|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
(Kinh Duy Ma Cật Giảng Luận)
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn -
USA
1991
-
TỔNG KẾT
-
-
Ðức Phật ra đời chỉ vì nguyện lớn hóa độ chúng sinh đưa vào trí
huệ lớn lao vô thượng, đồng với Phật không khác. Muốn vậy Đức
Thế Tôn chỉ dẫn cho chúng sinh biết con đường chân chánh mà đi
theo, thẳng tới mục đích. Chư Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân
duyên là mở bày và chỉ rõ cho chúng sinh tỏ ngộ và chứng nhập
Phật Tri Kiến hay Chân Lý (Khai, Thị, Ngộ, Nhập), khi hoàn mãn
thì đại sự nhân duyên ra đời của Phật mới xong. Phật dùng nhiều
phương tiện tùy căn cơ giáo hóa khiến cho mọi loài chúng sinh
đều được lợi ích.
-
Kinh Duy Ma Cật thuộc thời Phương Ðẳng, là nhịp cầu nối tiếp
giữa tư tưởng các bộ phái Nam Tông bước sang Ðại Thừa Bắc Tông,
đưa người tu hạnh Thanh Văn sang con đường lớn của Bồ Tát và
Phật. Kinh này thuộc quyền giáo, dùng các thí dụ để đưa ra Chân
Lý tuyệt vời mà danh từ ngôn ngữ không diễn tả nỗi, Kinh này nói
cho hàng Bồ Tát và các đệ tử đã phát tâm Bồ Ðề nghe, tả rõ cảnh
giới cao siêu mà tri thức phàm phu khó tin khó hiểu.
-
Mười bốn phẩm của Kinh Duy Ma Cật được ví như mười bốn bông hoa
tươi thắm nhiều mầu nhiều hương thơm khác nhau, mỗi phẩm luận
giải một vấn đề đặc biệt. Nhưng nếu để rời rạc thì e khó nắm
được ý chính của Kinh muốn nhấn mạnh đến việc gì nên chúng tôi
thêm phần tổng kết để tóm lược và kết hợp các tư tưởng lại thành
nội dung chủ yếu của bộ Kinh này, ví như dùng một sợi dây để kết
mười bốn bông hoa thành một tràng hoa để trang nghiêm đạo
tràng.
-
Sau đây là tóm tắt cương yếu từng phẩm:
-
Phẩm I.- Sự thấy biết của chúng sinh nông cạn sai lầm, không
đúng đắn. Cõi Ta Bà vẫn thanh tịnh mà chúng sinh không thấy đó
thôi; cứ tưởng là xấu ác. Tất cả do Tâm tạo, vậy cần phải đổi
lại cái thấy xét lại quan niệm.
-
Phẩm II.- Ðề cao phương tiện đưa đến cứu cánh. Ông Duy Ma Cật
dùng phương tiện thị hiện làm Trưởng Giả ở Thành Ty Xá Li để độ
chúng sinh, thị hiện thân có bệnh để độ hàng Thanh Văn.
-
Phẩm III.- Các Thanh Văn công nhận sự thua kém của mình đối với
ông Duy Ma Cật.
-
Phẩm IV.- Các Bồ Tát tu theo Duy Thức hoặc mới phát tâm đều
không bì kịp trí huệ của ông Duy Ma Cật.
-
Từ phẩm I đến phẩm IV là phần Khai Phật Tri Kiến, mở bày Chân
Lý, giới thiệu ông Duy Ma Cật có trí huệ siêu việt hơn các hàng
đại đệ tử Thanh Văn và các hàng Bồ Tát mới phát tâm.
-
Phẩm V.- Rất quan trọng. Hai loại Trí gặp nhau, Căn Bản Trí hoặc
Vô Sư Trí của ông Duy Ma Cật đối thoại với Hậu Ðắc Trí hoặc Hữu
Sư Trí của Ngài Văn Thù Sư Lợi. Căn Bản Trí thù thắng hơn Hậu
Ðắc Trí.
-
Phẩm VI.- Hàng Thanh Văn phải quy y với Tu Di Ðăng Vương Như Lai
nghĩa là phát huy trí huệ, thắp sáng ngọn đèn huệ sẵn có trong
tâm thì mới hiểu được giáo lý Ðại Thừa, vì đó là pháp không thể
nghĩ bàn, bỏ tướng để nhập Tánh.
-
Phẩm VII.- Phá chấp ngã chấp pháp, không trụ vào đâu.
-
Phẩm VIII.- Bề ngoài là nghịch tướng, bề trong là Phật Ðạo,
nhưng không còn phân biệt, tất cả là một.
-
Từ phẩm V đến phẩm VIII là phần Thị Phật Tri Kiến, chỉ thẳng trí
huệ vô phân biệt, vô chấp.
-
Phẩm IX.- Các Bồ Tát đều đã hiểu và thực hành lý Bất Nhị, mỗi vị
dùng một đường lối tu hành khác nhau nhưng tựu trung đều nhập
vào Pháp Môn Không Hai. Ngài văn Thù vốn đã thâm nhập và hiểu lý
Bất Nhị lìa danh từ ngôn ngữ, nhưng vẩn còn nói ra là xa lìa.
Ðến ông Duy Ma Cật im lặng mới thật là nhập Pháp Môn Không Hai.
-
Phẩm IX này là phần Ngộ Phật Tri Kiến, các Bồ Tát trình bày sự
tỏ ngộ của mình, duy có ông Duy Ma Cật im lặng vì nói không được
sự tỏ ngộ của mình, bặt văn tự ngữ ngôn tâm duyên.
-
Phẩm X.- Ðừng dùng sự hiểu biết nông cạn của Thanh Văn mà phán
đoán hành động của Bồ Tát; Thể Tánh bao dung tất cả rnọi tướng
trạng, chẳng còn phân biệt lớn nhỏ nhiều ít.
-
Phẩm XI.- Thần lực tự tại của Bồ Tát, hàng Thanh Văn không thể
lấy ý mà tính được, không phải suy nghĩ mà lường được. Ðừng chấp
tướng. Cần phải tu Không, Vô Tướng, Vô Tác.
-
Phẩm XII.- Trở về Bản Thể Bất Ðộng, từ đó phát sinh các sắc
tướng, đó là Chân Không phát sinh Diệu Hữu.
-
Phẩm XIII.- Pháp cúng dường hơn tài cúng dường, đề cao sự quan
trọng của tinh thần hơn vật chất.
-
Phẩm XIV.- Ðừng khinh người mới học mới tu. Ðừng chấp tướng phân
biệt.
-
Từ phẩm X đến phẩm XIV là phần Nhập Phật Tri Kiến. Sau khi nói
về Lý, Bản Thể tuyệt đối bất khả tư nghị, Ðức Phật trở về Sự,
chỉ dạy đường lối tu hành thực tiễn để vào Pháp Môn Không Hai.
-
Chủ yếu của Bộ Kinh Duy Ma Cật là đề cao Lý Bất Nhị, vào Pháp
Môn Không Hai. Trong thời kỳ Phương Ðẳng chuẩn bị tư tưởng sắp
bước sang Ðại Thừa, một số các đệ tử Phật tu hạnh Thanh Văn,
thỏa mãn với những thành quả đạt được như A La Hán, A Na Hàm, Tư
Ðà Hàm, Tu Ðà Hoàn nhờ thực hành pháp Bốn Diệu Ðế, được ra khỏi
sinh tử luân hồi. Các vị đó thấy có pháp môn tu, có quả vị
chứng, tự giác tự lợi, cho là đủ rồi, không mong cầu tiến tu cao
hơn nữa. Vả lại, các vị Thanh Văn thấy tu Bồ Tát Ðạo rất khó
khăn cực nhọc, chúng sinh vô biên, khổ đau vô tận, phiền não vô
cùng, cõi Ta Bà xấu ác nhơ uế, tâm địa chúng sinh cang cường khó
dạy khó bảo, Ðịa Ngục khổ vô gián, Niết Bàn là cõi an vui, nên
các Ngài không kham khó nhọc lăn mình vào cõi trần để cứu độ
chúng sinh, mà chỉ muốn trầm không thú tịch, một mình an hưởng
Hữu Dư Y Niết Bàn, không có lòng mong cầu quả vị Phật.
-
Ðức Thế Tôn thường thống trách các vị Thanh Văn, gọi họ là mầm
thối giống nát, tro tàn lửa tắt, chẳng còn giúp ích gì cho ai,
chỉ chuyên tự độ mà quên độ tha, chỉ chấp tướng trạng mà quên
Pháp Tánh Bản Thể chung cùng của vạn vật. Tất cả chúng sinh đều
khới sinh từ một nguồn gốc chung có liên hệ mật thiết với nhau,
ràng buộc chặt chẻ với nhau không thể chia cắt, bứt dây động
rừng. Ðức Phật muốn đưa các vị Thanh Văn lên hàng Bồ Tát, muốn
cho họ nếm mùi vị thơm ngon của Ðại Thừa, nên nói ra một số kinh
điền thuộc loại Phương Ðẳng, dẫn từ tư tưởng Tiểu Thừa sang Ðại
Thừa, trong đó có Kinh Duy Ma Cật này.
-
Mặt khác, trước đây các Phật Tử tại gia cam phận thấp hèn, chỉ
được hướng dẫn quy y cúng dường Tam Bảo, cầu phước báo Trời
người, không dám mong được giác ngộ và giải thoát. Nay nhờ Kinh
này chỉ cho con đường hành Bồ Tát Ðạo, đường tu này chung cho cả
hai giới xuất gia và tại gia. Giới xuất gia có đường tu giải
thoát là lẽ dĩ nhiên, cắt bỏ luyến ái, lìa nhà nhập chúng, trên
cầu Phật Ðạo, dưới độ chúng sinh. Giới tại gia từ trước đến nay
không dám mơ tưởng mình cũng có đường, nay được Phật khai thị
cho con đường giải thoát, mở sáng đôi mắt đui mù, thấy con đường
chạy song song với đường của giới xuất gia, thật ra chỉ có một
con đường mà thôi, một con đường duy nhất đưa đến Phật quả, đó
là Nhất Thừa Phật Ðạo, ai tu nấy chứng, ai đi nấy đến, không
phân biệt xuất gia hay tại gia.
-
Trong bộ kinh này, Ðức Phật đề cao Lý Bất Nhị, vào Pháp Môn
Không Hai. Tại sao chẳng gọi là một mà lại gọi là Không Hai? Vì
nếu nói một là ngầm có hai, nói Không Hai rõ ràng hơn, không ám
chỉ một con số nào khác. Muốn vào Pháp Môn Không Hai thì cần
phải bỏ Tướng nhập Tánh, bỏ phân biệt đối đãi mà thâm nhập huyền
nghĩa của Kinh, ly ngôn ngữ, rời tâm duyên để chứng nhập Chân
Như. Vào Pháp Môn Không Hai thì ly ngôn tuyệt tướng, chỉ còn một
sự cảm thông trong im lặng tuyệt vời. Ðây là chỗ ông Duy Ma Cật
không nói, Ngài Ca Diếp mỉm cười. Vẫn biết lời nói hay chữ viết
không diễn tả được Chân Lý tuyệt đối nhưng nếu không dùng lời
nói hay chữ viết thì làm cách nào chỉ bày cho người khác hiểu,
làm sao dạy dỗ khiến người khác tuân theo mà tu hành, cùng hưởng
Ðạo Vị. Do đó Ðức Phật phải phương tiện hạ thấp giáo lý của
Ngài, dùng nhiều thí dụ để dắt dẫn các đệ tử, rồi sau này chư
Phật Tử phải tự lực tự giác rời bỏ phương tiện để thể nhập cứu
cánh Chân Như, y như qua sông thì phải bỏ bè lại.
-
Kinh chưa phải Chân Lý, nhưng Kinh đưa đến Chân Lý, ví như ngón
tay chỉ mặt trăng, thấy mặt trăng rồi thì không cần ngón tay,
chứng nhập Chân Lý rồi thì lìa kinh, im lặng.
-
Ðạo Phật chú trọng thực hành, không phải lý thuyết suông. Học
kinh xong rồi thì phải mang những điều hay lẽ phải trong kinh ra
áp dụng vào cuộc đời, hướng dẫn chúng sinh tu sửa thân tâm, tự
giác giác tha, cùng thành Phật Ðạo. Tôn chỉ của Kinh này là AI
TU CŨNG ÐƯỢC, Ở ÐÂU TU CŨNG ÐƯỢC, chỉ cần chuyển Tâm là cảnh
chuyển theo, cảnh nào tu cũng được, thuận cảnh hoặc nghịch cảnh
đều tu được, chỉ cần tu tâm, vì TÂM TỊNH QUỐC ÐỘ TỊNH. Phật Pháp
không cố định mà uyển chuyển thay đổi, tùy duyên áp dụng vào các
trường hợp khác nhau, nhưng mục đích thì bất biến, đó là phát
huy trí huệ sẵn có, quay về Tâm thanh tịnh sáng suốt để nắm tay
tất cả chúng sinh, cùng tiến bước tới chỗ giác ngộ và giải
thoát./.
-
Chân thành cảm ơn đạo hữu Mỹ Hồ đã đánh máy gửi tặng Thư Viện
Hoa Sen phiến bản vi tính quyển sách này. (Tâm Diệu)
- --o0o--
|
|