh phải nối tiếp nhau tu hành để
ngọn đèn Phật, đèn Tâm chiếu sáng lưu truyền vô cùng vô tận.
-
Trưởng giả Duy Ma Cật kết luận: được
như vậy mới nên nói pháp, làm được đầy đủ các điều kể trên thì
mới đúng như Pháp: đúng với Chân Lý.
-
Khi ông Duy Ma Cật nói xong, tám trăm
cư sĩ phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tại sao chỉ có
cư sĩ tại gia phát tâm mà không thấy các đệ tử xuất gia phát tâm
? Kinh Duy Ma Cật nhằm vào hàng cư sĩ tại gia, khuyến khích họ
hành Bồ Tát Ðạo chỉ cần chuyên tâm, tu đâu cũng được. Khi thấy
ông Duy Ma Cật có biện tài khiến hai đệ tử xuất gia hạng nhất
của Phật là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên phải chịu phục không
đối đáp được, tám trăm cư sĩ thích thú phát tâm tu theo ông Duy
Ma Cật cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðoạn kinh này không
nói đến hàng xuất gia vì có lẽ các Ngài khi xuất gia đã phát tâm
cầu vô thượng Bồ Ðề rồi nên không cần lập lại.
-
Ðức Phật bảo ông Ðại Ca Diếp đi thăm
bệnh, ông cũng từ chối vì nhớ lại trước kia khi khất thực trong
xóm nhà nghèo, ông đã bị trưởng giả Duy Ma Cật trách rằng có
lòng từ bi mà không phổ cập, bỏ nhà giàu mà chỉ đến nhà nghèo.
-
Ðại Ca Diếp, dịch nghĩa là Ẩm Quang,
khi sinh ra đời thân có hào quang sáng chói trùm hết các ánh
sáng khác. Ông theo đạo Bà La Môn thờ thần lửa, sau gặp Phật
được giáo hóa, ông xin làm đệ tử, có đức hạnh cao, tu hạnh Ðầu
Ðà khổ hạnh bực nhất, chỉ đi khất thực nhà nghèo vì ông nghĩ
rằng vì họ thiếu phước nên bị nghèo thiếu, nay đến khất thực để
họ có dịp bố thí, sau sẽ được phước lành giàu có sung sướng. Sau
này, ở Hội Linh Sơn khi Ðức Thế Tôn giơ cành hoa sen, không ai
hiểu gì cả, chỉ có ông Ca Diếp mỉm cười, tâm ông cảm thông với
tâm Phật, được Phật phó chúc làm Tổ thứ nhất Thiền Tông.
-
Trưởng giả Duy Ma Cật bảo ông Ca Diếp
rằng: bỏ nhà giàu mà chỉ khất thực nhà nghèo là có lòng từ bi mà
không phổ cập, phải trụ pháp bình đẳng mà đi khất thực theo thứ
lớp, lần lượt nhà nào cũng đến: không phân biệt giàu nghèo, nếu
phân biệt giàu nghèo là còn chấp tướng, còn thấy nhị biên, so
sánh đối đãi, như vậy là vọng, chưa phải Chân. Ði khất thực theo
thứ lớp đề tùy duyên hóa độ làm phước điền cho mọi người, không
phân biệt thì tâm được an nhiên tự lại bình đẳng nhất như.
-
Người tu theo khổ hạnh Ðầu Ðà phải đi
khất thực, mặc áo phấn tảo lấy các mụn rẻ rách kết lại, ngủ dưới
gốc cây mà không được ưa gốc cây nào cả, không được ngủ quá ba
đêm dưới một gốc cây, không giữ tiền, không giữ thuốc men nhiều,
đủ lượng dùng trong ba ngày thôi.
-
Có người phê bình khất thực đi xin ăn
là lười biếng, là ăn bám... nhưng theo phong tục Ấn Ðộ thuở xưa,
các người tu hành không giữ tiền bạc, không mua bán, không nấu
ăn mà đi khất thực tới từng nhà để dân chúng có cơ hội bố thí
cầu phước, nhân dịp đó chư Tăng nói Pháp khuyên dạy mọi người tu
hành. Khất thực lại là phương pháp phá trừ ngã chấp kiêu căng,
diệt tận gốc lòng tự ái kiêu mạn, vừa tự độ vừa độ tha, lợi mình
lợi người, chư Tăng khỏi mất thời giờ mua bán nấu nướng thức ăn,
dành nhiều thời giờ vào việc học hỏi tu thiền, lại có duyên tới
gặp gỡ nhiều người để nói Pháp cho họ nghe, còn người cúng dường
thực phẩm thì thực hành bố thí hưởng phước lành, lại được nghe
những lời dạy bảo chân chánh, mở mang trí huệ. Như vậy rõ ràng
là vì lòng từ bi, vì phương tiện tu hành, vì lợi ích chúng sinh,
hai hên cùng lợi lạc, mà chư Tăng đi khất thực chứ không phải
lười biếng hoặc ăn bám xã hội.
-
Chư Tăng có người không phân biệt
thức ăn chay mặn, ai dâng gì là nhận ăn, có người chỉ ăn chay
không nhận đồ mặn, nếu ai không biết cứ cúng mặn thì Ngài lấy
tay che bát không nhận. Sau khi nhận thực phẩm, chư Tăng có bổn
phận chú nguyện cho thí chủ được tăng trưởng phước huệ, thân tâm
an lạc, rồi tùy Duyên nói Pháp, dạy Ðạo. Khi thấy đủ thức ăn rồi
thì chư Tăng đậy bát lại, trở về Chùa hoặc ngồi dưới gốc cây,
trộn lộn các thức ăn với nhau để không còn phân biệt món này món
khác, món ngon món dở: không phân biệt mùi vị gì rồi mới ăn. Ðó
là lối phá chấp, không còn luyến ái mùi vị thơm ngon, mà chỉ cần
ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Trong khi ăn phải quán tam
đề, tứ ân, ngũ quán, phát nguyện làm lành lánh dữ cứu độ chúng
sinh, tu hành chân chánh thì cơm mới tiêu. Sau khi ăn xong, chư
Tăng có suốt cả buổi chiều để dự các buổi thuyết Pháp, quán
niệm, tu thiền, niệm Phật...
-
Việc đi khất thực có nhiều lợi ích
như vậy nên Ðức Phật và các đệ tử điều thực hành, lưu truyền
nhiều thế kỷ. Khi lần đầu tiên về hóa độ Vua cha Tịnh Phạn, nhà
vua đặt tiệc khoản đãi trong cung nhưng Ðức Phật và các đệ tử
vẫn đi khất thực. Vua giận trách, Đức Thế Tôn giảng cho nghe và
bảo lần sau nhà Vua phải thỉnh Phật và chư Tăng trước thì mới
tới độ Ngọ. Vì Vua quên không thỉnh trước nên Phật và chư Tăng
vẫn phải đi khất thực, ngọ trai xong mới tới hoàng cung thuyết
pháp.
-
Hiện nay, tại các nước Phật Giáo Nam
Tông như Thái Lan, Tích Lan, Miến Ðiện, Lào, Miên... chư Tăng
vẫn đi khất thực, còn ở các nước theo Phật Giáo Bắc Tông như
Việt Nam, Trung Hoa, Cao Ly, Nhật Bản... chỉ còn một số rất ít
chư Tăng đi khất thực, phần đông đều tu hành trong chùa, tứ sự
cúng dường đều do các cư sĩ phụng hiến, như thế là tiến bộ hay
thoái hóa, tùy quý vị suy xét.
-
Vì không ăn mà đi khất thực. Mới đọc
qua tưởng là mâu thuẩn, vì có cần ăn mới đi khất thực, nếu không
ăn thì việc gì phải khất thực. Ở đây, không ăn có nghĩa là không
chú ý đến miếng ăn, không vì miếng ăn, chẳng cần ăn ngon, không
phân biệt ngon dở, miễn là ăn để sống để nuôi xác thân ngõ hầu
có sức khỏe tiến tu đạo hạnh đến nơi giải thoát ra khỏi sinh tử
luân hồi. Không ăn còn có nghĩa là không phải vì lòng mong cầu
miếng ăn mà chỉ để phá trừ ngã chấp, làm phước điền cho chúng
sinh, gần gụi chúng sinh để hóa độ mà thôi. Hơn nữa, đứng về Thể
Tánh thì không có ta có người, không có thức ăn bố thí, không có
việc cúng dường, không có ăn, nhưng đứng về Sự Tướng thì vẫn có
ăn, có đi khất thực.
-
Vì phá tướng hòa hiệp mà bốc cơm ăn.
Chẳng cần hòa hiệp thức ăn này với thức ăn kia để tạo thành một
món ăn ngon. Thí dụ: Người thường ăn rau muống chấm nước tương
ớt, đậu phụ chiên sả ướp chao... mới thấy ngon. Chư Tăng phá
chấp ăn ngon, phá tướng hòa hiệp nên cứ trộn lẩn tất cả thức ăn
với nhau rồi dùng tay bốc ăn. Cũng có nghĩa là món ăn do duyên
hợp mà có, chúng giả có, không thật, đủ duyên hòa hiệp thì
thành, hết duyên thì hoại, không đáng quý trọng.
-
Vì không nhận mà nhận món ăn của
người. Ðứng về Tánh thì không có gì nhận cả, không có người cho,
không có kẻ nhận, không có của cho, nhưng về Sự thì có nhận món
ăn của người. Trong tâm thì không thấy có nhận, bề ngoài thì vẫn
nhận món ăn để làm phước điền cho thí chủ. Không nhận còn có
nghĩa cao hơn là không lãnh thọ những cảm xúc do trần cảnh bên
ngoài tạo ra, không xúc cảnh sinh tình, không để ngoại cảnh chi
phối, mà mình tự chủ trước những cám dỗ của ngoại cảnh, không
thấv thức ăn ngon mà vui, thức ăn dở mà buồn, ai cúng gì cũng
vui vẻ mà nhận. Chư Tăng nhặn thức ăn phải coi là nợ thí chủ,
phải phát nguyện tu hành chân chánh, đem pháp thí đền bù trả nợ,
thật là một mối lo cho chư Tăng mang nợ phải lo trả.
-
Vì tưởng không-tụ mà vào làng xóm.
Không-tụ là nơi đồng trống vắng vẻ. Ði khất thực vào làng xóm
đông người mà tưởng là đồng trống, ý nói không chấp có ta có
người. Không-tụ còn có nghĩa là nơi vắng vẻ nguy hiểm phải đề
phòng họn giặc cướp đe dọa, giặc cướp đây chính là những nội ma
ngoạí chướng: tham sân si, ái dục, phiền não lúc nào cung lăm le
cám dỗ phá hoại công phu tu hành. Ði vào đời để độ đời chứ đừng
để đời lôi cuốn nhận chìm.
-
Từ câu: có thấy sắc cũng như người
đui... đến câu ăn như thế là ăn đồ cúng thí của người không uổng
vậy. Ðoạn này muốn dạy người tu hành phải lìa lục trần (sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp), thấy là thấy, nghe là nghe...
nhưng tâm không phân biệt, không chấp trước, không luyến theo
cảnh trần, không ưa ghét tham đắm. Trong kinh có câu: diệt lục
căn, lìa lục trần... chắng có nghĩa là đâm mù mắt, chọc thủng
tai, cắt đứt lưỡi... mà chỉ cần giữ tâm vô phân biệt, ví như
người gỗ ngắm chim hoa, mình làm chủ tâm mình, không để ngoại
cảnh làm lay động. Biết rõ sáu căn tiếp xúc với sáu trần làm
phát sinh sáu thức, đó là duyên hợp giả có, là vô thường vô ngã.
Năm thức trước cứ việc khởi tự tánh phân biệt, nhưng thức thứ
sáu là ý thức không dính theo, không phân biệt, không so sánh,
không khởi vọng thì không còn phiền não nhiễm ô.
-
Bát tà là ngược lại với Bát Chánh
Ðạo. Bát giải thoát cũng gọi là Bát Bội Xả là tám pháp thiền
định có công năng xa lìa tất cả phiền não, thoát khỏi những
triền phược buộc trói trong ba cõi. Ðứng về Chân Lý tuyệt đối
thì lìa nhị biên nhập Trung Ðạo, không còn phân biệt tà chánh,
mà còn phải dùng tướng tà mà vào chánh pháp, nghĩa là tìm thấy
Chánh Pháp ở mọi tướng tà, tìm thấy Bồ Ðề ở nơi phiền não, tìm
thấy giải thoát ở chốn trầm luân, tìm thấy nước trong ở nơi nước
đục, tìm thấy nước lặng ở nơi sóng lớn, tìm thấy Tánh Phật ở mọi
chúng sinh, hoa sen hút các chất liệu trong bùn hôi tanh để tạo
ra hương thơm thanh khiết.
-
Dùng một bữa ăn mà thí cho tất cả, ăn
như thế không phải có phiền não không phải rời phiền não; đó
chính là lìa nhị biên nhiều ít, không chấp hai bên phiền não và
rời phiền não, mà chỉ thấy tất cả là một, phiền não tức Bồ Ðề,
sinh tử tức Niết Bàn, sóng tức là nước, chúng sinh tức là Phật,
bố thí cho chúng sinh tức là cúng dường mười phương chư Phật.
-
Ðó chính là vào Phật đạo, không nương
theo hạnh Thanh Văn. Phật đạo là Phật Thừa, là Nhất Thừa Trung
Ðạo, là Chân Lý. Thanh Văn, dịch nghĩa chữ Phạn Sravaka, là hàng
đệ tử được nghe lời Phật dạy, tu theo pháp Tứ Ðế, đoạn Kiến Hoặc
và Tư Hoặc, chứng Bồn quả Thánh Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm,
A La Hán, thoát vòng sinh tử luân hồi. Thanh Văn mới phá được
ngã chấp nhưng chưa đoạn hết Pháp chấp, còn thấy có pháp môn tu,
có quả vị chứng, chưa được rốt ráo giải thoát.
-
Bích Chi Phật, dịch nghĩa chữ Phạn
Prateyka, có hai hạng:
-
1) Ðộc Giác: ra đời không gặp Phật,
không được nghe pháp, nhưng nhờ đã tu căn lành đời trước, thấy
cảnh hợp tan biến dịch, lá rụng hoa rơi, ngộ lý vô thường, phát
tâm tu tập các pháp quán, chứng quả vô sinh, ra khỏi vòng luân
hồi. Ðộc Giác là nhờ độc lực của mình mà được giác ngộ, không
nhờ bậc thầy nào chỉ dẫn cả.
-
2) Duyên Giác: ra đời gặp Phật, được
nghe Chánh Pháp, tu pháp quán 12 nhân duyên, chứng quả vô sinh.
-
Hai hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật
(còn được gọi là hàng Nhị Thừa) phải tiến tu Bồ Tát Ðạo, làm mọi
việc lợi tha, tới chỗ giác ngộ hoàn toàn thành Phật. Có một số
các vị Thanh Văn và Bích Chi Phật thấy đời nhiều khổ đau phiền
não, dân chúng phần nhiều lười biếng cứng đầu khó dạy, nên các
vị sợ khó nhọc, sợ nhiễm ô, không dám vào đời cứu độ chúng sinh,
mà vội hưởng Niết Bàn riêng mình, trầm không thú tịch, bị Phật
quở là mầm thối, giống nát, không còn lợi ích cho ai cả. Trưởng
giả Duy Ma Cật cũng đề cao Phật Ðạo và chê trách hạnh Thanh Văn
và Bích Chi Phật.
-
Sau khi được nghe Bồ Tát Duy Ma Cật
dạy bảo, ông Thanh Văn Đại Ca Diếp phát tâm cung kính một cách
sâu xa, không phải chỉ riêng ông Duy Ma Cật mà tất cả các vị Bồ
Tát, vì ông đã hiểu rõ công hạnh vị tha của chư Bồ Tát. Trong
việc tu hành, cung kính là một hạnh tốt cần làm vì kinh sách có
câu: Thêm một phần cung kính là bớt một phần tội nghiệp. Câu này
cũng có nghĩa là từ nay ông Ðại Ca Diếp sẽ tu theo Bồ Tát Ðạo,
các Bồ Tát tượng trưug cho các đức tánh của Tâm thanh tịnh, cung
kính tất cả các Bồ Tát là thực hành các hạnh lành để làm lợi ích
chúng sinh.
-
Ông Ðại Ca Diếp được tỏ ngộ và phát
nguyện từ nay chẳng còn đem hạnh Thanh Văn, Bích Chi Phật khuyên
dạy người, vì thế không dám đi thăm bệnh. Từ trước, ông Ðại Ca
Diếp đi khất thực thường đem pháp Tiểu Thừa ra giảng nói, nay
biết đó chưa phải rốt ráo nên không dám nói nữa, mà chỉ đem pháp
Đại Thừa tức là Nhất Thừa Phật Ðạo ra thuyết thôi.
-
Khác với hai ông Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên thua kém không đối đáp nổi với Cư Sĩ Duy Ma Cật một
lời nào nên cảm thấy xấu hổ không kham lãnh đi thăm bệnh, ông
Ðại Ca Diếp không thấy sự thua kém của mình là điều hổ thẹn, mà
có can đảm chấp nhận ngay chỗ sai lầm thấp kém ích kỷ của mình,
bỏ đường hẹp mà đi theo đại lộ, trong lòng hân hoan sung sướng
được điều chưa từng có, đáng lẽ phải đến thăm bệnh, vừa tỏ lòng
kính trọng, vừa cảm ân đức dạy bảo mà tới thăm hỏi mới là phải,
tại sao ông Ðại Ca Diếp cũng không kham đi thăm bệnh ? Biết mình
thua kém chẳng có gì đáng xấu hổ, chỉ e không chịu nhận chỗ sai
lầm của mình, vì ngã mạn kiêu căng thì mới là xấu xa hổ thẹn. Ở
đây, ông Ðại Ca Diếp đã sâu khởi lòng cung kính tất cả các Bồ
Tát, ông biết rõ sự thua kém của mình, không kham lãnh lời Phật
đi thăm bệnh, vì đây là thay mặt Ðức Thế Tôn và Giáo Hội đến
thăm một vị Ðại Bồ Tát thì vị sứ giả phải có một sự hiểu biết
cao siêu, một trí huệ sáng suốt tột cùng, đến thăm bệnh là phải
hỏi thăm phải đối đáp, làm sao giữ một tư thế bình đẳng ngang
hàng không thua kém để bảo vệ danh thơm của Giáo Hội, ông Ðại Ca
Diếp đã biết mình không đủ tài đức làm công tác này nên từ chối.
Ông nhớ lại lỗi xưa là thường dùng hạnh Thanh Văn dạy người nên
không dám trực diện đối đáp với Bồ Tát Duy Ma Cật, nhường danh
dự trưởng phái đoàn Phật Giáo cho một vị khác có đủ trí huệ biện
tài hơn. Ðoạn này diễn tả sự giác ngộ từng phần của hàng Thanh
Văn chưa thể so sánh với Trí Huệ viên mãn của chư Bồ Tát được.
-
Ðức Phật bảo ông Tu Bồ Ðề đi thăm
bệnh, ông này cũng từ chối.
-
Tu Bồ Ðề, phiên âm chữ Phạn Subhoti,
dịch nghĩa là Không Sinh, Thiện Hiện, Thiện Cát, Thiện Nghiệp.
Khi ông ra đời, các kho, tủ, rương trong nhà đều rỗng không, một
thầy tướng số đoán là điềm lành, do Không mà sinh ra có, nên đặt
tên là Không Sinh. Ông xuất gia theo Phật, hằng ngày đi khất
thực chỉ đến các nhà giàu vì ông nghĩ rằng họ nhiều của cải. Bố
thí một chút lương thực không hao tổn là bao; ông cũng bị Phật
quở là tâm không bình đẳng, còn phân biệt giàu nghèo, còn chấp
tướng, phải tùy duyên lần lượt từng nhà mà khất thực ngõ hầu hóa
độ chúng sinh, không bỏ qua một hạng nào.
-
Ông Tu Bồ Ðề là một trong mười vị Ðại
Ðệ Tử của Phật, được tôn xưng là Giải Không bậc nhất, nghĩa là
tỏ ngộ lý Chân Không bậc nhất trong hàng Thanh Văn. Khi nói Kinh
Kim Cang, Phật gọi ông mà giảng luận nghĩa Kinh phát huy mật
nghĩa thâm diệu của lý Không, của Ðại Trí Huệ (Ma Ha Bát Nhã) mà
ít người hiểu nổi. Vì ông Tu Bồ Ðề là bậc Giải Không bậc nhất
nên trưởng giả Duy Ma Cật cũng đem lý Không ra nói: tất cả các
pháp là huyễn hóa, là giả, là Không. Trong cuộc đối đáp này, sự
hiểu biết về lý Không của hàng Thanh Văn làm sao bì kip với Trí
Huệ đã thâm nhập lý Chân Không Diệu Hữu của Bồ Tát.
-
Mở đầu cuộc đối thoại khi ông Tu Bồ
Ðề đến khất thực tại nhà trưởng giả Duy Ma Cật, ông này nói: Các
thức ăn cũng như các pháp tất cả đều bình đẳng, như huyễn hóa,
là giả, là Không. Pháp, hiểu theo nghĩa hẹp, là các kinh sách,
các pháp môn tu hành, hiểu theo nghĩa rộng, là tất cả mọi vật
mọi sự trên thế gian và siêu thế gian, trong tưởng tượng, là các
luật thiên nhiên vận hành vũ trụ. Nếu chữ Pháp được hiểu là mọi
sự mọi vật thì chúng đều bình đẳng, chịu sự chi phối của luật vô
thường, lý vô ngã, tướng trạng có sai khác nhưng Thể Tánh thì
bình đẳng nhất như. Nếu chữ Pháp được hiểu là các kinh sách, các
pháp môn tu hành thì chúng cũng bình đẳng, là phương tiện đưa
tới cứu cánh, là phương thuốc để chữa bệnh, tùy theo bệnh não
căn cơ của chúng sinh mà làm lợi ích không phân biệt, chẳng có
pháp môn nào cao hơn pháp môn khác, mà chỉ do căn cơ hoàn cảnh
chúng sinh sai khác mà thôi.
-
Nếu hiểu chữ Pháp là các luật thiên
nhiên thì chúng lại càng bình đẳng vì không thiên vị một ai,
luật nhân quả nghiệp báo chẳng hạn không bao giờ sai chạy.
-
Tất cả các Pháp đều là huyễn hóa, giả
hợp, không thật có, đều vô thường vô ngã duyên sinh, đều là
Không, tướng thì sai biệt muôn vàn nhưng Thể Tánh chỉ có một,
vậy chúng bình đẳng. Các món ăn cũng vậy, tướng trạng sai biệt
khác nhau rất nhiều. Có nhiều nguồn gốc: ngũ cốc, rau, đậu... Có
nhiều vị: ngọt, chua, chát, cay, mềm, cứng, ròn... Có nhiều
loại: bổ dưỡng, nhuận tràng, nóng, mát, có nhiều sinh tố, khoáng
chất... Có nhiều cách đun nấu : luộc, nướng, chiên, xào... Có
nhiều giá cả: đắt, rẻ, sang, hèn... Nhưng đứng về Tánh thì tất
cả thức ăn đều chung một Thể: chúng đều là thực phẩm có công
dụng nuôi sống xác thân, vậy chúng bình đẳng. Phàm phu chúng ta
thường hay phân biệt món này món nọ, khen món này nấu vừa miệng
ngon ngọt bổ dưỡng, chê món kia cứng dai đắng nhạt nhẽo, ít bổ
tầm thường. Trái lại, người tu hành đi khất thực, ai dâng gì
nhận nấy, rồi trộn lẩn với nhau thành một món duy nhất, không
còn phân biệt mùi vị luộc chiên, rồi mới ăn, đó là tinh thần
bình đẳng vô phân biệt.
-
Trưởng giả Duy Ma Cật muốn đem các
thức ăn khác nhau trong bình bát so sánh với vạn pháp trong vũ
trụ, chứng minh tất cả đều là huyễn hóa, là giả, là Không, để
đưa tới Pháp Tánh bình đẳng của mọi sự mọi vật. Ðối với hàng
Thanh Văn mới phá được ngã chấp, vẫn còn chấp pháp, thì các món
ăn là có thật, các pháp là có thật. Trưởng giả Duy Ma Cật muốn
chỉ rõ mọi pháp đều là giả, duyên hợp huyễn có mà thôi. Thể của
chúng là Không. Hàng Thanh Văn hiểu chữ Không đối lập với có,
còn hàng Bồ Tát muốn khai thị cho hàng Thanh Văn hiểu chữ Không
là giả huyễn, là Thể Tánh Chân Không Diệu Hữu, là nguồn gốc của
mọi sự mọi vật từ cái Không này mà tất cả mới hiện hữu. Nếu
chúng ta nắm vững được ý nghĩa rốt ráo của đoạn kinh này thì sẽ
hiểu nghĩa các đoạn sau rất dễ dàng.
-
Mới đọc qua thì thấy lời của ông Duy
Ma Cật hình như trái với sự hiểu biết thông thường, nào là không
cần trừ dâm sân si, không dứt si ái, nào là xuất gia theo sáu
thầy ngoai đạo, không thấy Phật không nghe Pháp, cùng với ma nắm
tay nhau làm bạn, hoàn toàn không được diệt độ... Nhưng cần đọc
kỹ, suy ngẫm cẩn thận mới thấy lý cao. Thông thường, người tu
hành phải dứt trừ dâm sân si, không để chúng làm chủ tâm mình.
Vì mình chưa sáng suốt, còn bị chúng chi phối nên rất sợ chúng,
lánh xa chúng. Khi mình đã tu hành giữ giới thanh tịnh, biết rõ
bộ mặt thật của dâm sân si chỉ là huyễn hóa, là giả hợp, là thử
thách, mình không phạm giới thì việc gì mà sợ, đã không sợ thì
không cần phải trừ, nhưng cũng không sống chung với nó. Biết
chúng rồi thì phải làm sao chuyển chúng thành những tánh tốt,
chuyển phiền não thành bồ đề, thì mới đúng là hạnh lợi tha của
Bồ Tát.
-
Ðối với người tu hành thanh tịnh biết
rõ năm uẩn là Không, dâm sân si cũng là Không, chẳng có ba độc
dâm sân si đối nghịch với Giới Ðịnh Huệ, các ngài lìa hai bên,
chẳng cần trừ dâm sân si mà vẫn không chung cùng chúng nó, vì
tâm đã an nhiên tự tại, không chấp một sự gì nữa, chẳng thấy
chúng là đối tượng phải trừ, cũng chẳng tác động với chúng, mà
vượt lên trên chúng để nhập vào Thể Tánh Chân Không. Trong kinh
sách có câu: Phòng dâm quán rượu chẳng khác đạo tràng thanh
tịnh, các Bồ Tát vào nơi đó mà tâm không động không nhiễm, gìn
giữ sáu căn thanh tịnh, vào đó để hóa độ chúng sinh, thì thấy đó
chính là đạo tràng vậy. Một học trò hỏi Thầy: Những vị tu hành
thanh tịnh có vào địa ngục không ? Thầy mỉm cười đáp: Nếu ta
không vào đó thì ai sẽ cứu con đây ?
-
Ðoạn kinh này chủ trương lìa hai hên,
không bỏ cái này để được cái kia, vì chẳng có hai (Bất Nhị),
phải tìm giải thoát ở nơi Si ái ngũ nghịch, tìm Bồ Ðề nơi phiền
não. Không mở cũng không buộc, đây là nói người tu hành biết
phiền não triền phược đều không thật có thì còn gì mà mở hay
buộc nữa. Một đệ tử tới cầu giải thoát, Thiền Sư Triệu Châu hỏi:
“Ai trói ngươi mà cầu cởi?” . Khi mê thì thấy bị trói, lúc tỉnh
thì thấy tự tại giải thoát, có buộc đâu mà phải cởi.
-
Khi đã sáng suốt thì không thấy có
pháp Tứ Ðế để tu, không thấy quả vị để chứng, vì hiểu tất tả các
pháp đều là giả huyễn, chỉ là phương tiện mà thôi, cần nương
theo giả để tới chân, nương phương tiện để đạt cứu cánh. Trong
Bát Nhã Tâm Kinh có câu: Dĩ vô sở đắc cố, vì không có gì là được
cả. Tu hành thì được cái gì? Ðược giác ngộ giải thoát chăng?
Chúng ta vốn giác ngộ giải thoát, chỉ vì mê vọng điên đảo mà
tưởng là trầm luân. Ðược thành Phật chăng? Chúng ta đều có Phật
Tánh, chẳng thêm chẳng bớt, chẳng nhơ chẳng sạch. Vậy chúng ta
trở thành cái chúng ta sẵn có, sẵn là, như vậy có được gì đâu ?
Lau hết bụi thì gương chiếu sáng, tánh sáng đó vẫn có từ lâu.
-
Ðược như thế mới nên lấy thức ăn. Câu
này chấm dứt đoạn kinh nói theo chiều thuận, lìa hai bên, phá
chấp pháp, lìa tướng để nhập Pháp Tánh bình đẳng. Ðến đoạn Kinh
dưới, Trưởng giả Duy Ma Cật nói theo chiều nghịch đưa ra một lý
luận ngược hẳn với đoạn trên: Không thấy Phật, không nghe Pháp,
không nhập chúng, không diệt độ... Ðoạn trên lìa hai bên thì
đoạn dưới bỏ bên này theo bên kia, bỏ Phật Pháp theo ngoại đạo,
rõ ràng là có hai phe Chánh và Tà, nếu ông Tu Bồ Ðề theo phe tà
thì mới nên lấy thức ăn. Như vậy có mâu thuẩn không? Mới thoạt
nghe thì thấy có mâu thuẩn rõ rệt, đoạn trên nói thuận, đoạn
dưới nói nghịch, trên lìa hai bên, dưới chấp hai bên, mà lại
theo tà bỏ chánh, lời nói trái ngược này khiến ông Tu Bồ Ðề
không sao hiểu được, mờ mịt hoang mang liền để bát lại muốn ra
khỏi nhà. Trưởng giả Duy Ma Cật liền giải thích: Ngài lấy bát
chớ sợ. Nếu Phật biến ra một người huyễn hóa thì Ngài có sợ
không? ông Tu Bồ Ðề đáp: Không sợ. Trưởng giả Duy Ma Cật nói:
Tất cả các pháp như tướng huyễn hóa, tất cả lời nói không lìa
tướng huyễn hóa. Người trí không chấp văn tự nên không sợ. Ý
nghĩa đoạn kinh này là khuyên đừng chấp vào lời nói văn tự vì
chúng là huyễn. Văn tự ngôn ngữ là những ước lệ do người đời đặt
ra để dùng cho một dân tộc, một địa phương nào đó, người đời
ghép những chữ thành câu, những tiếng thành lời rồi gán cho
chúng một ý nghĩa tốt hoặc xấu, rồi chấp theo đó mà tạo nghiệp.
Nếu đem phân tích để rời ra thì chúng chẳng có ý nghĩa gì, người
có trí biết như vậy thì hết chấp, hết tạo nghiệp. Lời nói văn tự
là những pháp hữu lậu và tương đối, duyên hợp, không có thật
thể, không diễn tả được Chân Lý tuyệt đối vô lậu.
-
Tánh văn tự vốn ly; đứng về tướng thì
thấy có văn tự, đứng về Tánh thì lìa khỏi sự chấp trước vào lời
nói văn tự, không chấp pháp nữa là được giải thoát. Chư Tổ
thường dạy: Ðạo bổn vô ngôn, ngôn sinh lý táng, ngôn ngữ đạo
đoạn... nghĩa là Ðạo hay Chân Lý là tuyệt đối, không thể dùng
lời nói mà diễn tả được, nếu đã dùng lời nói thì Chân Lý bị che
khuất, bị chôn vùi (táng nghĩa là chôn). Lời nói văn tự làm đứt
Ðạo, lìa Chân Lý...
-
Trưởng giả Duy Ma Cật đưa ra hai lập
luận mâu thuẫn ngõ hầu đưa đến một kết luận cao siêu là đừng
chấp văn tự ngôn ngữ vì là tướng huyễn hóa, ví như Trưởng giả
Duy Ma Cật nói đùa bỡn, xuôi cũng phải, ngược cũng phải, khiến
ông Tu Bồ Ðề hoang mang mờ mịt không biểu ra làm sao cả, rồi
Trưởng giả lại bảo là tôi nói đùa đấy, lời nói không có giá trị
gì, đừng chấp lời nóí, cứ lấy cơm ăn. Ông Tu Bồ Ðề là đệ tử ngộ
lý Không bậc nhất trong hàng Thanh Văn nên Trưởng giả Duy Ma Cật
nói về Tánh Không của văn tự, tùy chỗ tỏ ngộ của hàng Thanh Văn
mà trình bày kiến giải của hàng Bồ Tát vượt cao hẳn lên trên, để
dạy dỗ Thanh Văn tiến lên tư tưởng Ðại Thừa. Cũng có thể đoạn
Kinh sau không hề mâu thuẫn với đoạn kinh trước, bề ngoài làm
những việc tà kiến, báng Phật, chê Pháp, lìa Tăng... nhưng bề
trong là mật hạnh của Bồ Tát, làm việc ác chính là tạo nghịch
duyên thử lòng người tu hành có nhẫn nhục tinh tấn không? Khi
đóng vai trò làm ác nhưng biết tất cả là huyễn, tâm vẫn thanh
tịnh thì vẫn giải thoát. Ông Ðề Bà Ðạt Ða làm nhiều vlệc ác hại
Phật, hủy Pháp, phá hòa hợp Tăng, phạm cấm giới, làm thân Phật
chảy máu... ai cũng cho là ông sẽ đọa ngục. Nhưng Ðức Phật lại
bảo rằng ông Ðề Bà Ðạt Ða chính là thiện tri thức trợ duyên giúp
Phật tu hạnh nhẫn nhục và tinh tấn để chóng thành Ðạo quả, Ðức
Phật còn thọ ký cho ông sau này sẽ thành Phật hiệu là Thiên
Vương Như Lai. Như vậy, bề ngoài ông phạm tội ngũ nghịch, bề
trong ông là Ðại Bồ Tát biến nghịch tướng, hành nghịch duyên để
thử lòng Phật, giúp Phật viên thành đạo quả Bồ Ðề.
-
Tóm lại, đại ý đoạn kinh thuật những
lời đối thoại giữa Trưởng giả Duy Ma Cật với ông Tu Bồ Ðề là văn
tự ngôn ngữ, lời nói âm thanh đều là huyễn hóa, không thật có,
không đáng sợ, không nên chấp vào đó, được vậy thì không còn lời
qua tiếng lại, mình không nói xấu người mà nếu có ai nói dèm pha
mình thì cũng giữ tâm không động, tiêu trừ khẩu nghiệp. Thường
thì ai cũng thích nghe lời nói thuận, không ưa nghe lời nói
nghịch, người tu cần quán âm thanh như huyễn, văn tự không có
tướng chân thật; nếu chấp chúng có thật, ghi giữ chúng trong
lòng rồi phát sinh phiền não, thật do mình làm khổ mình, người
nói cũng đi xa mà lời nót cũng tan rồi, ôm giữ những lời buồn
phiền đó làm chi, bỏ qua thì hết khổ. Người tu cần có tự chủ,
không để ngoại cảnh chi phối, giữ tâm tự tại thì đời sống được
tự do.
-
Khi ông Duy Ma Cật nói pháp ấy rồi,
hai trăm Thiên Tử được pháp nhãn thanh tịnh, vì thế ông Tu Bồ Ðề
không kham lãnh đi thăm bệnh.
-
Thiên Tử đây không phải là những vị
Vua ở thế gian mà là những vị Trời ở Dục Giới, Sắc Giới và Vô
Sắc Giới, các Ngài nhờ tu mười điều lành mà được hưởng nhiều
phước báo nơi các cõi trời, nhưng vẫn còn ở trong sáu nẻo luân
hồi, hưởng hết phước thì lại phải tái sinh trong ba cõi. Các
Ngài được ăn ngon mặc đẹp, có nhiều thiên nữ vây quanh hầu hạ
đàn hát ca múa, hưởng thụ các dục lạc, nay Cư Sĩ Duy Ma Cật dạy
cho biết tất cả các pháp trong đó có văn tự ngữ ngôn, âm thanh,
thức ăn, quần áo, đồ trang sức... đều là giả, là huyễn, không
thật có, ví như được người mở mắt mở tai cho thấy cho nghe sự
thật, các vị Trời bừng tỉnh như người ra khỏi giấc chiêm bao nên
được gọi là Pháp Nhãn thanh tịnh.
-
Ðức Phật bảo ông Phú Lâu Na đi thăm
bệnh, ông này cũng từ chối vì bị Trưởng giả Duy Ma Cật trách ông
không biết căn cơ của chúng sinh đem pháp Tiểu Thừa dạy người.
-
Phú Lâu Na, viết cho đủ là Phú Lâu Na
Di Ða La Ni Tử, phiên âm chữ Phạn Purna Maitrayaniputra dịch
ngbĩa là Mãn Từ Tử, là con một vị Bà La Môn giàu sang làm quốc
sư ở triều vua Tịnh Phạn, ông sinh cùng ngày với Thái Tử Tất Ðạt
Ða, sau quy y thọ giáo với Phật và đắc quả A La Hán, được Phật
công nhận là thuyết pháp bậc nhất trong hàng đệ tử Thanh Văn,
ông có công lớn trong việc đem đạo Phật sang truyền bá ở xứ Du
Lư Na, dân chúng nổi tiếng hung ác, nhờ ông thực hành nhẫn
nhục.
-
Ông Phú Lâu Na thuộc hàng Thanh Văn
nên đem giáo lý Tiểu Thừa dạy các Tỳ Kheo mới học, Trưởng giả
Duy Ma Cật đến bảo ông cần nhập định trước để quán sát tâm địa
người nghe rồi sau mới nên nói pháp, phải biết rõ tâm niệm người
nghe, căn nguyên của họ, nghĩa là người nói pháp cần nhập định,
an trụ tâm để phát sinh trí huệ, biết rõ lòng người, tâm địa ra
sao thì việc thuyết giảng mới hợp với căn cơ thính chúng đem lại
lợi lạc cho chúng sinh. Nếu căn cơ người nghe cao mà mình nói
thấp, hoặc căn cơ người nghe thấp mà mình nói cao thì cả đôi
đàng đều chẳng có lợi ích gì mà còn làm hại người nghe, họ như
tờ giấy trắng đừng đem nhuộm mầu họ không ưa, họ muốn đi đường
lớn, chớ chỉ lối nhỏ hẹp.
-
Những câu đối nghịch như bát báu đựng
món ăn dơ, ngọc lưu ly đồng với thủy tinh, biển lớn đổ vào dấu
chân trâu, ánh sáng mặt trởi đồng với lửa đom đóm... có mục đích
đề cao giáo lý Ðại Thừa, tuy có hạ thấp giá trị Tiểu Thừa, nhưng
chẳng phải tranh chấp cao thấp lớn nhỏ mà muốn dẫn dắt người tu
bỏ lòng lười biếng tự mãn ích kỷ, được ít cho là đủ, nửa đường
bỏ dở, mà cần phải tu nữa, tiến lên nữa, tự giác rồi giác tha,
tới giác hạnh viên mãn, đó là tôn chỉ của bộ Kinh Duy Ma Cật bắc
nhịp cầu đưa Tiểu Thừa sang Ðại Thừa, chứ không phải khinh
miệt.
-
Các vị Tỳ Kheo tuy theo học với ông
Phú Lâu Na, nhưng đã từng phát tâm Ðại Thừa từ nhiều đời, trải
qua nhiều kiếp tái sinh, họ quên mất việc đời trước, người
thuyết pháp phải biết tâm niệm họ, đừng đem pháp Tiểu Thừa ra
dạy. Trưởng giả Duy Ma Cật trách hàng Tiểu Thừa như người mù vì
trí tuệ nông cạn chưa sáng suốt thâm sâu, không biết căn tánh
chúng sinh lanh lợi hay ngu độn, cứ đem pháp Tiểu Thừa ra dạy
thì ích lợi chưa thấy, lại làm hại thêm. Chúng sinh không biết
lối mà mình chỉ sai đường thì làm tốn thêm công sức thời giờ,
bao giờ cho tới ?
-
Việc Trưởng Giả Duy Ma Cật nhập Tam
Muội (Chánh Ðịnh) khiến cho các Tỳ Kheo biết được kiếp trước của
mình, có ý nghĩa giống như ở đoạn đầu kinh này, Ðức Phật nhấn
ngón chân xuống đất đại chúng thấy hiện ra cõi Phật trang nghiêm
thanh tịnh, thấy mình ngồi trên tòa sen báu. Trong Kinh Pháp
Hoa, Ðức Thích Ca phóng hào quang chiếu sáng các cõi, chúng sinh
thấy rõ cảnh tượng khắp nơi, rồi Phật mới nói pháp, quy Tam Thừa
về Nhất Thừa phật Ðạo. Ðó là ý nghĩa quan trọng: trước khi nói
pháp, người thuyết phải nhập định, tâm an trí sáng, biết rõ tâm
niệm người nghe, họ muốn gì, căn cơ ra sao, rồi mới tùy phương
tiện chỉ dạy dẫn dắt chúng sinh vào con đường chân chánh.
-
Các Tỳ Kheo liền đó rỗng suốt: hai
chữ rỗng suốt do chữ Hán hoát nhiên là không còn bị ngăn cách
đóng chặn nữa. Chư vị Tỳ Kheo này vốn vẫn sáng vẫn thông từ xưa,
giữa chừng quên lãng, bổn tâm bị vô minh che lấp, nay nhờ Ngài
Duy Ma Cật đánh thức khỏi giấc mộng dài, sáng suốt bừng lên, bao
nhiêu núi chặn đều mở tung, được khai thông. Khi mê thì thấy núi
chặn có thật, khi tỉnh thì chúng tự biến mất, con đường lớn vẫn
thông suốt từ xưa. Trở lại bổn tâm là trở về nguồn gốc Tâm
Không, rỗng rang sáng suốt trở về với sự sống chảy chan hòa khắp
chúng sinh, trở về với Chân Lý, với Bản Lai Diện Mục, với Phật
Tánh Chân Như. Ðứng về tư tưởng thì là trở về với giáo lý Ðại
Thừa. Nhờ Trưởng giả Duy Ma Cật nói pháp mà các Tỳ Kheo được
sáng suốt bất thối chuyển thì chẳng còn lui bước trở lại nơi lầm
lạc cũ nữa mà nhất tâm tiến về nẻo giác ngộ tột cùng. Kinh Lăng
Nghiêm đưa ra thí dụ: lọc hết bùn thì được nước trong, không bao
giở trở lại nước đục nữa.
-
Ông Phú Lâu Na thấy hàng Thanh Văn
không quán được căn cơ của ngườí thì không nên nói pháp, tự biết
mình còn kém không ngang hàng với Bồ Tát Duy Ma Cật nên chẳng
kham lãnh đến thăm bệnh. Phương pháp quán sát của hàng Thanh Văn
chưa thấu đáo, cần phải tu Chỉ Quán thâm sâu, thực hành Thiền
Ðinh thì mới phát huy được cái Ðại Trí Huệ (Ma Ha Bát Nhã) sẵn
có nơi chúng sinh. Có trí huệ là được rỗng suốt, không còn bị
ngăn ngại, hết sợ hãi, xa lìa điên đảo mộng tưởng, được cứu cánh
Niết Bàn đúng như Bát Nhã Tâm Kinh đã dạy.
-
Ðức Phật bảo ông Ma Ha Ca Chiên Diên
đi thăm bệnh, ông này từ chối vì lúc trước ông nghe Phật dạy vô
thường, khổ, không, vô ngã và tịch diệt, ông cũng diễn lại những
giáo lý ấy cho người khác nghe, bị Trưởng giả Duy Ma Cật đến nói
rằng: Ngài chớ đem tâm hạnh sinh diệt mà nói pháp Thật Tướng.
-
Ca Chiên Diên, phiên âm chữ Phạn
Katyayana nghĩa là Văn Sức, là một trong mười đại đệ tử của
Phật, được tôn trọng như một vị Thánh Tăng nên trong kinh thường
gọi ông là Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha là đại, là lớn, để tỏ lòng
cung kính. Ông thuộc dòng Bà La Môn, sau xin quy y với Phật, tu
hành đắc quả A La Hán, được Phật công nhận là biện tài đệ nhất,
trong hàng Thanh Văn; ông nói năng dịu dàng, biện luận rành rẽ,
có làm ra bộ Thi Thiết Túc Luận gồm có 18 ngàn câu kệ. Có một bộ
kinh lấy tên Ngài là Ca Chiên Diên Kinh nói về nghĩa lìa cả hai
đường Có và Không để phá trừ ngã chấp kiêu mạn.
-
Ðức Phật thuyết pháp dạy các Tỳ Kheo,
dùng phương tiện và tùy căn cơ mà nói, thuyết huyễn pháp, độ
huyễn nhân, chứng huyễn quả, rồi sau đó lần lần đưa vào Nhất
Thừa Phật Ðạo. Ông Ca Chiên Diên nghe Phật nói huyễn lại tưởng
là thật. Phật dùng phương tiện lại tưởng là cứu cánh, cứ nghe
sao nói lại vậy, dạy các Tỳ Kheo. Trưởng giả Duy Ma Cật đến bảo
ông chớ đem tâm hạnh sinh diệt mà nói pháp Thật Tướng. Tâm hạnh
sinh diệt là tương đối, là pháp thế gian, làm sao diễn tả nổi
pháp Thật Tướng là tuyệt đối xuất thế gian. Ðứng về tuyệt đối,
các pháp chẳng phải sinh chẳng phải diệt. Nếu nói vô thường là
còn thấy trái với thường, còn thấy hai cái đối đãi nhau. Ông Ca
Chiên Diên nói các pháp có sinh có diệt là nghĩa vô thường, còn
Cư Sĩ Duy Ma Cật nói pháp rốt ráo không sinh không diệt là nghĩa
vô thường. Thoạt nghe, hai chủ trương này hoàn toàn trái ngược
nhau, nhưng cả hai đều đúng. Ông Ca Chiên Diên đứng về tướng,
dựa theo lập trường tương đối mà nói, còn Cư Sĩ Duy Ma Cật đứng
về Thể Tánh dựa theo lập trường tuyệt đối mà luận. Phải nói các
pháp chẳng phải sinh chẳng phải diệt, lìa hai bên, mới đúng với
Chân Lý tuyệt đối.
-
Cũng giống như thế, trong Pháp Bảo
Ðàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng dạy Hành Xương: “Phật Tánh là vô
thường, các pháp là thường. Ta giảng vô thường chính là Phật nói
Chân Thường; ta giảng là thường, chính là Phật nói Chân Vô
Thường.” Vì sao ? Trong vô thường có thường, trong thường có vô
thường, như vậy mới là Trung Ðạo. Lục Tổ dùng lối nói ngược để
phá trừ bệnh chấp tướng, chấp văn tự ngữ ngôn ở trong kinh điển
của Hành Xương, dạy ông này cố hiểu thoát nghĩa, cố hiểu nghĩa
bóng thâm ý (y nghĩa bất y ngữ). Lục Tổ thường dạy các đệ tử lối
trả lời ngược lại, khi lâm vào ngõ bí cùng cực thì sẽ thông suốt
(cùng tặc biến, biến tắc thông).
-
Trưởng giả Duy Ma Cật muốn giúp Ngài
Ca Chiên Diên hiểu được Thật Tướng tuyệt đối nên cũng nói ngược:
Không sinh không diệt là nghĩa vô thường, ám chỉ Thật Tướng
không thể nói được không còn biện luận, chớ dùng tâm sinh diệt
tương đối của thế gian mà biện luận pháp Thật Tướng Tuyệt Đối
Xuất Thế Gian. Ông Ca Chiên Diên tuy nói không sai, nhưng chưa
được rốt ráo mà thôi.
-
Năm ấm rỗng không, không chỗ khởi là
nghĩa khổ : đây cũng là lối nói ngược. Nếu nói khổ là còn nghĩ
tới vui. Ở thế gian tương đối, khổ hoặc vui là do năm ấm (hay là
uẩn) cảm thọ mà có. Nhưng ở Bản Thể Tuyệt Ðối thì năm uẩn là
Không, vậy làm gì còn có Thọ nữa, đã chẳng Thọ thì chẳng khổ
chẳng vui. Trưởng giả Duy Ma Cật nói nghĩa khổ, chính là chẳng
khổ chẳng vui, là tuyệt đối, bất khả luận.
-
Ở đời khổ vui chính ở lòng ta. Cùng
một cảnh ngộ mà có người kêu khổ, có người nói vui. Biết khổ mà
không bi quan, tích cực tìm đường thoát khổ, không còn chấp hai
bên khổ vui mà thấy rõ sự thật là có một cái bất biến, không khổ
không vui. Người không hiểu biết thì gặp cảnh nghịch là kêu khổ,
sân si nổi lên, khổ cho mình và khổ cho mọi người chung quanh
nữa. Còn người hiểu hiết sáng suốt thì gặp cảnh nghịch họ bình
tĩnh lắng lòng suy xét tìm thấy căn nguyên của cảnh nghịch, rồi
tìm phương cách giải quyết hợp tình hợp lý, vượt qua cảnh trái ý
nghịch lòng, họ sẽ thoát ra ngoài vòng khổ vui chi phối. Thí dụ:
Biết thân vô thường thì tinh tấn tu hành sẽ tới chỗ Chân Thường,
biết pháp vô ngã thì gắng sức thiền định sẽ thấy Chân Ngã, tới
Niết Bàn Tịch Diệt. Ðó là nghĩa Ngã và Vô Ngã không hai, biết
các pháp vô ngã nhưng vẫn tạm dùng làm phương tiện, ví như dùng
bè qua sông, qua rồi thì bỏ, tới bờ là rõ Chân Ngã. Phật lúc đầu
nói vô thường, vô ngã, khổ (Ba Pháp ấn) để chúng sinh sợ mà tu,
sau Ngàí nói Chân Thường, Chân Ngã, Chân Lạc, Niết Bàn tịch tịnh
là kết quả của việc tu hành. Tất cả đều do Tâm tạo, không ngoài
Tâm mà có. Người tu theo giáo lý Ðại Thừa phải thấy Chân Thường
trong vô thường, thấy Chân Ngã trong cái ngã biến dịch, thấy
Chân Lạc trong cái khổ, thấy Niết Bàn thanh tịnh ở ngay thế gian
nhơ uế này. Tướng của mọi pháp là huyễn hóa, là giả, nhưng Thể
thì lặng lẽ, dụng thì khởi phát tùy Tâm sử dụng. Biết mọi pháp
hiện tiền, nhưng ta làm chủ được chúng, không để chúng chi phối
ta, mỗi niệm khởi lên là ta sáng suốt quán sát nó, biết nó là
vọng thì tự nhiên nó lắng xuống, biến đi. Người tu hành không sợ
niệm khởi, nếu sáng suốt biết rõ niệm thiện hoặc ác, chân hoặc
vọng, mình không chấp, mình làm chủ không để nó chi phối, mình
được tự tại, đó là nghĩa tịch diệt. Ðây chính là lối tu tích cực
lợi tha của Bồ Tát, thấy tất cả là một, tuyệt đối dung thông,
chứ không tiêu cực ích kỷ kẹt hai bên như của hàng Thanh Văn.
-
Giáo lý Tiểu Thừa chủ trương các pháp
có sinh rồi có diệt, khi tu hành đến chỗ hết sinh diệt thì được
vui, gọi là Tịch Diệt. Ðại Thừa cho rằng các pháp từ xưa vẫn như
thế, chẳng phải sinh, chẳng phải diệt, chẳng phải nhơ, chẳng
phải sạch, chẳng phải thêm, chẳng phải bớt, vì có gì sinh ra đâu
mà bị diệt. Tất cả các pháp Tánh thường rỗng lặng, là Không, đó
là Niết Bàn vô tướng chăng thể nghĩ bàn, chẳng thể dùng lời lẽ
văn tự mà diễn tả được. Những gì nói về Thật Tướng, về Niết Bàn
đều miễn cưỡng mà nói, chẳng nên mê chấp. Khi còn mê lầm vọng
tưởng điên đảo thì thấy giả tướng của các pháp có sinh có diệt,
khi hết mê được sáng suốt thì thấy Thể Tánh của các pháp bất
sinh bất diệt, lìa hẳn điên đảo vọng tưởng, chứng được Niết Bàn,
không còn luân hồi sinh tử, đó là Tịch Diệt.
-
Khi ông Duy Ma Cật nói xong, các Tỳ
Kheo tâm được giải thoát: Sau khi nghe được Chân Lý rốt ráo, các
Tỳ Kheo như người ngủ mê sực tỉnh. hết si mê vọng tưởng, hết
thấy bị trói buộc, trong lòng cảm thấy được giải thoát Ðược nghe
Chân Lý mới là Văn, cảm thấy được giải thoát chứ chưa giải thoát
thật sự. Các Tỳ Kheo còn cần phải Tư (suy nghĩ) và Tu (thực
hành) nữa, ví như mới được người chỉ cho con đường chân chánh,
họ còn phải chuẩn bị tư lương rồi cất bước mà đi thì mới có ngày
tới đích. Tâm được giải thoát là đã tiến được một bước khá rồi,
vượt qua cửa ải sự tướng, cứ tiếp tục tinh tấn tu hành thì sẽ
đạt Niết Bàn, thấy Tánh Phật.
-
Chủ ý của đoạn kinh này là không nên
dùng tâm sinh diệt tương đối của thế gian mà biện luận pháp Thật
Tướng tuyệt đối. Cứ tu hành khi nào chứng Chân Lý, nhập Thể Tánh
thì tự nhiên biết, không thể diễn tả được.
- Ông
Ca Chiên Diên được coi là biện tài bậc nhất, Cư Sĩ Duy Ma Cật
phải dùng lối biện luận cao tột siêu thế gian để chỉ dạy, khiến
ông Ca Chiên Diên không giải đáp được, chịu nhiếp phục và vì vậy
không kham lãnh đi thăm bệnh.
- Phật
bảo ông A Na Luật đi thăm bệnh, ông này từ chối vì trước đây bị
Trưởng giả Duy Ma Cật vấn nạn: Thiên nhãn của ông làm ra tướng
hay không làm ra tướng?
- A Na
Luật hoặc còn được gọi là A Nậu Lâu Ðà, phiên âm chữ Phạn
Anurudba, dịch nghĩa là Như ý, Vô Tham. Kiếp trước, ông thường
cúng dường một vị Bích Chi Phật nên được quả báo giàu có, các
mong cầu đều mãn nguyện. Ông là em họ Thái Tử Tất Ðạt Ða, khi
Thái Tử đắc quả Phật, ông xin xuất gia cùng một lượt với các ông
A Nan, Đề Bà Ðạt Ða... Khi mới nhập đạo, ông hay ngủ gật, bị
Phật quở trách, ông hổ thẹn quyết tâm thức luôn bảy ngày đêm đến
nỗi hai mắt bị mù, nhờ Phật dạy tu Pháp Kim Cang Tam Muội nên
ông có Thiên Nhãn và chứng quả A Lá Hán, được Phật nói ông là
người có Thiên Nhãn bậc nhất trong hàng Thanh Văn.
- Kinh
là thẳng suốt. Hành là đi. Kinh hành là đi thẳng rồi quay lại,
hoặc đi vòng quanh tượng Phật, chùa tháp hay cây bồ đề. Người tu
thiền muốn tránh nạn buồn ngủ cần đi bộ quanh chỗ tham thiền gọi
là Kinh hành. Lại nữa, sau khi ăn, kinh hành để tiêu cơm, giữ
thân thể khỏe mạnh. Trong Kinh A Di Ðà có câu: chúng sinh ở cõi
Cực Lạc đem hoa tới cúng dường chư Phật mười pbương, trở về dùng
cơm rồi kinh hành. Các đệ tử hoặc các quan khách tới hỏi đạo
hoặc nghe thuyết pháp cũng thường đi kinh hành quanh Ðức Phật ba
vòng hoặc bẩy vòng, để tỏ lòng tôn kính.
Nghiêm Tịnh có nghĩa là vừa trang
nghiêm, vừa thanh tịnh. Các vị Phạm Vương là các Vua Trời có
nhiều phước báo, thân và cung điện đều có hào quang chiếu soi
rực rỡ, đủ vẻ trang ngiêm và thanh tịnh.
Thiên nhãn là một trong năm loại
mắt:
-
1) Nhục nhãn: mắt của thân xác thịt
chúng sinh, mắt thịt. 2)
Thiên nhãn: mắt của các vị Trời ở Sắc Giới, của những người tu
thiền định đắc quả, thấy được xa gần, trong ngoài, sáng tối.
-
3) Huệ nhãn: mắt của các vị Thanh
Văn, Duyên Giác, nhờ phát huy trí huệ chiếu rõ Chân Không, Thật
Tướng.
-
4) Pháp nhãn: mắt sáng suốt của chư
Bồ Tát đã thực hành sâu xa Bát Nhã Ba La Mật, thấy rõ căn cơ
chúng sinh và pháp môn thích hợp, tùy duyên hóa độ.
-
5) Phật nhãn: mắt của Phật, thấy rõ
tất cả và đầy đủ, không bị ngăn ngại.
-
Danh từ Thiên Nhãn rất phổ thông nên
các Phạm Vương dùng danh từ ấy, chứ theo thiển ý thì ở đây dùng
danh từ Huệ Nhãn mới đúng với địa vị Thanh Văn của ông A Na
Luật. Nhờ có Huệ nhãn nên ông A Na Luật thấy rõ ràng mọi sự mọi
vật trong ba lần ngàn Ðại Thiên thế giới của Ðức Phật Thích Ca
như thấy trái am-ma-lặc trong bàn tay.
-
Mỗi cõi của một Ðức Phật giáo hóa gọi
là một Tam Thiên Ðại Thiên Thế Giới, có nghĩa là ba lần ngàn cái
thế giới của chúng ta đang ở. Một tiểu thiên thế giới có 1.000
thế giới của chúng ta (trái đất); một trung thiên thế giới có
1.000 tiểu thiên, tức là 1.000.000 trái đất; một đại thiên thế
giới có 1.000 trung thiên, tức là 1.000.000.000 trái đất. Cõi Ta
Bà thuộc phạm vi giáo hóa của Ðức Thích Ca gồm có một tỷ trái
đất.
-
Ông A Na Luật tuy mắt bị mù nhưng nhờ
tu Pháp Kim Cang Tam Muội có thiên Nhãn nên thấy rõ mọi vật ở
khắp một tỷ thế giớí, rõ ràng như trái am-ma-lặc cầm trong tay.
Am-ma-lặc, phiên âm chữ Phạn Amalaka, dịch là vô cấu thanh tịnh,
lá giống lá táo, hoa nhỏ mầu trắng, trái giống trái cau, dùng
làm thuốc được. Các Vua Trời hỏi về Thiên nhãn thì ông A Na Luật
cứ thành thật mà đáp như vậy. Khi đó, Trưởng giả Duy Ma Cật đến
hỏi một câu rất quan trọng: Thiên nhãn của Ngàí thấy đó làm ra
tướng mà thấy hay không làm ra tướng mà thấy ? nghĩa là những
vật Ngài thấy được nhờ thiên nhãn là được tạo ra hay không tạo
ra ? là có tướng hay không tướng? Vật được tạo ra là vật có hình
tướng các giác quan nhận thấy được. Còn vật không được tạo ra là
vật không có hình tướng, các giác quan không nhận thấy được.
Nhãn căn tiếp xúc với sắc trần tạo ra nhãn thức. Ngài A Na Luật
đã bị hỏng nhãn căn, vậy không có sự căn trần tiếp xúc, không có
hình ảnh hiện trên võng mô của mắt, vậy rõ ràng là không làm ra
tướng.
-
Nếu làm ra tướng thì khác gì ngũ
thông của ngoại đạo. Ngũ thông là năm phép thần thông mà ngoại
đạo và những người tu chứng Thanh Văn đều có được: Thiên Nhãn
Thông, Thiên Nhĩ Thông, Túc Mạng Thông, Tha Tâm Thông và Thần
Túc Thông. Còn một thần thông nữa là Lậu Tận Thông riêng có Ðức
phật được mà thôi, gồm đủ là Lục Thông. Nếu ông A Na Luật có ngũ
thông giống y như ngoại đạo thì có gì đáng quý mà các Vua Trời
phải cúi đầu làm lễ; còn nếu ông A Na Luật không làm ra tướng
thì là vô vi, nghĩa là không có hình tướng hiện trên võng mô của
mắt, vậy không có cái thấy (nhãn thức). Thế mà ông A Na Luật lại
thấy rõ ràng mọi vật, như vậy là nghĩa thế nào? Ông có thể thấy
bằng trí tưởng tượng nhớ lại những hình tướng mà ông đã thấy
trước khi bị mù, cái thấy này Duy Thức Học gọi là Ðộc Ðầu ý Thức
chỉ do một mình ý Thức tác động, chẳng cần dựa vào năm thức
trước. Thiên nhãn của ông A Na Luật không những thấy những gì đã
thấy từ trước, mà còn thấy tất cả những gì xa thẳm trong tam
thiên đại Thiên thế giới mà trước kia ông chưa từng thấy, vậy
không phải chỉ do Ðộc Ðầu ý Thức mà thôi. Như vậy những tướng
trạng của các vật mà ông thấy là thật hay giả, chân hay vọng?
Ông A Na Luật không trả lời được nên nín lặng.
-
Các Vua Trời làm lễ và hỏi ông Duy Ma
Cật: Ai có chân thiên nhãn ? Trưởng giả Duy Ma Cật đáp: Chỉ có
Phật Thế Tôn được chân thiên nhãn, thường ở Tam Muội, thấy suốt
các cõi Phật không có hai tướng.
-
Tam Muội phiên âm chữ Phạn Samadhi,
nghĩa là Chánh Ðịnh. Ðức Phật thường ở Tam Muội, lúc nào Tâm
cũng an định, thanh tịnh, phát huy được Ðại Trí Huệ (Ma Ha Bát
Nhã) sẵn có, thấy suốt các cõi Phật, không riêng gì cõi Ta Bà mà
cả các cõi của các Phật khác, Ngài cũng thấy mọi sự mọi vật, quá
khứ hiện tại vị lai đều rõ ràng trước mắt.
-
Không có hai tướng, do chữ Hán Bất Dĩ
Nhị Tướng nghĩa là chẳng lấy, chẳng dùng hai tướng, ý muốn nói
là chẳng phải tạo tác hay không tạo tác, chắng phải có tướng hay
không tướng, mà Phật thấy rõ Thật Tướng của các pháp, lìa hai
bên tương đối để vào Pháp Môn Bất Nhị tuyệt đối, chẳng cần phân
biệt, so sánh, suy lường, tưởng tượng nhớ lại. Ðức Phật không
chấp các hình tướng giả dối vọng hoặc bề ngoài, biến đổi luôn
luôn, vô ngã vô thường, mà Ngài thấy ngay cái Thể Tánh bên
trong, thường hằng bất biến, chân thật, danh từ Phật học gọi là
Thật Tướng, Chân Như, Bản Lai Diện Mục... Vì Thật Tướng không có
tướng nên gọi là Không Tướng, vì nó sinh ra các pháp nên gọi là
Bản Thể, Chân Không Diệu Hữu. Phật dạy trong Kinh Kim Cang:
“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi
tướng tức kiến Như Lai”, nghĩa là những vật có tướng đều là giả
huyễn, nếu ai thấy được cái Tướng Không của mọi vật thì thấy
Chân Lý. Sự hiểu biết của Phật luôn luôn đúng với Chân Lý nên
người đời tôn Ngài là Chánh Biến Tri.
-
Ðại ý đoạn này là ông A Na Luật còn
chấp tướng sinh diệt, có trong ngoài xa gần, còn Trưởng giả Duy
Ma Cật phá tướng, nói về Thể bất sinh bất diệt, phá cả tướng
ngoài lẫn tướng trong, không có hai tướng, hai bên. Khi không có
hai tướng thì không khởi tâm so sánh tốt xấu, sang hèn, dài
ngắn, xa gần, yêu ghét, nhờ đó không khởi phiền não, tâm an định
như mặt hồ, ánh sáng mặt trăng chiếu soi rõ ràng. Khi tiếp xúc
với ngoại cảnh ở đời mà giữ tâm phẳng lặng, an trú trong thiền
định thì chúng ta không bị thói hư tật xấu chi phối, không bị
tham sân si làm rối loạn, nhửng cảnh tượng quá khứ hiện tại vị
lai đều do thiên nhãn làm hiện ra cũng không ảnh hưởng được tâm
bồ đề không có hai tướng.
-
Vua Trời Nghiêm Tịnh và quyến thuộc,
từ trước chỉ tu Thập Thiện (mười điều lành), hưởng phước báo mà
thiếu phần công đức trí huệ, nay được nghe Chân Lý rốt ráo thì
thấy thật là chưa từng có, nên tất cả đều phát tâm cầu Phật Ðạo,
đảnh lễ tạ ơn trưởng giả Duy Ma Cật rồi biến mất, trở về Thiên
Cung. Ông A Na Luật thấy sự hiểu biết của mình còn thua kém
nhiều trí huệ sáng suốt, biện tài vô ngại của Bồ Tát Duy Ma Cật
nên không kham lãnh đến thăm bệnh ông.
-
Ðức Phật bảo ông Ưu Ba Ly đi thăm
bệnh, ỏng này từ chối vì trước đây có hai vị Tỳ Kheo phạm luật
hạnh đến hỏi, ông y theo pháp giảng giải, thì trưởng giả Duy Ma
Cật đến bảo rằng. Chớ kết thêm tội làm rối loạn lòng họ, vì tội
Tánh không ở đâu cả do Tâm tạo. Hiểu được vậy mới là giữ luật.
-
Ưu Ba Ly, phiên âm chữ Phạn Upali,
dịch nghĩa là Cận Thủ, Cận Chấp: ở gần bên cạnh mà giữ lấy, nắm
lấy, ý nói ông Ưu Ba Ly thân cận Phật nắm giữ giới luật chặt
chẽ. ông vốn là một người thợ cắt tóc tại thành Ca Tỳ La Vệ. Một
hôm thấy sáu Hoàng Tử đi tới chỗ Phật xin xuất gia, ông xin đi
theo, sáu Hoàng Tử đồng ý và nhường ông thọ giới trước, chứng tỏ
sáu vị đã bỏ sự phân chia giai cấp. Ông Ưu Ba Ly tu hành rất
tinh tấn chẳng bao lâu đã đắc quả A La Hán và được Ðức Phật khen
là giữ luật đệ nhất, không phạm giới cấm. Kinh Avadana Jataka
chép rằng có 500 Hoàng Tử họ Thích tới xin xuất gia, thấy A La
Hán Ưu Ba Ly thì họ chẳng chào lạy, vì trước kia ông Ưu Ba Ly
vẫn cắt tóc cho họ. Ðức Thế Tôn dạy các Hoàng Tử phải tới kính
lạy chào ông Ưu Ba Ly vì trong Giáo Hội của Phật chỉ kể đức hạnh
tu chứng chứ không kể địa vị chức tước trong xã hội. Tại kỳ kết
tập kinh điển lần thứ nhất, ông Ưu Ba Ly đọc lại những giới luật
do Phật chế ra, gom lại thành Luật Tạng.
-
Có hai Tỳ Kheo phạm luật hạnh, hổ
thẹn không dám bạch Phật, đến hỏi ông Ưu Ba Ly nhờ giải tội cho.
Ðây là môt phương pháp sám hối, trình bày lỗi lầm cho vị Thanh
Văn giữ luật bậc nhất, vị này cứ y theo luật Phật mà giải nói.
Ngài ưu Ba Ly đứng về sự tướng mà nói, phạm giới gì thì bị trừng
phạt như thế nào để họ ăn năn chừa lỗi, không dám tái phạm. Ðứng
về sự tướng thì thấy có người phạm giới, có giới luật bị phạm,
có người bị trừng phạt. Nhưng theo Trưởng giả Duy Ma Cật đứng về
Thể Tánh tuyệt đối mà luận thì ông Ưu Ba Ly chẳng nên nói vậy,
chớ kết thêm tội cho họ, chớ làm rối loạn lòng họ, phải dứt bỏ
ngay lời kết tội sai trái này. Họ phạm tội đã hối hận khổ lắm
rồi, trừng phạt làm họ khổ thêm, ví như họ bị kết thêm tội nữa.
Tâm họ đã lo sợ buồn phiền, trừng phạt làm họ rối loạn trong
lòng, thêm phần đau khổ. Lời ông Duy Ma Cật quy tất cả về Tâm,
nhất thiết do Tâm tạo, Tâm tạo Thiên Ðường, Tâm tạo Ðịa Ngục,
nhưng tìm Tâm chẳng thấy đâu, giống như Kinh Lăng Nghiêm đã
giảng rõ. Tâm như thế nào thì tội tánh cũng như thế đó. Nói Tâm
nhơ là để cho dễ hiểu, đó là vọng tâm vọng thức, chứ Chân Tâm
thì chẳng phải nhơ chẳng phải sạch.
-
Trong nghi thức sám hối có câu: “Tội
do Tâm sinh tất do Tâm diệt, Tâm diệt hết thì tội cũng không
còn. Tội hết, Tâm diệt, cả hai đều Không, Thế mới thật là chân
sám hối.” Tội lỗi cũng như tất cả các pháp đều do Tâm sinh ra,
rồi cũng đo Tâm diệt đi, tùy Tâm biến hiện. Khi Tâm không tạo
tác thì tội không còn. Nếu thấy có Tâm có tội thì còn chấp ngã
chấp pháp, người tu hành phải thấy tội tánh vốn Không, Tâm cũng
Không, chắng còn chấp gì nữa mới là sám hối chân chánh. Không
đây chẳng phải là không ngơ, mà là do duyên hợp mà thấy có, là
giả huyễn, là vọng tưởng điên đảo, không có thật. Chúng sinh vì
si mê vọng tưởng như người chiêm bao, Chân Tâm trở thành vọng
thức, thấy có gây nhiều tội lỗi phạm giới. Khi tỉnh giác, vọng
thức biến đi, Chân Tâm chiếu sáng như người chiêm bao chợt tỉnh,
hết mê mờ điên đảo, thì chẳng thấy có tội lỗi gì nữa. Vì sao? Vì
tội lỗi không thật có. Những gì chúng ta làm trong gịấc chiêm
bao đều là giả cả. Ðiều quan trọng là phải tỉnh giấc chiêm bao,
biết đâu là Chân, đâu là vọng, đâu là thật, đâu là giả.
-
Tội là gì? Tội là kếl quả của một
việc làm xấu ác, trái với Chân Lý. Ai làm ? Ðã biết rằng không
có ta (phá chấp ngã), không có việc làm tội lỗi sái quấy (phá
chấp pháp), không có người hay vật bị ta làm quấy, tất cả đều là
giả, là Không, đã chẳng có người gây thì làm gì có tội. Ðây là ý
nghĩa câu: tội Tánh vốn Không. Chỉ vì vọng tưởng đảo điên, vọng
thức che lấp Chân Tâm nên thấy là nhơ, chúng sinh và các pháp
đều nhơ. Khi giác ngộ, vọng thức tan biến, Chân Tâm hiển hiện
thì chúng sinh và các pháp trở thành trong sạch. Tất cả đều do
Tâm, Tâm Thanh tịnh thì pháp thanh tịnh, không còn tội cấu nữa.
-
Vậy nhơ sạch đều do Tâm, do có vọng
tưởng điên đảo chấp ngã hay không. Câu nói tất cả chúng sinh Tâm
Tướng không nhơ là có ý nghĩa chúng sinh đều có Phật Tánh vốn
thanh tịnh, không hề nhơ uế nhiễm ô. Chỉ vì một niệm bất giác vô
minh vọng động nổi lên, ví như người đang chiêm bao mê thấy có
ta có người, có cảnh vật nhơ sạch, lúc tỉnh dậy thấy chỉ là giấc
mơ thôi, không thật có. Cuộc đời là giả, các pháp là giả, vô
thường vô ngã, sinh diệt không dừng, như trăng dưới nước, như
bóng trong gương. Có ai bị trừng phạt vì một tội gây ra trong
giấc chiêm bao không ? Cuộc đời là giấc mộng dài, tội Tánh vốn
Không, ai biết rõ nghĩa này, thấu được Chân Lý cứu cánh, gọi là
khéo hiểu, gọi là giữ luật chân chánh.
-
Ðến đây cần phải giải thích thêm cho
rõ, kẻo có sự hiểu lầm tai hại. Sau khi học xong đoạn kinh trên,
có thể có một số người đặt câu hỏi: Tội Tánh vốn Không, vậy có
cần giữ giới theo luật Phật không? Xin đáp: Rất cần. Ðứng về
Tánh thì không có tội báo chi cả, nhưng đứng về Tướng thì vẫn có
tội báo. Hiểu lý vô thường vô ngã, thâm nhập Bản Tánh Chân
Không, nhưng còn thân xác ngũ uẩn, còn sống trong thế gian thì
còn phải giữ giới luật, giữ cả trong Tâm, giữ cả ngoài thân, mọi
hành động tạo tác đều y theo gịới luật, nhưng khi Tâm đã thanh
tịnh, không còn dính các pháp thì giữ giới mà không thấy mình
giữ giới, không thấy giới phải giữ, mới là giữ giới. Vì sao? Tâm
thanh tịnh thì không thế nào làm việc xấu ác phạm giới luật nữa,
cứ thản nhiên mà sống, tự nhiên mà làm, chẳng chú tâm mà việc
làm nào cũng lành tốt, không vọng tưởng si mê, hết nhiễm ô xấu
ác.
-
Cần hiểu chữ Không của Phật Giáo Ðại
Thừa chẳng phải là không ngơ mà là Chân Không Diệu Hữu, là Bản
Thể Chân Như nguồn gốc của các pháp, là Thật Tướng. Ðối với
người đã có trình độ hiểu hiết giáo lý khá sâu thì có thể nói
Tội Tánh vốn Không, các pháp đều là Không, vì người ấy đã hiểu
rõ đâu là Chân Tâm, đâu là vọng thức. Lúc mê ngủ thì thấy có,
lúc tỉnh giấc thì thấy không.
-
Nhưng đối với hạng người sơ cơ chưa
nắm vững lý Không của Ðại Thừa thì nên phương tiện đứng về Tướng
mà nói: có tội phước, quả báo, có các pháp lành dữ... khiến cho
họ sợ tội mà không dám phạm gíới, họ lam phước mà tu các pháp
lành. Rồi lần lần khi họ đã thâm nhập giáo lý, lúc đó phải đứng
về Tánh mà nói lên sự thật: tất cả là Không. Tóm lại, phải tùy
căn cơ chúng sinh mà dạy luật, thuyết pháp.
-
Theo giáo lý Tiểu Thừa thì có tội
phước nhân quả rõ ràng, gây tội phải đền, phải ăn năn sám hối,
làm việc tốt để chuộc lỗi xưa đền bù lại. Tiểu Thừa coi việc giữ
giới tướng hết sức quan trọng, chuộng hình thức giữ giới bề
ngoài, thí dụ: không nhìn ngó người nữ, không giữ tiền, không ăn
quá giờ Ngọ, lỡ phạm tội thì phải ghi nhớ để không tái phạm. Đại
Thừa coi Tâm Giới quan trọng hơn Giới tướng, tuy không bỏ giới
tướng. Ðứng về Tánh thì tội là Không. Ðứng về Tướng thì lỡ có
tội phải tự tâm ăn năn sám hối thì tội sẽ tiêu. Ðại Thừa không
dồn ép người lở phạm tội vào chân tường, không đuổi người xuất
gia về thế tục, mà cho họ có cơ hội thực tâm sám hối, quay về
tâm thanh tịnh thì sẽ thấy nhẹ nhàng đã sám hối rồi thì quyết
tâm không phạm tội nữa, như vậy thì sự sám hối mới được gọi là
chân chánh. Ai kết tội? Theo tín ngưỡng bình dân thì có Ðịa
Ngục, Diêm Vương, Quỷ Sứ hành tội. Theo Phật Giáo Ðại Thừa thì
tất cả do Tâm tạo, nguồn gốc quan trọng là Tâm, những hành động
phát xuất từ Tâm mới là đáng kể. Tội chia làm hai loại: vô tình
hay cố ý. Nếu vô tình phạm tội thì nhẹ, sám hối có thể hết tội,
trong lòng thanh thản. Nếu cố ý phạm tội thì nặng, phải tốn
nhiều tâm cơ thời giờ, phải làm nhiều công đức mới rửa sạch tội
lỗi. Nếu vì không biết mà phạm tội thì dễ được tha thứ, nếu đã
biết mà còn vi phạm giới luật thì khó mà trừ bỏ những ám ảnh ray
rứt nội tâm. Trong Kinh điển Ðại Thừa có nhiều thí dụ điển hình
các Bồ Tát vì lợi tha mà phạm tội: tiền thân Ðức Phật có lần đã
giết mấy lái đò tướng cướp để cứu những người khách thương vô
tội, các Bồ Tát thị hiện phạm giới để răn chúng sinh. Vì lợi ích
chúng sinh mà làm những việc người thường cho là tội lỗi, nhưng
đối với các Bồ Tát đã hiểu năm uẩn là Không thì làm gì có tội.
Bàn tay có vết thương khi mó vào thuốc độc thì dễ bị làm độc,
còn tay không bị thương thì dù có mó vào thuốc độc cũng không hề
gì. Thấy việc khó làm, cứu người mà phạm giới thì người tu theo
hạnh Tiểu Thừa liền lánh xa, còn người có tâm hạnh Bồ Tát thì tự
nguyện xông vào làm, mong sao cứu giúp được chúng sinh, còn
riêng mình bi thiệt thòi, bị tội cũng chấp nhận. Ðó là Tâm Ðại
Bi, quên mình vì người.
-
Ông Ưu Ba Ly tu hạnh Thanh Văn, luận
tội phạm giới do việc làm, còn chấp tướng, thấy có hai Tỳ Kheo
phạm giới, có giới bị vi phạm, có tội phải chịu nhận, lãnh thọ.
Còn Trưởng giả Duy Ma Cật thực hành Bồ Tát Ðạo, thấy tất cả do
Tâm phát xuất thì dùng Tâm sám hối sẽ thấy tội tánh vốn Không.
Năm uẩn là Không thì tội cũng là Không, là huyễn. Chỉ cần thức
tỉnh giác ngộ là giải quyết mọi vấn đề, dĩ nhiên không bao giờ
phạm tội nữa, đó là sám hối, đó là giữ luật, đó là khéo hiểu.
-
Ðoạn kinh trưởng giả Duy Ma Cật
thuyết cho ông Ưu Ba Ly và hai Tỳ Kheo nghe là nói với những
người đã tiến bước khá xa trên đường giác ngộ để dẫn tư tưởng
Tiểu Thừa bước sang tư tưởng Ðại Thừa, từ lý vô thường sinh diệt
bước sang lý Chân Không Diệu Hữu bất sinh bất diệt của Bát Nhã.
Hai vị Tỳ Kheo nghe xong, như người chiêm bao chợt tỉnh, dứt hết
nghi hối, tán thán Trưởng giả Duy Ma Cật là bậc thượng trí, cả
hai Tỳ Kheo đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác và phát
nguyện cầu cho tất cả chúng sinh đều được biện tài như vậy. Ðó
là tự giác giác tha, tự lợi lợi tha, không nguyện cho riêng mình
mà nguyện cho tất cả chúng sinh đều có biện tài, đó là bằng
chứng hai vị đã bỏ con đường hẹp ích kỷ mà bước sang con đường
lớn vị tha.
-
Ông Ưu Ba Ly cũng công nhận và khâm
phục biện tài nhạo thuyết của Trưởng giả Duy Ma Cật, ngoài Ðức
Như Lai ra, không ai sánh bằng, trí huệ của trưởng giả thông
suốt khôn lường, vì vậy ông không kham lãnh đi thăm bệnh.
Ðức Phật bảo ông La Hầu La đi thăm
bệnh, ông này cũng từ chối vì nhớ lại truớc kia, một số các
trưởng giả tử đến hỏi việc xuất gia có lợi ích gì, ông liền đúng
theo pháp mà nói lợi ích của công đức xuất gia. Lúc đó Cư Sĩ Duy
Ma Cật đến bảo rằng không nên nói lợi ích của công đức xuất gia,
vì xuất gia là vô vi, không lợi không công đức.
-
La Hầu La, phiên âm chữ Phạn Rahula,
dịch nghĩa là Phú Chướng, che án chướng ngại. Ông là con của
Thái Tử Tất Ðạt Ða và công chúa Da Du Ðà La. Thái Tử đặt tên con
là La Hầu La có ý nói đứa con sinh ra làm che án mặt trời trí
tuệ và làm chướng ngại cho việc xuất gia tu hành tìm đạo giải
thoát. Sau khi Thành Ðạo, Ðức Thế Tôn trở về thành Ca Tỳ La Vệ
để độ cho gia tộc. Ngài bảo ông Xá Lợi Phất làm lễ xuất gia cho
La Hầu La lúc đó mới bấy tuổi. La Hầu La lúc mới tu rất ương
ngạnh khó dạy, vì còn ít tuổi nhỏ dại, ở trong cung được nuông
chiều, xuất gia cậy là con Phật, sau nhờ Phật dùng phương tiệu
giáo hóa nên biết vâng lời và tôn trọng giới luật, chuyên cần tu
học, đắc quả A La Hán, được Phật khen là mật hạnh đệ nhất. Mật
hạnh là giới hạnh sâu kín bí mật, dụng ý sâu xa, người phàm
không hiểu nổi. Từ xưa, ông đã phát nguyện đời đời làm con của
chư Phật quá khứ hiện lại vị lai để lãnh thọ giáo pháp, mãi cho
đến khi tự mình thành Phật hiệu là Ðạo Thất Bảo Hoa Như Lai,
nghĩa là vị Phật bước đi trên hoa bảy báu. Ông viên tịch trước
Ðức Thích Ca.
-
Ðoạn kinh này bàn về việc xuất gia.
-
Muốn cho sự tu hành có kết quả tốt,
đoạn trừ phiền não khổ đau, phát huy trí huệ, một số người bỏ
nhà đi tu, cát ái ly gia, mong dứt đường sinh tử, ra khỏi luân
hồi, vào chùa nhập chúng giữ giới tu hành, gọi là xuất gia. Ở
nhà (tại gia) thì khó tu vì có nhiều gia duyên ràng buộc, còn
bổn phận với gia đình, họ hàng, làng nước, xã hội... Ðây là đứng
về tướng thông thường mà nói, nhưng nếu đứng về Tánh mà luận thì
xuất gia hay tại gia cũng giống nhau, miễn làm sao cho Tâm thanh
tịnh là được giác ngộ và giải thoát.
-
Ông La Hầu La nói xuất gia có lợi
ích, đó là đứng về tướng, còn Cư Sĩ Duy Ma Cật nói xuất gia
không lợi, không công đức, và là pháp vô vi, đó là đứng về Tánh
mà luận. Pháp hữu vi có hình tướng sinh diệt, tạo tác chuyển
động, còn pháp vô vi thì không hình tướng, hết sinh diệt, bất
biến, chẳng tạo tác, chẳng chuyển động. Ðứng về tướng thì ông La
Hầu La nói đúng, xuất gia dễ tu hành, hết bị ràng buộc vì gia
đình, danh lợi, bổn phận công dân, tu hành được nhiều lợi ích và
công đức, thân tâm an định, phiền não đoạn trừ, có trí huệ, được
tự tại, mọi người kính trọng, tự giác giác tha, tự lợi lợi tha,
lần lần được giác hạnh viên mãn, thành Phật.
-
Còn Cư Sĩ Duy Ma Cật đứng về Tánh,
thấy xuất gia là pháp vô vi nên không lợi ích, không công đức,
xuất gia là tự mình cắt đứt những dây trói do chính mình tạo ra
và tự trói, xuất gia là trở về với Bản Tâm Thanh tịnh, với Phật
Tánh nhất như, có được gì đâu mà nói lợi, nói công đức. Thấy
không lợi, không công đức thì mới hết tham, hết vọng tưởng.
-
Nói theo thói thường thì xuất gia để
cầu Phật Ðạo hay đắc quả Phật. Ðứng về lập trường Bát Nhã, thâm
nhập Chân Như thì xuất gia là vô cầu, vô chứng, vô đắc. Nếu cầu
là còn chấp ngã chấp pháp, còn tham, phải xuất gia với lòng hỷ
xả hoàn toàn tam luân không tịch thì mới đúng lý. Vô chứng vô
đắc vì chúng sinh sẵn có đầy đủ Phật Tánh, sẵn có trí huệ sáng
suốt, chỉ vì vô minh vọng tưởng một niệm bất giác nổi lên che
lấp Bản Tâm mà bị trầm luân sinh tử, nếu hết vô minh thì trở về
với sự thanh tịnh sáng suốt trở về với ngôi vị Phật sẵn có, thì
có gì đâu mà chứng với đắc ? Kinh Pháp Hoa đưa ra thí dụ Cùng Tử
và viên ngọc trong áo người say là muốn diễn tả ý này.
-
Cư Sĩ Duy Ma Cật đứng về Lý Tánh
tuyệt đối mà nói, muốn đưa hàng Thanh Văn thâm nhập tư tưởng Ðại
Thừa, thì xuất gia không lợi, không công đức. Nhưng đối với
những hạng người sơ cơ nói vậy có thể gây hiểu lầm, làm nản chí
người muốn xuất gia. Vậy cần phải tùy căn cơ mà nói; đối với
người mới tu thì nên nói theo sự tướng, nghĩa là xuất gia có
lợi, có công đức như lời ông La Hầu La. Cư Sĩ Duy Ma Cật cũng
vậy, sau khi đứng về Thể Tánh mà nói, Ngài quay về sự tướng mà
nói tôn chỉ của việc xuất gia, như vậy lý sự mới viên dung. Xuất
gia phải như thế nào, tu những pháp môn gì... được như thế mới
là xuất gia. Rõ ràng là Ngài không chú trọng vào hình thức bề
ngoài, đầu tròn áo vuông, bỏ gia đình đi ở chùa, mà Ngài hoàn
toàn chú trọng vào Tâm, sửa Tâm. Minh Tâm Kiến Tánh thì dù ở nhà
(tại gia) hoặc ở chùa (xuất gia) cũng đều như nhau.
-
Có bốn trường hơp xảy ra cho người tu
hành:
-
1) Thân xuất gia, Tâm xuất gia.
-
2) Thân xuất gia, Tâm tại gia.
-
3) Thân tại gia, Tâm xuất gia.
-
4) Thân tại gia, Tâm tại gia.
-
Nếu thân xuất gia mà tâm cũng xuất
gia luôn, lìa bỏ tham sân si, diệt trừ phiền não ái dục thì Phật
Quả sớm viên thành. Nếu thân xuất gia mà tâm còn tại gia thì chỉ
có hình tướng bề ngoài, tham sân si chẳng rời, danh lợi tài sắc
chẳng rời, uổng phí của cúng dường của thí chủ, sau này khó
tránh khỏi việc mang lông đội sừng. Nếu thân tại gia mà tâm xuất
gia thì tuy còn sống ở đời, có gia đình vợ con, có địa vị bổn
phận trong xã bội, nhưng tâm đã thanh tịnh nhẹ nhàng, làm việc
mà không cầu gì cho riêng mình, chỉ mong lợi ích cho chúng sinh,
biết tu sáu pháp Ba La Mật (Lục Ðộ), coi danh lợi như đôi dép
bỏ, có công đức gì thì hồi hướng cho chúng sinh đồng thành Phật
Ðạo, thì người đó là hiện thân của Bồ Tát, như hoa sen trong bùn
mà không nhiễm hôi tanb, đúng là:
-
Thân tuy còn ở Ta Bà,
-
Mà lòng đã gửi bên tòa hoa sen.
Nếu thân tại gia mà tâm cũng tại gia
thì Phật Tánh bị bụi trần che lấp quá dầy, mặt trăng bị mây đen
che kín, chưa biết bao giờ mới biết đến sự tu hành, người đó còn
bị trầm luân nhiều đời nhiều kiếp.
-
Muốn có lợi, có công đức thì người
xuất gia phải thọ giới, giữ giới, Sa Di giữ 10 giới, Tỳ Kheo giữ
250 giới, Tỳ Kheo Ni giữ 348 giới, giữ đủ 250 giới hoặc 348 giới
thì được gọi là Cụ Túc Giới, đầy đủ giới hạnh của người xuất
gia.
-
Cư Sĩ Duy Ma Cật bảo các Trưởng giả
tử nên cùng nhau xuất gia tu theo Chánh Pháp, vì Phật ra đời khó
gặp. Các trưởng giả tử đáp: “Chúng tôi nghe Phật dạy: Cha mẹ
không cho, không được xuất gia.” Cư Sĩ Duy Ma Cật nói: “Phải,
các người nếu phát tâm vô thượng bồ đề, đó chính là xuất gia, đó
chính là đầy đủ giới pháp.”
-
Phát tâm vô thượng bồ đề cũng đồng
nghĩa với phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác đã nói ở
trên. Ðầy đủ giới pháp là đầy đủ giới luật (Cụ Túc Giới), phép
tắc tu hành. Tuy không có những hình thức bề ngoài (cạo đầu, đắp
y, ở chùa...) của các vị Tỳ Kheo xuất gia, nhưng nếu phát tâm vô
thượng bồ đề, tu hành Thanh tịnh giác ngộ, giải thoát, phá hết
chấp trước giả tướng bề ngoài, sống với Chân Lý thì người cư sĩ
tại gia cũng có được một đời sống an nhiên tự tại dứt bỏ, đó
chính là giữ đầy đủ giới hạnh thanh tịnh hòa hợp của đoàn thể
Tăng Già.
-
Ðoạn này đề cao đường lối tu tại gia,
thân không xuất gia nhưng nếu tâm Thanh tịnh, đời sống giải
thoát hướng về giác ngộ, nương theo Trung Ðạo thì như vậy chinh
là giữ được Cụ Túc Giới, chính là xuất gia một cách chân chánh,
lợi ích và công đức tuy vô vi nhưng không thể nghĩ bàn. Tuy ca
tụng lối tu tại gia nhưng Cư Sĩ Duy Ma Cật không hề chống đối
xuất gia, ông muốn dạy chúng ta là đừng quan trọng hóa vấn đề
tại gia hay xuất gia, cảl hai lối tu đều tốt như nhau miễn là
giữ được tâm thanh tịnh, bình tĩnh trước mọi cảnh, giữ Giới thì
tâm được Ðịnh, Trí Huệ phát sinh. Muốn tu Giới, Ðịnh, Huệ thì
khi vọng niệm khởi, phải biết nó là vọng, đừng cho tiếp tục nổi
lên, biết nó là vọng thì nó sẽ lìa, chấm dứt mọi vọng mệm là ra
khỏi nhà vô minh, chính là xuất gia vậy.
-
Nghe xong lời dạy của Cư Sĩ Duy Ma
Cật, 32 trưởng giả tư đều phát tâm vô thượng bồ đề: sau khi nghe
thì suy nghĩ, hiểu biết, chấp nhận và thực hành, sửa đổi, đó là
Văn, Tư, Tu, ba pháp môn tu hành chân chánh. Ông La Hầu La thấy
sự hiểu biết của hàng Thanh Văn còn cạn cợt, còn chấp tướng,
chưa phá trừ được pháp chấp, không thể ví với trí huệ sáng ngời
của Bồ Tát, tuy còn ở đời mà an nhiên tư tại, diệt trừ mọi chấp
trước, Tâm hoàn toàn thanh tịnh, nên không đám đi thăm bệnh.
-
Ðức Phật bảo ông A Nan đi thăm bệnh,
ông nàv cũng từ chối, vì nhớ lại lúc trước, Thế Tôn thân hơi có
bệnh, ông đi xin sữa thì gặp Cư Sĩ Duy Ma Cật đến bảo rằng thân
Nhu Lai là Thể Kim Cang, là Pháp Thân, làm sao có bệnh được.
- A
Nan, viết cho đủ là A Nan Ðà, phiên âm chữ Phạn Ananda, dịch
nghĩa là Khánh Hỷ, là em họ con nhà chú của Thái tử Tất Ðạt Ða.
Hai năm sau khi Ðức Phật thành Ðạo, ông A Nan cùng với năm Hoàng
Tử xin xuất gia theo Phật tu hành. Ông thông minh xuất chúng,
chăm chỉ học hành, không bao lâu sau khi nghe một bài pháp của
Ðại Ðức Purna Maitrayaniputra (Phú Lâu Na), ông đắc quả Tu Ðà
Hoàn, dịch nghĩa là Nhập Lưu, nhập vào dòng Thánh.
-
Khi Ðức Phật được 55 tuổi, cần một
thị giả để hầu bên cạnh Phật làm giúp những việc thường ngày,
tất cả các đệ tử đều xin được hân hạnh phục vụ, nhưng Phật khước
từ, muốn dành việc này cho ông A Nan, vì biết có duyên lành từ
trước. Ông A Nan xin nhận việc này với tám điều thỉnn cầu:
-
1) Ðức Phật không ban cho ông những
bộ y do thiện tín dâng cúng Phật.
-
2) Ðức Phật không ban cho ông những
vật thực do thiện tín cúng Phật.
-
3) Đức Phật không cho phép ông cùng ở
trong một tịnh thất.
-
4) Ðức Phật không cho phép ông đến
nơi nào thí chủ thỉnh Phật.
-
5) Ðức Phật sẽ hoan hỷ đi cùng ông
đến nơi nào thí chủ thỉnh ông.
-
6) Ðức Phật cho phép ông tiến dẫn
khách đến yết kiến Phật.
-
7) Ðức Phật cho phép ông bạch hỏi mỗi
khi có điều nghi ngờ
-
8) Ðức Phật sẽ hoan hỷ lập lại những
bài Pháp mà Phật giảng trong lúc ông không có mặt tại đó.
-
Sở dĩ ông A Nan yêu cầu tám điều này
là để tránh sự ganh tỵ trong hàng đệ tử Phật có thể dị nghị Phật
ưu đãi ông vì thương yêu hơn người khác, hoặc vì có liên bệ họ
hàng mà đối xử đặc biệt với ông. Ðức Thế Tôn chấp thuận tám lời
thỉnh cầu đó và ông A Nan trở thành thị giả thường xuyên hầu cận
Phật trong suốt 25 năm trường. Như bóng theo hình, ông theo Phật
đi khắp mọi nơi, chăm sóc mọi nhu cầu của Phật, nhờ đó được nghe
những bài thuyết pháp của Phật. Ông học rộng nghe nhiều nên được
Phật công nhận là đa văn bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử.
Ông có trí nhớ dai lạ thường, dù không ghi chép bằng chữ viết mà
ông nhớ được tất cả những lời Phật nói, cho nên trong kỳ kết tập
kinh điển lần thứ nhất sau khi Phật nhập diệt, ông được mời ra
nói lại những lời Phật dạy, họp lại thành Kinh Tạng. Chữ Ngã
trong bốn chữ Như Thị Ngã Văn (Ðúng thực tôi nghe) mở đầu mỗi bộ
kinh là chỉ ông A Nan.
-
Có nhiều chuyện liên quan tới ông A
Nan:
-
1) Ông có dung nhan đẹp đẽ nên bị
nàng Ma Ðăng Già dùng tà chú mê hoặc, nhờ Phật sai Bồ Tát Văn
Thù đem bài thần chú Thủ Lăng Nghiêm tới giải cứu.
-
2) Ông chuyên học rộng nhớ nhiều
nhưng kém phần tu chứng, trong Kinh Lăng Nghìêm, Ðức Phật nhiều
lần chỉ Tâm cho ông tỏ ngộ.
-
3) Ông thỉnh cầu Phật cho phép phụ nữ
được gia nhập Giáo Hội, nhờ vậy bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề (Maha
Pajapati, dì của Thái Tử Tất Đạt Ða), bà Da Du Ðà La (Yasodhara,
vợ của Thái Tử) cùng một số phụ nữ được xuất gia làm Tỳ Kheo Ni,
do đó các Tỳ Kheo Ni đều biết ơn và kính trọng ông.
-
Một lần nọ, ông bạch Phật:
-
- Bạch Thế Tôn, chúng con phải đối xử
với phụ nữ như thế nào?
-
- Này A Nan, dường như không trông
thấy.
-
- Nếu đã trông thấy rồi, chúng con
phải làm thế nào?
-
- Này A Nan, không nên nói chuyện.
-
- Nếu được hỏi. chúng con phải làm
sao?
-
- Phải cẩn thận đề phòng, giữ vững
chánh niệm.
-
Mặc dù học rộng nghe nhiều nhớ dai,
ông A Nan vẫn chưa đắc quả A La Hán khi Ðức Phật nhập diệt.
Trong khi đó, nhiều đệ tử Phật học kém, ít thông minh, nhưng nhờ
công phu tu hành tinh tấn, được giác ngộ đắc quả A La Hán. Ðến
khi kết tập kinh điển lần thứ nhất gồm toàn các vị A La Hán, ông
không được mời dự. Ông liền tận lực tu thiền định và đắc quả A
La Hán trong đêm trước ngày khai mạc hội nghị khi nghiêng mình
nằm xuống, không phải trong tư thế đi đứng ngồi nầm. Nhờ chứng
quả mà ông được vào dự hội nghị, đóng vai trò quan trọng trong
việc kết tập Kinh Tạng.
-
Khi ông A Nan nói: thân Ðức Thế Tôn
hơi có bệnh, là ý muốn nói về Ứng Thân, nhục thân, có 32 tướng
tốt, 80 vẻ đẹp, thị hiện ra đời như một người thường, nên có lúc
khỏe mạnh, có lúc đau yếu bị bệnh. Còn Cư Sĩ Duy Ma Cật lại ám
chỉ Pháp Thân bất hoại, là thể kim cang, làm sao bị bệnh được.
Kim cang là một kim loại rất cứng không thứ gì làm vỡ nó được,
mà nó lại hay phá vỡ các chất cứng khác, kim cang cũng rất quý
giá, trong sạch, chiếu sáng. Pháp Thân Phật rộng lớn trang
nghiêm rực rỡ chiếu sáng không thể nghĩ bàn, cho nên ví thân
Phật như kim cang, quý nhất trong các chất cứng, sáng nhất trong
các vật chiếu sáng, ý nói thân Phật tốt đẹp không gì bằng, vô
lậu vô vi, thân như thế làm sao có bệnh được?
-
Ðức Phật thường được tôn xưng là Vô
Thượng Y Vương, chữa khỏi các bệnh cho chúng sinh, không ai hơn
được. Nay nếu nói Phật bị bệnh thì có thể làm cho người ngoại
đạo chê cười: Sao gọi là Thầy, bệnh của mình không cứu nổi mà
cứu được bệnh người khác ư? Thật ra, tôn hiệu Vô Thượng Y Vương
dùng đề xưng tán Phật chữa được các tâm bệnh của chúng sinh bằng
các pháp môn thù thắng, khiến họ hết khổ được an vui, giải thoát
khỏi mọi phiền não trói buộc, tâm ý được tự tại thảnh thơi. Còn
thân bệnh thì phải trị bằng thuốc men. ông A Nan nói về thân
bệnh, Ứng Thân Phật do bốn chất (tứ đại) hòa hợp mà thành nên có
lúc bị bệnh như người thường, còn Cư Sĩ Duy Ma Cật nói Pháp
Thân, không phải thân tư dục là thân do tư tưởng ái dục duyên
hợp mà có.
-
Vô lậu là không còn rơi rớt, không
tạo nghiệp chướng rơi rớt vào trong ba cõi luân hồi. Vô vi là
không làm, không tạo tác, an nhiên tự tại, bất sinh bất diệt.
-
Không mắc vào các số lượng: số lượng
ám chỉ số tuổi, số năm tháng ngày giờ dài ngắn, số thước tấc
rộng hẹp. Không mắc vào các số lượng là không bị hạn chế trong
thời gian và không gian, nghĩa là Pháp Thân Phật rộng lớn vô
lượng vô biên, thọ mạng tuổi thọ cũng vô hạn. Ðức Phật A Di Ðà
eó danh hiệu là Vô Lượng Thọ, tuổi thọ dài vô lượng, ám chỉ Pháp
Thân.
-
Trên hư không có tiếng nói: đây có
thể là tiếng nói của một vị Phật, một vị Bồ Tát, một vị Trời,
cũng có thể là muốn diễn tả tiếng nói của Chân Tâm từ chỗ cao
siêu huyền diệu phát ra để nhắc ông A Nan sự sai khác giữa Pháp
Thân và Ứng Thân. Pháp Thân thì không bệnh, nhưng Ứng Thân thị
hiện ở đời thì cũng bị luật vô thường chi phối: sinh, già, bệnh,
chết, nhục thể Phật tuy tốt đẹp nhưng cũng bị bệnh như mọi người
khác. Nhục thể có bệnh cần sữa để trị thì cứ lấy sữa mà dùng,
chớ có thẹn.
-
Ông A Nan, dù là bậc đa văn hạng nhất
nhưng vẫn thuộc hàng Thanh Văn, thấy Cư Sĩ Duy Ma Cật có trí huệ
sáng suốt, biện tài vô ngại không ai bằng, nên không dám lãnh
nhiệm vụ đến thăm bệnh. Tất cả năm trăm vị đệ tử lớn của Phật
đều lần lượt trình bày căn nguvên duyên sự của mình, lý do vì
nhận thấy chỗ kém khuyết của mình mà không kham lãnh nhiệm vụ đi
thăm bệnh Cư Sĩ Duy Ma Cật.
-
Ðây là một đoạn kinh rất hay, lời lẽ
tuy có phần hơi gay gắt nhưng chứa đầy tình thương rộng rãi bao
la, hướng dẫn người chưa hiểu biết quay về lẽ phải, toàn là
những lời lẽ xây dựng, giúp đỡ, cảnh tỉnh. Ðây là những phương
tiện dung hòa mọi tư tưởng, quy ba thân về một thân, Tướng Tánh
Thể Dụng là một. Sự Lý nhất như, không còn phân biệt. Ðoạn kinh
này chuyển đưa tư tưỏng Tiểu Thừa sang Ðại Thừa, không còn hơn
kém mà hòa tan trong Nhất Thừa Phật Ðạo. Ðứng về Tướng và Dụng
thì Ứng Thân có bệnh, đứng về Tánh và Thể thì Pháp Thân không
bệnh, mà chính là Thật Tướng bất sinh bất diệt, bất cấu bất
tịnh.
-
Ðến đây, chúng ta đa đọc xong phần
đối thoại giữa Cư Sĩ Duy Ma Cật và mười vị đệ tử lớn của Ðức
Phật Thích Ca trình bày sự sai khác giữa trí huệ vô phân biệt
của Bồ Tát và sự hiểu biết nông cạn của hàng Thanh Văn còn chấp
tướng đối đãi hai bên, chưa thấy Tánh, chưa đạt Lý Không, chưa
đến chỗ tuyệt đối. Chúng tôi không nghĩ rằng các vị Thanh Văn
chưa sáng suốt, nhưng các Ngài thị hiện ngớ ngẩn như vậy để thay
mặt chúng sinh mở cuộc đối thoại với Bồ Tát Duy Ma Cật, nhờ đó
chúng sinh thấy rõ chỗ hèn kém chấp ngà chấp pháp của mình mà
phát tâm tinh tấn tu hành, phát tâm bồ đề vô thượng chánh đẳng
chánh giác, diệt trừ lòng mê mờ chấp ngã chấp pháp, rời hai bên
để nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, phát huy trí Huệ sẵn có của mình
mà trực nhận Chân Lý cứu cánh, tự giác giác tha, rồi sẽ được
giải thoát hoàn toàn.
- --o0o--
|
|