|
KINH TẠNG
- PHẦN BỐN
- KINH HIỀN NGU
- H. T. Thích
Trung Quán Dịch
- --o0o--
-
Phẩm Thứ Ba Mươi Chín
-
ĐẠI THÍ TÁT BIỂN
-
-
Chính tôi
được nghe: Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại núi Linh
Thứu, với các Tôn đệ tử, cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỷ
Khưu ở đó. Khi ấy đức Thế Tôn muốn dùng một người Thị Giả.
-
Các vị
Tôn đệ tử đều biết ý của Ngài như vậy. Khi đó ông Kiều Trần Như
mặc áo trễ vai hữu, tới trước quỳ thẳng chắp tay bạch rằng.
-
- Kính
lạy đức Thế Tôn! Con xin nguyện suốt đời làm Thị Giả hầu hạ Ngài,
cúi xin từ bi hoan hỷ, chấp thuận cho con được ân triêm công đức!
-
Phật dạy:
-
- Ông nay
tuổi đã già yếu, việc hầu hạ không nỡ phiền ông!
-
Ông lễ tạ
lui ra. Tiếp đến Ngài Ma Ha Ca Diếp, Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục
Kiền Liên, và năm trăm đệ tử lần lượt ra tác lễ cầu xin làm Thị
Giả. Nhưng Phật không cho ai.
-
Khi đó,
Ngài A Nan Luật xem biết ý Phật muốn dùng ông A Nan, và các bậc
đại để tử cũng đều hiểu như thế.
-
Ngài Xá
Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên đứng dậy lại bên tôi nói sẽ rằng:
-
- Này ông
A Nan! Ý Phật muốn dùng ông làm Thị Giả đấy! Riêng ông được diễm
phúc hơn chúng tôi! Vậy ông mau mau đứng lên làm lễ bạch Phật xin
thân thừa Ngài, để cho toàn thể Tăng chúng cũng được nhờ ông một
phần lớn!
-
Tôi nghe
lời hai Thượng Tọa nói rồi, chắp tay thưa rằng:
-
- Kính
thưa hai Thượng Tọa! Thế Tôn đức rộng, tuệ sâu, tôi thân cận hầu
hạ sợ sơ xuất phải tội, và chiêu họa thì sao?
-
Ngài Xá
Lợi Phất nói:
-
- Chúng
tôi xem biết đức Thế Tôn chú ý đến ông nhiều hơn, vì xét có thể
kham năng được, nên Ngài muốn dùng ông làm Thị Giả!
-
Tôi thấy
hai Thượng Tọa nói như vậy, chẳng biết làm thế nào! Tôi thưa rằng:
-
- Dạ! Nếu
hai Thượng Tọa, thưa với Phật cho được ba điều nguyện này, thì tôi
xin làm Thị Giả:
-
1- Áo cũ
của đức Thế Tôn xin Ngài đừng cho tôi dùng.
-
2
-
Đức Thế Tôn ăn thừa xin chớ cho tôi ăn.
-
3- Thời
tiết tiến hiện (Chỉ), tùy tôi lo liệu, được như thế thì tôi xin
làm.
-
Hai
Thượng Tọa đem ý kiến của tôi lên bạch Phật, Phật bảo rằng:
-
- Ông A
Nan sở dĩ không muốn mặc áo cũ của ta, là do lòng ông nghĩ xa, sợ
các đệ tử sinh tâm hiềm khích. Vua quan nhân dân cúng Phật, những
cái áo quý đẹp, cho rằng ông tham cầu mà làm Thị Giả. Hai là
chuyện không ăn cơm của ta, là lo các đệ tử sinh lòng như vầy:
Trong bát của Như Lai ăn thừa, trăm mùi ngon bổ, trên đời hiếm có,
cho rằng ông tham cầu những món ấy mà thân cận Phật hay sao? Còn
nguyện thứ ba, tự lo lượng thời tiết tiến hiện, là sợ các đệ tử,
và các ngoại đạo lại nạn vấn, trong những thời giờ không hợp pháp,
làm xúc não ta. Song làm Thị Giả, phải xem thời tiết mà dâng các
món ăn cho thích hợp, để lợi ích thân thể Như Lai, mỗi mỗi việc
đều phải có chế độ. Vì thế mà ông nguyện xin ba điều ấy. Nhưng
cũng không cứ gì thời nay ông tự biết thời tiết mà xin thế đâu!
Thời quá khứ ông đã hầu ta, và cũng khéo biết sự tiến hiện (Chỉ)
như vậy:
-
Khi đó
Ngài Xá Lợi Phất thưa rằng:
-
- Kính
lạy đức Thế Tôn! Không hay đời quá khứ, ông A Nan hầu hạ Ngài,
khép biết thời tiết, việc ấy thế nào xin nói cho chúng con được
biết nguyên do?
-
Phật dạy:
-
- Xá Lợi
Phất! Ông muốn biết, hãy để ý nghe, ta sẽ nói cho ông hay!
-
- Dạ, lạy
đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe!
-
- Xá Lợi
Phất! Đời quá khứ cách đây tính theo số A Tăng Kỳ có đến vô lượng,
thuở đó có một ông vua nước lớn cai trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ,
tám mươi ức tụ lạc, tại Châu Diêm Phù Đề, vua ngự ở thành Bà Lâu
Thi Xá. Trong thành ấy có một người Bà La Môn, có trí thông sáng,
nhà vua tôn kính như một ông thầy, tám vạn bốn ngàn ông vua nước
nhỏ đều mến mộ khâm phục, bốn phương hiến tặng, và thường sai Sứ
sang thăm viếng, nói tóm lại cũng như bầy tôi thờ vua không khác.
Nhà giàu ngang với nước, nhưng không có con để nối nghiệp nên lúc
nào ông cũng buồn! Không biết nơi đâu có thể cầu nguyện được. Bấy
giờ ông lên miếu thờ Phạm Thiên "Thiên Đế", Tứ Vương Ma Hê Thu La
và tất cả chư Thiên khác, cầu đạo ròng rã mười hai năm, do sự cầu
nguyện thành kính ấy, nên bà vợ lớn của ông có thai. Ông cho gọi
người về xem trai hay gái; có một thiếu phụ đến xem nói: - Bà có
mang con trai. Ông mừng thầm! Giao cho các cô con gái hầu hạ bà
một cách chăm chỉ cẩn thận, không được làm trái ý.
-
Đủ tháng
sinh được cậu con trai mình sắc vàng, tóc xanh mượt, trán cao, mũi
thẳng, tai dày, mắt sáng, mồm tươi rộng, nhân tướng đầy đủ, ông
vui mừng quá! Cho mời thầy về coi tướng.
-
Tướng Sư
xem xong nói:
-
- Cậu đầy
đủ phúc đức, thiên hạ chưa từng có, sau này có thể làm đến Quốc
Sư!
-
Nghe
Tướng Sư nói, ông rất hoan tâm, và nhờ đặt tên giùm. Lệ đặt tên
bao giờ cũng y vào hai điều kiện:
-
1- Tinh
tú.
-
2- Biến
điềm lạ.
-
Tướng Sư
hỏi:
-
- Thưa
ông! Trong khi bà có mang cậu bé này, thì có điềm gì lạ không?
-
- Thưa
Ngài! Bà ác nghiệp lắm, ít lòng nhân, lại không chăm tu phước tuệ
gì, từ khi có thai cháu, thì tâm tính cải đổi, thương xót kẻ nguy
nạn, hay giúp đỡ kẻ nghèo đói, chăm bố thí, không tham lam tích
cóp như xưa!
-
Tướng Sư
hoan hỷ nói:
-
- Đó là
trí lý của cậu con trai sử nhiên như vậy. Tôi xin đặt tên là Ma Ha
Sà Ca Phàn (Tàu dịch: Đại Thí).
-
Sau khi
lớn tuổi, ông bà quý lắm! Làm riêng cho một lâu đài chia làm ba
cung, để tùy theo thời tiếc nóng lạnh của một năm: mùa đông ở cung
ấm áp, mùa hạ ở cung mát, mùa xuân mùa thu ở cung giữa, sự nóng
lạnh thuần hòa, cắt đặt những thiếu nữ hầu hạ, đêm ngày cho cậu
vui chơi! Cậu có tính ham học, lại sẵn có trí thông minh, đọc
thuộc mười tám bộ kinh của thế tục, học các kỹ thuật đều tinh xảo.
Một hôm cậu thưa với ông rằng:
-
- Thưa
cha! Con ở trong cung điện này đã lâu, xin cho con du ngoạn ngoài
thôn quê, để xem dân chúng làm ăn.
-
- Ừ! Con
đi chơi, cha cho con đi.
-
Ông sai
người sửa sang đừơng sá, vảy nước thơm, dựng cờ treo phan đốt
hương, một con voi trắng lớn, trên lưng đặt bành bằng thất bảo phủ
vải gấm, teo chuông trang nghiêm cho cậu cỡi. Những người đi trước
gảy các đồ âm nhạc, đánh trống thổi kèm; đi sau có hàng ngàn người
cỡi voi cỡi ngựa theo cậu đi, trên một con đường lớn bằng phẳng,
bầu trời mát mẻ, bóng tinh quang chiếu thành năm sắc, không khác
một ông Chuyển Luân Vương giáng thế. Nhân dân nô nức ra xem, nhìn
không chán mắt, ai nấy đều khen rằng:
-
- Thực là
hiếm có, oai phong vòi vọi, lẫm liệt như một ông trời Phạm Thiên!
-
Một lát
gặp bọn khất nhi, áo quần tả tơi, chân đi thất thểu, cầm cái bát
vỡ kêu xin một chút món ăn, hoặc tiền. Đại Thí hỏi:
-
- Các
ngươi tại sao mà khổ cực như vậy?
-
- Thưa
cậu! Chúng tôi không có cha mẹ, anh em, vợ con, nghèo khổ không có
chỗ nương thân!
-
Cũng có
người nói rằng:
-
- Chúng
tôi mắc bệnh liên miên, không làm ăn gì được, hết lối sinh sống!
-
Cũng có
người nói rằng:
-
- Chúng
tội gặp lúc cơ nguy, gia đình phá tán, nợ nần nhiều quá hết lối
làm ăn, phải hành khất để nuôi thân trốn nợ!
-
Đại Thí
nghe họ nói xong, trong lòng chua xót, than lòng mà bước đi! Đi
được vài dặm, thấy lũ đồ tể mổ giết súc sinh.
-
Đại Thí
hỏi:
-
- Chao
ôi, các ông làm gì thế?
-
- Thưa
cậu! Tổ Phụ chúng tôi chỉ làm nghề sát sinh, để nuôi sống gia
đình, nay nếu bỏ nghề này thì hết lối!
-
Đại Thí
than thở rồi bước đi. Đi một quãng thấy các người cày ruộng: những
sá cày lật đất, các con giun, con dế, con vi trùng chui lên, lại
bị những con ếch, con chẫu bắt ăn; lại thấy những con rắn bắt ếch,
bắt chẫu ăn, tiếng kêu thảm thiết; lại thấy giống chim khổng tước
bắt rắn tha lên cành cây ăn.
-
Đại Thí
hỏi:
-
- Đây là
họ làm gì?
-
- Thưa
cậu! Họ cày ruộng để trồng lúa, đến mùa được thóc ăn và nộp thuế
cho nhà Vua.
-
Đại Thí
nghe xong, thương chúng sinh, than thở trong lòng mà đi. Đi một
quãng thấy những người đi săn, giăng lưới, đặt cạm, giật bẫy, để
bắt cầm thú, thấy chúng bị sa lưới, quằn mình quại thể, dãy dụa
hết sức, gào kêu! Sợ hãi! Trông rất đau lòng.
-
Đại Thí
hỏi:
-
- Các ông
làm gì đó?
-
- Thưa
cậu! Chúng tôi chỉ chuyên nghề đi săn bắn, nếu không làm việc này,
thì cũng không có nghề gì sinh sống!
-
Đại Thí
nghe nói vừa thương, vừa ngậm ngùi! Rồi bước đi. Đi được một lúc
thấy một con sông lớn, trên những chiếc thuyền lênh đênh, các anh
thuyền chài, tung lưới kéo lên được rất nhiều cá, đổ lên bờ, con
dãy, con ngáp, ngổn ngang.
-
Đại Thí
hỏi:
-
- Các ông
làm gì thế?
-
- Thưa
cậu! Từ cha ông chúng tôi, đến chúng tôi không có nghề gì khác,
chỉ có nghề bắt cá để sinh sống.
-
Đại Thí
nghe nói, để lòng thương! Và thầm nghĩ rằng:
-
- Tất cả
người dân vì thiếu thốn áo mặc cơm ăn, nên tạo những ác nghiệp sát
hại chúng sinh, sau chết đọa xuống Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Bàng Sinh,
từ chỗ mê tối lại sa vào chỗ mê tối hơn, thực đáng thương thay!
-
Tớiđây
Đại Thí bảo với mọi người rằng:
-
- Thôi,
các ông cho tôi về an nghỉ.
-
Vì thương
đời lầm lạc, tạo áo nghiệp, nên Đại Thí không lúc nào được vui!
Tìm cách để cứu tế chúng sinh khỏi sự đói thiếu về thể xác lẫn
tinh thần, rồi lên thưa với cha rằng:
-
- Thưa
cha, vừa rồi con đi về các miền thôn quê, thấy nhân dân vì sự ăn
mặc, phải lao hình khổ trí sát hại muôn sinh để nuôi đời sống,
lường gạt dối trá, lẫn nhau, tạo ác nghiệp ấy sau chết phải đọa
vào ba đường ác, con rất thương họ! Vậy cho con một kho gạo để bố
thí cho những kẻ nghèo đói.
-
- Tùy ý,
của cha là của con, ý con muốn bố thí thì cha cũng vui lòng!
-
Được cha
đồng ý, Đại Thí bá cáo cho nhân dân rằng:
-
- Tất cả
nhân dân, ai thiếu thốn về cơm ăn áo mặc, tiền xài; xin lại nhà
lấy, tùy theo ý muốn, tôi sẽ cấp giúp đầy đủ!
-
Quốc dân
hay tin ông Đại Thí mở cuộc bố thí, tất cả những người nghèo khổ,
bệnh tật, cô cùng, kéo nhau đến đông như hội; cũng có người ở xa
từ trăm dặm, người hai, ba trăm ngàn dặm tới, có người từ ba ngàn,
năm ngàn dặm tới; kẻ mạnh cõng người yếu, kẻ sáng dắt người mù,
muốn cơm được cơm, muốn áo được áo, tất cả ai muốn gì cũng được
toại ý.
-
Bố thí
trong một thời gian, các kho ba phần đã hết một, người coi kho đến
thưa với ông chủ rằng:
-
- Thưa
ông, cậu Đại Thí ban phát cho dân các kho tàng ba phần đã hết một.
Vua quan khách khứa đi lại còn đâu mà thết đãi! Ông nghĩ kỹ, kẻo
hết rồi lại trách tôi không thưa trước!
-
Ông nghĩ
như vầy:
-
- Thà để
kho không, chứ không làm trái ý con ta!
-
Bố thí
trong một thời gian nữa thì ba phần đã hết hai. Người coi kho lại
lên thưa với ông rằng:
-
- Thưa
ông chủ! Kho tàng ba phần đã hết hai, nếu ông không đình chỉ việc
bố thí lại, thì không còn cái gì mà ăn dùng nữa!
-
Ông nói:
-
- Ta nặng
tình yêu con quí của ta, nên không muốn làm trái ý. Vậy anh có
phương tiện gì, giả thác ra một cách khác, nếu kẻ lại xin làm cho
họ ít đến nữa may ra còn chút nào để dùng chăng!
-
Anh coi
kho được ông cho phép, đóng luôn cửa lại rồi đi nơi khác.
-
Vì kho
đóng nên những người xin đều đến chỗ cậu Đại Thí; cậu dẫn họ đến
kho, thì anh coi kho đi vắng. Cậu sai người tìm mãi mới thấy, anh
về mở kho cho, nhưng cũng không cho được bao nhiêu.
-
Đại Thí
thầm nghĩ như vầy:
-
- Việc
đình chỉ bố thí không phải kẻ giữ kho dám tự quyền, chắc là thừa
lệnh của cha ta. Song phép làm con cũng không nên làm khánh kiệt
kho tàng của cha mẹ, vả trong kho bây giờ cũng không còn được bao
nhiêu nữa. Vậy ta phải làm thế nào, có tiền của cấp tế cho nhân
dân, được no nê sung sướng! Mới mãn bổn nguyện bố thí của ta.
-
Khi đó
Đại Thí hỏi mọi người rằng:
-
- Ở thế
gian này, làm nghề nghiệp gì được nhiều tiền của?
-
Cáo người
mách rằng:
-
- Thưa
cậu! Bây giờ chỉ trồng cấy năm giống thóc thì được nhiều của.
-
Có người
nói rằng:
-
- Nuôi
thú vật bán có thể được nhiều tiền.
-
Cũng có
người nói:
-
- Nếu
không sợ tai nạn nguy hiểm, đi xa buôn bán có thể được nhiều tiền
của.
-
Lại có
người giới thiệu rằng:
-
- Thưa
cậu! Mọi kế nói trên đều không kết quả được bao nhiêu, muốn cho
tất cả chúng sinh trên cõi Diêm Phù Đề, được đầy đủ cơm áo mặc,
chỉ vào biển tìm châu bảo là một diệu kế hơn hết!
-
Đại Thí
nói:
-
- Trồng
cây, nuôi thú, đi xa buôn bán, không được lợi mấy, có lẽ vào biển
tìm ngọc châu là một diệu kế hơn. Vậy tôi quyết định đi tìm ngọc
châu.
-
Nói xong
lên thưa với cha mẹ rằng:
-
- Thưa
cha mẹ! Con xin ra biển tìm ngọc châu về cấp tế cho dân, xin cha
mẹ vui lòng?
-
Ông bà lo
quá, nói rằng:
-
- Con ơi!
Những người ra biển là những người nghèo khổ vô kế sinh sống,
không hòng đời sống của mình. Con nghèo khổ chi mà vào biển? Để
cha mẹ lo sợ thân mạng của con! Muốn bố thí, thì trong kho còn bao
nhiêu con cứ việc bố thí. Đi biển có nhiều tai nạn, sóng to, gió
lớn, Cá Ma Kiệt, Rồng Độc, Quỷ La Sát, núi, nước khó mà qua nổi!
Con đem thân vào chỗ tai nạn ấy làm chi? Không thể đi được đâu,
thôi đừng giở hơi nữa.
-
Đại Thí
buồn quá! Tự nghĩ như vầy:
-
- Ta muốn
gây một đại nghiệp cho tương lai, mà tham tiếc thân sống thì sao
thành?
-
Nghĩ
xong, phục mình xuống trước cha mẹ mà thưa rằng:
-
- Kính
lạy Song thân! Nếu Song thân ngăn chí nguyện của con, không cho
con đi biển tìm ngọc châu để cứu dân, thì con nằm ở đây không đứng
lên nữa!
-
Ông bà
nghe câu nói ấy, tâm can não nhiệt như lửa đốt! Cùng với mọi người
khuyên bảo rằng:
-
- Đương
biển xa xôi nhiều hiểm trở, đi nhiều về ít, con nên nghĩ đến cha
mẹ cầu đảo thành kính, trong mười hai năm ở miếu thần tiên mới có
con ngày nay. Bây giờ lớn khôn lại bỏ cha mẹ đi thì không nên! Dậy
đi con, ăn uống để cha mẹ vui lòng!
-
Cậu một
lòng thưa rằng:
-
- Cha mẹ
cho con đi thì con dậy, không thì con không dậy!
-
Cậu nằm
mãi đến sáu ngày không ăn uống, ông bà luôn luôn khuyên bảo, dỗ
dành, nhưng cậu quyết định không dậy, chịu nhịn đói.
-
Ông bà lo
sợ quá! Bàn với nhau rằng:
-
- Con ta
trước sau khăng khăng một mực không hề thoái tâm. Thôi, ta cũng
nhắm mắt cho đi, còn mong có ngày về, nếu nằm quá bảy ngày chết
lại đây, thực là vô ích.
-
Bàn xong,
ông bà đến đỡ cậu dậy, và nói rằng:
-
- Thôi,
con dậy ăn cơm, rồi cha mẹ cho con đi.
-
Đại Thí
mừng quá! Đứng dậy đi ăn cơm, ăn xong, viết bảng cáo thị rằng:
-
- Tôi đi
ra biển tìm ngọc châu, ai muốn đi thì cùng đi, tôi xin cung cấp
đầy đủ hành lý.
-
Bấy giờ
có năm trăm người đồng ý theo cậu. Giữa hôm lên đường ra đi, cha
mẹ, vua, quan, dân chúng, số ngàn muôn người đưa chân đem tặng
lương thực và tiền bạc để ăn đường. Cuộc tiễn đưa này, rất vui vẻ!
Mọi người đều cầu chúc: "Cậu đi được bình an mau trở về".
-
Đi chừng
vài ngày, tới một bãi cát rộng mênh mông, mọi người đều lên đó
nghỉ, không may gặp bọn cướp đông quá, biết sức không chống nổi,
nên Đại Thí đem tiền của lương thực cho họ hết rồi lại bắt đầu đi,
đi tới một cái thành, gọi là thành Phóng Bát. Thành này có ông
Trưởng Giả tên là Ca Tỳ Lệ dòng Bà La Môn, ông có cô con gái, mình
sắc vàng, tóc xanh như ngọc lưu ly, xinh đẹp nhất thời, tám vạn
bốn ngàn vương tử, ở các nước đến hỏi cô không ưng.
-
Đại Thí
định đến vay tiền, đứng ngoài gõ cửa, cô thấy người gọi chạy ra,
nhìn cậu, tự nhiên cảm động, vui mừng; vào nhà thưa với cha rằng:
-
- Thưa
cha! Bên ngoài có người gõ cửa gọi, người đó chính là chồng con
đấy!
-
Ông Ca Tỳ
Lê mở cửa bước ra, thấy cậu tướng mạo oai nghi phi thường, mừng
thầm hỏi rằng:
-
- Cậu tới
đây có việc chi?
-
- Thưa
Trưởng giả! Tôi vì lòng thương dân đói khát, đi ra biển tìm ngọc
châu về phân cấp cho họ, không may đi nữa đường gặp bọn cướp lấy
hết lương thực, muốn phiền Trưởng Giả cho vay ba ngàn lạng vàng,
lúc trở về xin trả!
-
Ông vui
vẻ nói:
-
- Mời cậu
vào chơi, không khó, tôi xin cho cậu mượn ba ngàn hoặc mười ngàn,
nhà tôi cũng sẵn.
-
Ông vào
kho lấy vàng, dắt con gái đi theo, vừa cười vừa nói:
-
- Tôi xin
tặng số vàng này cho cậu; đây là con gái tôi, nhiều Vương Tử đến
hỏi nhưng tôi không gả. Hôm nay gặp cậu tôi rất vui lòng! Con gái
tôi nó đồng ý kết duyên với cậu. Vậy cậu có nhận lời nói đây? Xin
cho biết.
-
- Dạ!
Thưa Trưởng Giả, hiện nay tôi đi ra biển, tai nạn nguy hiểm nhiều,
có ngày đi không biết có ngày về, giờ nhận lời với ông, một ngày
gần đây bị tai nạn, băng mình trong biển cả! Sai lời hẹn thì làm
thế nào?
-
- Không
sao! Nếu cậu được tốt lành trở về, thì xin nhận lời hứa!
-
Ông vui
vẻ đưa cho cậu ba ngàn lạng vàng, và rất nhiều các thực phẩm khác.
Cậu cảm ơn ông, rồi từ biệt lên đường đi.
-
Đưa vàng
về, cậu bảo các người theo, đi mua thuyền tốt, dày bảy lần ván, để
chống đỡ với sóng gió.
-
Mua
thuyền xong, cột bằng bảy cái dây.
-
Đại Thí
lắc chuông, lớn tiếng nói:
-
- Các bạn
lắng tai nghe! Chú ý! Chú ý, đi biển nhiều nguy hiểm, nào hắc
phong, quỷ La Sát, ác phong, độc khí, thuỷ hắc, núi đá, cá Ma
Kiệt, tai nạn rất nhiều. Các bạn đi cùng tôi! Tới đây, ai muốn về,
thì ở lại, kẻo đến khi gặp tai nạn, lúc ấy dầu có hối cũng không
được; còn ai vững lòng bền chí, không tiếc thân mạng, vợ con, anh
em, cha mẹ thì đi. Trái lại, nếu được an toàn trở về, tiền của con
cháu bảy đời ăn không hết.
-
Nói xong,
cắt một dây; cứ như thế, mỗi ngày tuyên bố một lần, lại cắt một
dây; bảy ngày cắt hết bảy dây, thuyền bắt đầu đi, trương buồm
thuận gió, thuyền chạy như bay.
-
Qua một
thời gian khá lâu, mới đến chỗ có nhiều ngọc châu và vàng bạc.
-
Đại Thí
là người tinh anh, học rộng, biết rành các thứ ngọc châu: thứ
nặng, thứ nhẹ, hạng quý, hạng thường, hình sắc tốt hay xấu, để chỉ
bảo cho mọi người lấy, và dặn lấy vừa phải đừng tham, sợ nặng bị
đắm thuyền; nếu lấy ít thì không bõ công đi.
-
Anh em
chăm chú lấy xong, khi sắp ra về, Đại Thí không muốn lên thuyền,
anh em hỏi:
-
- Thưa
cậu! Các thứ ngọc châu, bảo vật, chúng tôi lấy cho xuống thuyền đã
đầy đủ, mời cậu lên thuyền đi về!
-
- Các bạn
hãy về trước! Giờ đây tôi muốn đến điện vua Long Vương, để xin
ngọc Như Ý, thì có thể bố thí cho chúng sinh toàn cõi Diêm Phù Đề
được. Tôi cương quyết đi, nếu không xin được tôi quyết không về!
-
- Thưa
cậu! Chúng tôi nhờ sự mạo hiểm và cương quyết của cậu mà ra tới
đây, lấy được nhiều bảo vật, châu ngọc, mong được hoàn toàn trở
về, bây giờ cậu lại bỏ rơi lũ chúng tôi mà đi một mình, chúng tôi
rất không bằng lòng! Yêu cầu cậu trở về cùng chúng tôi.
-
- Thôi,
các bạn cứ an tâm, tôi sẽ cầu nguyện cho các bạn được an lành trở
về nước nhà, sung sướng cùng cha mẹ vợ con, riêng tôi các bạn
không lo!
-
Toàn thể
anh em ai cũng buồn! Họ đều chắp tay, cầu chúc cậu đi được tốt
lành, và xin giã biệt trở về.
-
Buồm đã
trương, những chiếc thuyền từ từ quay mũi. Anh em đứng trên thuyền
nhìn cậu mà rớt nước mắt!
-
Thuyền đã
chạy xa xa, bóng mờ mờ ngoài biển. Đại Thí dâng hương lễ mười
phương chư Phật lập thề rằng:
-
- Kính
lạy thập phương Đại Giác từ bi chứng giám! Con không quản đường xa
dặm thẳm, nguy hiểm khó khăn, vào biển tìm châu để cứu tế quần
sinh, qua khỏi nạn đói khát, khốn khổ! Nguyện đem công đức này,
cầu thành Phật, xin dốc một lòng thành kính, cho lời thề nguyện
của con được thành tựu, và những người này được an lành, về không
gặp các tai nạn.
-
Đại Thí
ra đi ngày thứ nhất, nước ngập đến đầu gối; đi trong bảy ngày nước
sâu đến tận mông; đi bảy ngày nước đến ngang lưng; bảy ngày nữa
nước ngập tới cổ; bơi bảy ngày nữa tới một quả núi. Đại Thí bẻ hai
cành cây làm gậy chống, để leo núi; leo bảy ngày tới ngọn, đi bảy
ngày trên đỉnh núi ấy, rồi lại trở xuống; suốt bảy ngày đến chân
núi, tới một ven nước, dưới nước có hoa sen sắc vàng, lại có các
con rắn độc nằm trên hoa, hoặc trên ngó.
-
Đại Thí
thấy vậy, ngồi kết vòng tròn ngay ngắn, hệ tâm nhiếp niệm, nhập
phép quán từ bi tam muội. Nghĩ tới những con rắn này, do kiếp
trước tạo nghiệp sân nộ ghét ghen, nên đọa sinh ở nơi đây, chịu
thân hình độc ác xấu xa. Bởi lòng từ bi của Đại Thí giao cảm, nên
những con rắn đó, được hết nọc đọc.
-
Đại Thí
đứng dậy đi trên những bông hoa ấy suốt bảy ngày thoát nạn rắn
độc, nhìn trước mặt xa xa, thấy những con quỷ La Sát, vì chúng
ngửi thấy hơi người mà tìm lại. Thấy thế, Đại Thí nhiếp tâm niệm
nhập phép Từ Bi quán; nhờ phép quán ấy, nên các con quỷ tự phát
tâm cung kính, vui vẻ tới gần hỏi:
-
- Bồ tát
ở đâu tới đây?
-
- Thưa
Ngài, tôi đi tìm ngọc Như Ý!
-
Quỷ vui
vẻ, nghĩ như vầy:
-
- Người
này có phúc đức đi đến chỗ vua Long Vương, nhưng hãy còn xa, làm
sao đi nổi? Vậy chúng ta hãy đưa giúp, qua chỗ nguy hiểm này.
-
Nghĩ rồi,
chúng dùng lực thần của quỷ, đưa Đại Thí qua bốn trăm do tuần, rồi
trở về.
-
Tới đây,
Đại Thí ngắm thẳng đường đi, thấy một cái thành lớn bằng bạc, sáng
quắc như mặt trời. Đại Thí biết đích thành này của Long Vương, vui
vẻ đi thẳng vào, thấy bên ngoài thành có bảy lần hào nhiễu quanh,
trong hào thuần rắn độc coi rất ghê sợ!
-
Đại Thí
tự nghĩ:
-
- Những
con rắn này lúc tiền sinh, ác tâm nộ hại nhiều, nên nay phải đọa
làm rắn, chịu thân hình cực ác.
-
Đem lòng
từ bi thương xót, thì các con rắn ấy tự nhiên lẩn mất. Đại Thí đi
thẳng vào thành. Ở cổng thành thấy có hai con rồn cuộn khúc, hai
đầu giao nhau, dáng như cánh cửa. Thấy Đại Thí vào, chúng ngóc đầu
nhìn. Đại Thí nhập Từ Bi quán; Rồng cúi đầu không dám ngó nữa. Đại
Thí bước lên đầu Rồng đi vào.
-
Giữa lúc
vua Long Vương đương ngồi ở điện Thất Bảo, nhìn thấy có người vào
lấy làm ngạc nhiên, thầm nghĩ:
-
- Thành
của ta có bảy lần hào lũy, trong hào có rất nhiều Rắn độc, ngoài
ra lại còn có các loài độc Long, Quỷ Dạ Xoa; người này làm sao vào
được? Chắc họ có đức lớn!
-
Vua Long
Vương phát khởi lòng cung kính, đón chào hỏi han, mời ngồi giường
thất bảo, đem các món ăn ngon ra thết đãi. Ăn xong, vua Long Vương
hỏi rằng:
-
- Ngài
tới đây có chuyện gì cần thiết không?
-
- Thưa
Long Vương! Nhân dân trên cõi Diêm Phù Đề, nghèo đói đau khổ! Do
cơm ăn, áo mặc mà tạo các nghiệp ác, như: sát sanh, trộm cắp, nói
dối, lừa bịp lẫn nhau, bởi thế chết đọa vào ba ngả ác. Tôi vì lòng
thương! Muốn cứu chúng sinh, nên không quản đường xa dặm thẳm tới
đây yết kiến Đại Vương để xin viên ngọc Như Ý về cứu giúp dân
chúng, mong Đại Vương mở lượng từ bi bố thí cho!
-
- Dạ,
ngọc Như Ý là một vật quý nhất, Ngài tới đây cũng là một công phu
mạo hiểm quên thân; tôi đâu dám từ chối, nhưng xin Ngài lưu tâm ở
lại đây một tháng; nhận chút cúng dàng mọn của tôi, và thuyết Pháp
cho tôi nghe, thì tôi xin biếu Ngài!
-
- Dạ, quý
hóa! Đại Vương có lòng cố lưu, và muốn nghe thuyết Pháp, tôi xin ở
nán lại, không dám từ chối.
-
Vua Long
Vương ngày ngày cúng dàng rất trịnh trọng, dâng đủ các món ngoan
lạ dưới Long cung. Trong giờ ăn, các nhạc sĩ, vũ nữ, múa hát cúng
dàng, gảy những cung đàn rất tuyệt! Ca những bài hát cực hay!
-
Đại Thí
dùng biện tài vô ngại, giảng thuyết pháp Tứ Niệm Xứ cho Vua nghe.
Hết một tháng, từ biệt lên đường. Vua Long Vương lấy ngọc Như Ý
trong búi tóc ra tặng, và nói rằng:
-
- Đại Thí
có lòng từ bi rộng lớn, tâm chí mãnh liệt, quyết định thành Phật.
Sau khi Ngài được thành Phật. Tôi xin làm một để tử trí tuệ!
-
- Quý
hóa! Thưa Long Vương, ngọc này có năng lực thế nào?
-
- Dạ!
Thưa Đại Thí, ngọc này có năng lực làm mưa trong hai ngàn do tuần
vuông bốn mặt; nước mưa ấy hóa ra những món chúng sinh cần dùng
trong đời sống.
-
Đại Thí
hoan hỷ đỡ lấy ngọc, rồi thầm nghĩ:
-
- Hạt
ngọc này tuy quý thực, nhưng chỉ có hạn định, chưa cứu tế cho
chúng sinh được nhiều, như ý nguyện của ta đã định.
-
Vua Long
Vương và quần thần, đưa chân ra ngoài cổng thành; Đại Thí từ tạ
bước lên đường. Đi được ít lâu, tới một cái thành, thuần bằng lưu
ly xanh, ngoài thành có bảy lần hào vây xung quanh, trong hào có
rất nhiều rắn độc.
-
Đại Thí
thầm nghĩ như vầy:
-
- Những
con rắn này, lúc tiền sinh tạo nhiều sân si tật đố, nên phải chịu
thân hình xấu ác như vậy.
-
Nghĩ
xong, ngồi ngay nghiêm nhập phép Từ Bi Quán, vì thương chúng đau
khổ. Lòng từ bi lan cảm, làm cho bạt hết tâm độc của chúng.
-
Đại Thí
đứng dậy, bước lên đầu những con rắn ấy, đi thẳng vào cổng thành;
thấy hai con rồng, mình cuộn quanh thành, hai đầu giao nhau ở
trước cửa, cũng như cách canh gác. Rồng thấy người, ngóc đầu, nháo
mắt, nhìn một cách ác liệt.
-
Đại Thí
liền nhập quán Đại Bi; Từ Tâm thông cảm. Rồng gục đầu, biểu lộ một
vẻ hiền lành. Đại Thí tiến bước vào trong.
-
Vua Long
Vương đương ngồi ở điện Thất Bảo, nhìn thấy có người vào, thầm
nghĩ như vầy:
-
- Quái
sao? Ngài thành có bảy lần hào, nào những Rắn độc, Rồng độc, quỷ
Dạ Xoa, khó đi như thế, mà người này vào đây được? Chắc họ có đức
lớn, không phải người thường!
-
Nghĩ
xong, đứng lên ra đón chào hỏi han, rất kính cẩn, mời lên bảo điện
ngồi tòa thất bảo, đem các món ngon quý ra thết đãi. Ăn xong, niềm
nở nói chuyện, và hỏi:
-
Ngài ở
đâu đến đây, có chuyện gì cần thiết không?
-
- Thưa
Đại Vương! Tôi ở Châu Diêm Phù Đề, xuống đây để xin ngài hạt ngọc
Như Ý!
-
- Thưa
Ngài, ngọc Như Ý hiếm có lắm! Nếu Ngài muốn dùng xin ở lại đây hai
tháng, giảng thuyết hạnh Bồ Tát và nhậm chút cúng dàng của chúng
tôi.
-
- Dạ, quý
hóa! Nếu Đại Vương có tâm mến mộ vô thượng Pháp Bảo của chư Phật,
việc đó tôi xin thành kính, giảng giải.
-
Vua Long
Vương sai bày tòa cao, mỗi ngày hai thời thỉnh thuyết Pháp, và sửa
trai nghi cúng dàng rất trịnh trọng.
-
Đại Thí
dùng vô ngại biện tài, phân biệt nói về "Tứ Thần Túc", hết hai
tháng từ biệt ra về.
-
Vua Long
Vương lấy ngọc Như Ý ra tặng và phát nguyện rằng:
-
- Đại Thí
Từ Tâm phổ tế quần sinh, quảng đại vô biên, quyết được thành Phật,
khi đó tôi nguyện làm một thần túc đệ tử.
-
- Dạ, hay
lắm! Đại Vương nguyện như vậy, sẽ được thành tựu! Còn viên ngọc
này có năng lực thế nào?
-
- Thưa
Đại Thí! Viên ngọc này có năng lực làm mưa tất cả các món ăn dùng
của chúng sinh, quy vuông bốn ngàn do tuần?
-
Đại Thí
hoan hỷ, nhận lấy viên ngọc, rồi tự nghĩ rằng:
-
- Hòn
ngọc này tuy cũng khá nhưng chưa xứng ý của ta đã định!
-
Vua Long
Vương và quần thần tiễn chân ra ngoài cổng thành, chờ đi xa mới
trở về.
-
Đại Thí
đi chưa được bao lâu, thấy một cái thành bằng vàng, rất mỹ quan,
sáng rực một trăm dặm, tới gần thấy bảy lần hào vây quanh, trong
hào có rất nhiều rắn độc. Đại Thí thầm nghĩ:
-
- Những
con rắn này, do đời trước đây tâm ác độc, ghen ghét nộ hại, nên
phải chịu thân độc ác như vậy!
-
Nghĩ xong
nhập Từ Tâm ái niệm, đánh bạt ác tâm rắn độc, chúng nằm rạp xuống,
Đại Thí bước lên trên mà đi, tới cổng, thấy hai con Rồng cuộn khúc
quanh thành hai đầu giao nhau, gác hai bên cổng, thấy người, chúng
ngóc cổ trố mắt nhìn một các ác nghiệt.
-
Đại Thí
liền nhập quán Từ Bi; Rồng cúi đầu, Ngài bước vào trong cổng.
-
Lúc đó
vua Long Vương đương ngồi ở bảo điện thấy người vào, ngạc nhiên,
thầm nghĩ:
-
- Ngoài
thành có bảy lần hào vây quanh, nào Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ Xoa,
khó khăn như thế mà sao người này vào được? Chắc họ có đức lớn!
-
Nghĩ thế
rồi khởi lòng tôn trọng kính cẩn, bước ra đón tiếp hỏi han, rồi
mời Ngài vào điện, ngồi tòa thất bảo, đem các món ăn ngon quý dưới
Long Cung thết đãi rất trịnh trọng. Ăn xong vua hỏi:
-
- Ngài ở
đâu tới đây? Và có cần dùng việc gì không?
-
- Dạ,
thưa Đại Vương! Chúng sinh trên cõi Diêm Phù Đề bạc đức cùng khổ;
làm ăn lao lực, đến nỗi sát hại lẫn nhau, cũng chỉ vì miếng cơm
manh áo, hoàn toàn làm mười điều ác, sau khi chết đọa vào ba đường
sá xa xôi, bao lần nguy hiểm! Nghe biết Đại Vương có hạt ngọc Như
Ý, có thể làm cho chúng sinh hết đau khổ, vì thế tới đây xin Ngài,
để cứu tế cho nhân dân.
-
- Dạ,
thưa Đại Thí! Ngọc Như Ý là một vật quý nhất dưới Hải Tạng, nếu
Ngài muốn dùng xin ở lại đây bốn tháng nhận chút cúng dàng, và
giảng giải cho chúng tôi được biết đạo lý.
-
- Dạ, như
vậy hay lắm! Nếu Đại Vương muốn nghe giảng thuyết về Chánh Pháp
của Như Lai, tôi xin thành thực cúng dàng Vô Thượng Pháp Bảo!
-
Vua Long
Vương hoan hỷ! Ngày ngày dâng cúng các món ăn ngon quý dưới Long
cung, lại bắt các nhạc sĩ mỗi ngày hai thời tấu nhạc cúng dàng.
-
Đại Thí
dùng biện tài vô ngại giảng thuyết chân lý cao siêu.
-
Nhà vua
chăm chỉ nghe pháp, chiều sớm ban hôm không để mất thời tiết. Các
hàng Long và quỷ Dạ Xoa, đến xin hầu hạ, lúc tiến, khi lui, tự đặt
ra thời giờ phụng sự, trong bốn tháng rất nghiêm kính và hợp phép
tắc.
-
Hết kỳ
bốn tháng từ giã ra về. Vua Long Vương cởi búi tóc lấy hạt ngọc
Như Ý cúng dàng và thề nguyện rằng:
-
- Đại Thí
hoằng thệ vô biên, Từ Tâm cao cả! Vì thương quần sinh, không quản
khó nhọc, sau này quyết được thành Phật, tôi nguyện làm Thị Giả
một đệ tử tổng trì!
-
- Quý
hóa! Đại nguyện của Ngài sẽ được thành tựu mau chóng, còn năng lực
của hòn ngọc này như thế nào?
-
- Dạ,
thưa Đại Thí! Hạt ngọc này có năng lực, mưa thất bảo xuống tám
ngàn do tuần quy vuông bốn mặt.
-
Đại Thí
hoan hỷ nhận ngọc rồi tự nghĩ rằng:
-
- Đất
Diêm Phù Đề này rộng bảy ngàn do tuần, công năng hạt ngọc này tám
ngàn do tuần, như vậy mới đạt được nguyện vọng của ta!
-
Tất cả ba
hạt ngọc đem gói vào góc vạt áo. Cảm tạ Long Vương lên đường. Vua
và quần thần đưa chân ra khỏi cổng thành.
-
Đại Thí
đi khỏi thành xa xa, để hạt ngọc trên bàn tay khấn rằng:
-
- Nếu
thực hạt ngọc Như Ý, xin cho tôi bay được lên hư không!
-
Khấn
xong, rướn mình bay lên hư không tựa như chim cắt. Một lát bay qua
biển, tới bãi, xuống nghỉ.
-
Tới đây,
Đại Thí nằm ngủ trên bải cát; bãi này có mấy con Rồng biết rằng
Đại Thí đi xin ngọc của vua Long Vương về, chúng khởi tâm tham;
thừa cơ Đại Thí ngủ cởi trộm, lặn xuống bể mất.
-
Đại Thí
thấy động, mở choàng mắt ra, nhìn không thấy người, mất ba viên
ngọc, nghĩ như vầy:
-
- Ở đây
làm gì có người, mất ba viên ngọc này, chỉ có những con Rồng lấy
của ta thôi! Ta mất bao công trình lao khổ mới được, đem về cứu
chúng sinh cho mãn nguyện bố thí của ta; lũ bây lấy của ta, ta thề
nếu không lấy lại được, quyết định không về, ta sẽ tát cho hết
nước để bắt lũ bay, đầu chết cũng cam tâm, chứ chẳng chịu về
không!
-
Vừa đi
vừa nói trên bãi biển, bắt được cái mai rừa.
-
Ông Thần
Biển hiện lên nói rằng:
-
- Biển
này sâu ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, dầu cho tất cả toàn cõi Diêm
Phù Đề tát cũng không thể cạn nổi, huống một mình ông tát gì được?
-
Đáp:
-
- Ông nên
biết: ai cương quyết làm việc gì, thì việc ấy sẽ thành công. Tôi
đi tìm hạt ngọc Như Ý, để giúp ích cho nhân loại, khó đến như thế,
mà tôi cương quyết không lui chí hướng, để cầu thành Phật, thì
việc tát bể đã lấy gì khó hơn.
-
Khi đó có
một người ở cõi Trời Tịnh Cư, thấy Đại Thí nhất thân nhất ý với
bao công trình khó nhọc, để cứu tế chúng sinh, bị Rồng ăn cắp
ngọc, ông gọi một số đông người ẩn hình đến giúp việc tát biển.
-
Cứ mỗi
khi Đại Thí múc nước, thì các ông ấy lấy áo cõi Trời, nhúng xuống
biển, rồi lại đem áo vắt nước đi nơi khác. Cứ mỗi lần Đại Thí múc
nước như vậy, thì nước biển cạn đi bốn mươi dặm; hai lần múc, cạn
tám mươi dặm; ba lần múc cạn một trăm hai mươi dặm.
-
Thấy cạn
nước nhiều quá, mấy con Rồng ăn cắp sợ hãi! Lên tận nơi nói rằng:
-
- Thôi!
Thôi! Đại Thí đừng múc nước nữa! Đại Thí dùng hạt ngọc này để làm
gì?
-
- Dùng để
cứu cấp cho tất cả chúng sinh, Châu Diêm Phù Đề!
-
- Theo
như lời Đại Thí nói; thì chúng tôi ở trong biển này nhiều lắm, sao
Ngài không cho chúng tôi, lại lấy đi?
-
- Trong
biển này tuy có chúng sinh, nhưng không bị đau khổ như chúng sinh
Châu Diêm Phù Đề, vì miếng ăn manh mặc mà sát hại lẫn nhau, lừa
bịp, dối trá lẫn nhau, tạo đủ mười điều ác, chết đọa xuống tam đồ
ác đạo, ta muốn cho họ hiểu được Pháp ấy, nên xuống đây xin ngọc,
trước cho họ ăn mặc đầy đủ, sau cho họ tu theo mười điều lành
(Thập Thiện).
-
Rồng nghe
xong, đem ba hạt ngọc Như Ý trả lại.
-
Khi đó
ông Thần Biển thấy Ngài tinh tiến cứng rắn như vậy, đối trước Ngài
lập thệ nguyện rằng:
-
- Đại Thí
tinh tiến như thế, quyết định được thành Phật, khi đó tôi nguyện
làm một tinh tiến đệ tử!
-
Nhận hạt
châu rồi bay lên hư không, một lát gặp các người cùng đi với mình,
đáp xuống. Các người đó nhìn thấy Đại Thí vừa ngạc nhiên vừa vui
mừng! Hỏi rằng:
-
- Cậu ở
đâu tới đây? Thật là vô cùng sung sướng, hôm nay lại gặp được ông
bạn chí thân.
-
Nói xong
tay bắt mặt mừng, cùng nhau về tới nước Phóng Bát.
-
Ông Ca Tỳ
Lê được tin Đại Thí ra biển tốt lành trở về, vui vẻ ra đón chào
hỏi han niềm nở, rồi mời tất cả về đãi ăn.
-
Ăn xong
nói chuyện những công việc hành lộ vừa qua, rất là vui vẻ! Đại Thí
đưa ngọc Như Ý chỉ vào các kho tàng, thì những kho tàng nhà ông
đều đầy dẫy vàng bạc ngọc ngà, trân bảo. Mọi người đều tắc lưỡi
khen lạ!
-
Ông Ca Tỳ
Lê trang điểm cho con gái đẹp đẽ, trước rửa tay, sau dắt con gái
giao cho Đại Thí!
-
Khi ra
về, ông cho năm trăm người kỹ nữ có đủ tài năng, và năm trăm bạch
tượng theo hầu con gái.
-
Đại Thí
giao cho các bạn cỡi voi lên đường về nước nhà; hôm ấy cuộc tiễn
chân rất là náo nhiệt! Rất vui vẻ! Tiếng hay đồn khắp muôn phương.
-
Từ khi
Đại Thí đi, cha mẹ ở nhà, quá thương, khóc nhớ! Đêm ngày sầu khổ!
Đến nỗi lòa cả đôi mắt.
-
Đại Thí
ra lễ cha mẹ, và hỏi han sức khỏe, cùng các công việc nhà.
-
Ông bà
mừng quá! Vì lòa không nhìn thấy con, lấy tay xoa đầu vuốt mặt một
cách nồng nhiệt, nói rằng:
-
- Con nỡ
bỏ cha mẹ đi xa xôi từ bấy đến nay, để cha mẹ ở nhà thương nhớ.
Vậy con vào biển được những bảo vật gì?
-
- Dạ,
thưa cha! Con xin vua Long Vương được hạt ngọc Như Ý, cha cầm thử
xem có quý không?
-
Ông đỡ
lấy rồi nói rằng:
-
- Hòn đá
này trong kho của nhà ta, nào có thiếu chi; thế mà con liều thân
hoại thể, trải bao tân khổ nơi biển cả với ba đào hiểm trở, lấy về
đây làm gì?
-
Đại Thí
cầm hạt châu chỉ vào mắt ông bà, tự nhiên cặp mắt trông sáng hơn
xưa, cũng như một cơn gió thổi tan mây khói, bóng bình minh sáng
giữa không gian. Ông bà được cặp mắt sáng tinh, cảm niệm lực oai
thần của hạt ngọc châu vô biên công đức! Rồi nói:
-
- Quý
hóa! Con tuy chịu đau khổ nhưng cũng không luống cống.
-
Đại Thí
lại dâng hạt châu lên nguyện rằng:
-
- Nguyện
xin tòa ngồi của cha mẹ tôi biến thành tòa Thất Bảo vào có tán
Thất Bảo che trên!
-
Nguyện
xong liền được như ý ngay.
-
Lại
nguyện rằng:
-
- Nguyện
cho kho tàng của cha mẹ tôi, và vua quan, dân chúng đầy chật vàng
bạc, của báu!
-
Nguyện
xong, tất cả toàn quốc từ vua chí dân, nhà nào cũng có rất nhiều
vàng, bạc, ngọc, ngà của cải.
-
Thấy thế
ai cũng ngạc nhiên và vui mừng!
-
Sau thời
gian này, Đại Thí sai người cỡi voi đi tám ngàn dặm báo cáo cho
toàn thể quốc dân biết rằng:
-
- Cậu Đại
Thí ra biển được tốt lành trở về, sau bảy ngày nữa, ngọc Như Ý sẽ
mưa xuống tất cả áo mặc, thức ăn uống, tuỳ theo ai muốn dùng gì
cũng được như ý.
-
Nhưng
nhân dân trai giới thanh tịnh và thành kính mới được hưởng phúc vô
biên ấy!
-
Đến ngày
thứ bảy, Đại Thí tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới; rồi đi đến một khu
đất bằng phẳng cao rộng, để hạt ngọc Như Ý trên đầu ngọn phướn
cao, tay cầm lư hương nguyện rằng:
-
- Tất cả
chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề bần cùng tân khổ, tôi muốn cứu họ
khỏi sự thiếu thốn, nếu thực là ngọc Như Ý, thì xin lần lượt, mưa
xuống những món cần về đời sống của chúng sinh!
-
Lời cầu
nguyện vừa xong, bốn phương mây kéo râm mát, một làn gió thổi mạnh
làm tiêu tan tất cả những vật nhơ bẩn trên mặt đất, sau mưa qua
một lượt cho sạch bụi, rồi bay xuống các món ăn ngon lành, tiếp
tục năm thứ thóc rơi đầy mặt đất, quần áo, lụa vải, vàng bạc khắp
nhân gian đầy dẫy.
-
Từ đây
toàn cõi Diêm Phù Đề, nhà nào cũng đầy kho vàng bạc, lưu ly, kim
cương, thức ăn, áo mặc thừa thãi.
-
Vì nhiều
quá, nên bấy giờ họ coi vàng bạc, kim cương như đất đá, vô giá
trị.
-
Đại Thí
thấy dân đã đầy đủ các nguyện vọng, bèn sai người đi báo cáo cho
toàn cõi Diêm Phù Đề biết rằng:
-
- Tất cả
dân chúng trước đây, bị thiếu thốn về áo mặc thức ăn uống, châu
bảo, vì thế sát hại lẫn nhau, thấy lợi quên nghĩa, không e dè tội
phúc, chết đọa vào tam đồ ác đạo, cũng như người từ chỗ tối, lại
đi vô chỗ tối thêm, đày đọa tội khổ nhiều kiếp lâu dài. Tôi thường
thương xót không người cứu tế, vì thế mà tôi quên mình dấn thân
nơi biển cả, trải bao sự khó khăn gian hiểm lấy được viện ngọc Như
Ý, về cung cấp cho toàn thể quốc dân đầy đủ sung sướng! Giờ đây
tôi mong tất cả nhân dân, gắng sức tu mười điều lành, giữ gìn
thân, miệng, ý và có nhân từ, hiếu thảo, chớ nên phóng túng mới
mong thoát khỏi ba đường ác, đời đời được sinh Nhân Thiên, phú quý
tự tại tu chứng đạo Bồ Đề.
-
Sau viết
thư cho vua quan các nước khuyên dân tu theo pháp Thập Thiện,
ngoài ra còn dùng nhiều phương tiện dìu dắt chúng sinh, cải tà quy
chính, bỏ ác làm lành.
-
Thuở đó
tất cả nhân dân, trên Châu Diêm Phù Đề, được nhờ ơn Đại Thí đầy đủ
về vật chất, với tinh thần khuyên tu Thập Thiện. Họ nghĩ không
biết lấy gì đền đáp ơn cao cả ấy; họ chỉ biết tuân theo lời giáo
hóa tu Thập Thiện, và chuyên rèn luyện lòng từ bi khiêm nhượng,
giữ gìn thân, miệng, ý thanh tịnh, để trả ơn ông Đại Thí. Sau khi
mạng chung đều được sinh về các tầng Trời cả.
-
Nói tới
đây Phật nhắc lại rằng:
-
- Xá Lợi
Phất! Ông nên biết: ông Ni Câu Lư Đà thuở đó, chính là cha ta
(Tinh Phạn), bà sinh Đại Thí đó, nay là mẹ của ta (Ma Gia), còn
ông Đại Thí chính là thiền thân của ta; ông vua Long Vương ở thành
bằng bạc, nay là ông Xá Lợi Phất; vua Long Vương ở thành lưu ly
nay là ông Mục Kiền Liên; ông Long Vương ở thành bằng vàng, nay là
ông A Nan; ông Thần Bể nay là ông Ly Việt.
-
Ông A Nan
khi đó làm Long Vương thết đãi ta một cách khiêm kính, khéo biết
thời nghi, ngày nay cũng muốn hầu ta, cho đú鮧
thời tiết; ông ưng được ba nguyện ấy, là tùy ý muốn của ông.
-
Tôi rất
hoan hỷ, khi đức Phật nói lại thuở tiền sinh, nên tôi liền đứng
dậy, tới trước quỳ thẳng, chắp tay bạch rằng:
-
- Kính
lạy đức Thế Tôn! Con xin thân hành thọ làm Thị Giả, cúi xin Ngài
từ bi hứa khả cho!
-
Tất cả
mọi người lúc đó ai nấy đều cảm niệm ơn đức lớn lao của Phật đã
quên mình vì chúng sinh, rồi ngồi ngay nghiệm suy xét pháp Tứ Đế.
Sau có người đắc quả Tu Đà Hoàn, cho đến quả A La Hán, cũng có
người đắc nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm cầu đạo Vô
Thượng Bồ Đề, có người dự ngôi Bất Thoát, tất cả đều vui mừng tạ
lễ mà lui.
--o0o--
|
|