KINH BẪY MỒI
(Nivapasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông
Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này
các Tỷ-kheo". - "Bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Chư Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi khi gieo đồ mồi
cho đàn nai không nghĩ rằng: "Ta gieo đồ mồi này cho đoàn nai ăn
để đàn ấy được sống lâu, được tốt đẹp thêm và được nuôi dưỡng lâu
dài hơn". Chư Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi khi gieo đồ mồi cho
đàn nai nghĩ rằng: "Ta gieo đồ mồi này cho đàn nai, để đàn này xâm
nhập, tham đắm ăn các món ăn. Sau khi xâm nhập, tham đắm ăn các
món ăn, chúng trở thành mê loạn; do mê loạn, chúng trở thành phóng
dật; do phóng dật chúng trở thành những vật bị làm theo ý người ta
muốn, giữ ác đồ mồi này".
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai đầu tiên xâm nhập,
tham đắm, ăn các đồ mồi này do người thợ săn bẫy mồi gieo ra.
Chúng xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do
mê loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành
những vật bị làm theo ý người ta muốn giữ ác đồ mồi này của người
thợ săn bẫy mồi. Chư Tỷ-kheo, như vậy đàn nai đầu tiên này không
thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ hai suy nghĩ như
sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi này
do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Chúng ở đây xâm nhập, tham đắm,
ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do mê loạn, chúng trở thành
phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành những vật bị làm theo ý
người ta muốn giữ ác đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Như
vậy, đàn nai đầu tiên không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn
bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi, từ bỏ các
vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu vào rừng và an trú". Rồi đàn nai ấy
hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu
vào rừng và an trú. Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước khan hiếm, thân
hình đàn nai ấy trở thành hết sức gầy yếu. Vì thân hình đàn nai ấy
trở thành hết sức gầy yếu, sức lực củ húng bị kiệt quệ. Vì sức lực
bị kiệt quệ, đàn nai ấy trở lại các đồ mồi của người thợ săn bẫy
mồi gieo ra. Chúng ở đây xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi. Vì
chúng ở đây xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi, nên trở thành mê
loạn. Do mê loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng
trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữ ác đồ mồi này
của người thợ săn bẫy mồi. Như vậy đàn nai thứ hai không thoát
khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ ba suy nghĩ như
sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm nhập tham đắm, ăn các đồ mồi này
của người thợ săn bẫy mồi... (như trên)... Như vậy, đàn nai đầu
tiên này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Còn
đàn nai thứ hai này suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm
nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi...
(như trên)... Như vậy đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ý
lực của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ
các món ăn bẫy mồi, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu vào
rừng và an trú". Rồi đàn nai ấy hoàn toàn từ bỏ các món ăn bẫy
mồi, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu vào rừng và an trú.
Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước khan hiếm, thân hình đàn nai ấy trở
thành hết sức gầy yếu. Vì thân hình đàn nai ấy trở thành hết sức
gầy yếu, sức lực củ húng bị kiệt quệ. Vì sức lực bị kiệt quệ, đàn
nai ấy trở lại các đồ mồi ấy do người thợ săn bẫy mồi gieo ra.
Chúng ở đây xâm nhập tham đắm ăn các đồ mồi. Vì chúng ở đây xâm
nhập tham đắm ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do mê loạn,
chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành những vật
bị làm theo ý người ta muốn giữ ác đồ mồi này của người thợ săn
bẫy mồi. Như vậy đàn nai thứ hai không thoát khỏi như ý lực của
người thợ săn bẫy mồi. Nay chúng ta hãy làm một chỗ ấn nấp gần các
đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm chỗ ẩn nấp xong,
không xâm nhập, không tham đắm, chúng ta sẽ ăn các đồ mồi ấy do
người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Vì không xâm nhập không tham đắm ăn
các món ăn, chúng ta sẽ không mê loạn. Do không mê loạn, chúng ta
sẽ không phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta sẽ không trở
thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữ ác đồ mồi của
người thợ săn bẫy mồi". Rồi chúng làm một chỗ ẩn nấp gần các đồ
mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm chỗ ẩn nấp xong,
không xâm nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ mồi ấy do người
thợ săn bẫy mồi gieo ra. Vì không xâm nhập, không tham đắm ăn các
món ăn, nên chúng không mê loạn. Do không mê loạn, chúng không
phóng dật. Do không phóng dật, chúng không trở thành những vật bị
làm theo ý người ta muốn giữ ác đồ mồi này của người thợ săn bẫy
mồi.
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi và
quyến thuộc người thợ săn bẫy mồi suy nghĩ như sau: "Đàn nai thứ
ba này thật tinh khôn, xảo quyệt. Đàn nai thứ ba này thật có thần
lực và ma quái. Chúng ăn các đồ mồi được gieo ra này, mà chúng ta
không được biết đường đi lối về củ húng. Vậy chúng ta hãy bao vây
xung quanh các đồ mồi được gieo này, với những cây cột to lớn và
những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Rồi chúng t ó thể thấy được chỗ
ẩn nấp của đàn nai thứ ba này, chỗ chúng có thể đi để lấy đồ ăn".
Rồi họ bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo này với những cây
cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Này các Tỷ-kheo,
người thợ săn bẫy mồi và những người quyến thuộc người thợ săn bẫy
mồi thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba, chỗ chúng đi để lấy
đồ ăn. Như vậy này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ ba này không thoát
được như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ tư suy nghĩ như
sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm nhập tham đắm, ăn các đồ mồi này
của người thợ săn bẫy mồi... (như trên)... Như vậy đàn nai đầu
tiên này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Còn
đàn nai thứ hai này suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm
nhập tham đắm, ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi... (như
trên)... Như vậy đoàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ý lực
của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy... (như trên)...". Như
vậy đàn nai thứ hai này không thoát khỏi như ý lực của người thợ
săn bẫy mồi. Đàn nai thứ ba suy nghĩ như sau: "Đàn nai đầu tiên
xâm nhập tham đắm, ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi...
(như trên)... Như vậy đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ý
lực của người thợ săn bẫy mồi. Còn đàn thứ hai này suy nghĩ như
sau: "Đàn nai đầu tiên này xâm nhập tham đắm ăn các đồ mồi này của
người thợ săn bẫy mồi... Như vậy, đàn nai đầu tiên này không thoát
khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy... (như
trên)...". Như vậy đàn nai thứ hai này không thoát khỏi như ý lực
của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy làm một chỗ ẩn nấp gần
các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm chỗ ẩn nấp
xong, không xâm nhập, không tham đắm chúng ta sẽ ăn các đồ mồi ấy
do người thợ săn gieo ra. Vì không xâm nhập, không tham đắm, ăn
các món ăn, chúng ta sẽ không mê loạn. Do không mê loạn, chúng ta
sẽ không phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta sẽ không trở
thành những vị bị làm theo ý người ta muốn giữa những đồ mồi của
người thợ săn bẫy mỗi". Rồi chúng làm một chỗ ẩn nấp gần các đồ
mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm chỗ ẩn nấp xong,
không xâm nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ mồi ấy do người
thợ săn bẫy mồi gieo ra. Vì không xâm nhập, không tham đắm ăn các
món ăn, chúng không mê loạn. Do không mê loạn, chúng không phóng
dật. Do không phóng dật, chúng không trở thành những vật bị làm
theo ý người ta muốn giữa những đồ mồi này của người thợ săn bẫy
mồi. Ở đây, người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người
ấy suy nghĩ như sau: "Đàn nai thứ ba này thật tinh khôn, xảo
quyệt. Đàn nai thứ ba này thật có thần lực và ma quái. Chúng ăn
các đồ mồi được gieo ra mà chúng ta không được biết đường đi lối
về củ húng. Vậy chúng ta hãy bao vây xung quanh các đồ mồi được
gieo này với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi
nơi. Rồi chúng t ó thể thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba
này, chỗ chúng có thể đi để lấy đồ ăn". Rồi họ bao vây xung quanh
các đồ mồi được gieo này với những cây cột to lớn và những bẫy sập
cùng khắp mọi nơi. Người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của
người ấy thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba, chỗ chúng đi để
lấy đồ ăn. Như vậy đàn nai thứ ba ấy đã không thoát khỏi như ý lực
của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy làm một chỗ ẩn nấp,
tại một nơi mà người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của
người ấy không thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp tại đó xong, không xâm
nhập, không tham đắm, chúng ta sẽ ăn các đồ mồi do người thợ săn
bẫy mồi gieo ra. Vì không xâm nhập, không tham đắm ăn các món ăn,
chúng ta sẽ không mê loạn. Do không mê loạn, chúng ta sẽ không
phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta sẽ không trở thành những
vật bị làm theo ý người ta muốn giữ ác đồ mồi của người thợ săn
bẫy mồi". Rồi đàn nai thứ tư làm một chỗ ẩn nấp tại một nơi mà
người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy không thể
đến được. Làm chỗ ẩn nấp tại đó xong, không xâm nhập, không tham
đắm, chúng ăn các đồ mồi do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Vì
không xâm nhập, không tham đắm ăn các món ăn, chúng không trở
thành mê loạn. Do không mê loạn, chúng không trở thành phóng dật.
Do không phóng dật, chúng không trở thành những vật bị làm theo ý
người ta muốn giữ ác đồ mồi của người thợ săn bẫy mồi.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi và những
quyến thuộc của người ấy suy nghĩ như sau: "Đàn nai thứ tư này
thật tinh khôn, xảo quyệt. Đàn nai thứ tư này thật có thần lực và
ma quái. Và chúng ăn các đồ mồi được gieo ra mà chúng ta không
biết được đường đi lối về củ húng. Vậy chúng ta hãy bao vây xung
quanh các đồ mồi được gieo này với những cây cột to lớn và những
bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Rồi chúng t ó thể thấy được chỗ ẩn nấp
của đàn nai thứ tư này, chỗ chúng có thể đi để lấy đồ ăn". Rồi họ
bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo này với những cây cột to
lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Nhưng này các Tỷ-kheo,
người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy đã không
thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ tư này, chỗ chúng có thể đi
để lấy đồ ăn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người thợ săn và những quyến
thuộc của người ấy lại suy nghĩ như sau: "Nếu chúng ta đánh phá
đàn nai thứ tư này, chúng bị đánh phá sẽ đánh phá các đàn nai
khác; các đàn nai khác bị đánh phá sẽ đánh phá các đàn nai khác
nữa. Như vậy toàn thể đàn nai sẽ từ bỏ các đồ mồi được gieo này.
Vậy chúng t hớ có can thiệp vào đàn nai thứ tư". Này các Tỷ-kheo,
người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy không can
thiệp vào đàn nai thứ tư. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ tư
đã thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
Này các Tỷ-kheo, tỷ dụ này được Ta dùng để giải thích
ý nghĩa. Và ý nghĩa ở đây là như sau: Chư Tỷ-kheo, đồ mồi đồng
nghĩa với năm dục trưởng dưỡng. Chư Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi
đồng nghĩa với Ác ma. Chư Tỷ-kheo, các quyến thuộc của người thợ
săn bẫy mồi đồng nghĩa với quyến thuộc của Ác ma. Chư Tỷ-kheo, các
đàn nai đồng nghĩa với các Sa-môn, Bà-la-môn.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu
tiên xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật
dụng thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, nên trở
thành mê loạn; vì mê loạn, họ trở thành phóng dật; vì phóng dật,
họ trở thành những người bị làm theo ý Ác ma muốn giữ ác đồ mồi
này và giữ ác vật dụng thế gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng
Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này không thoát được như ý lực của Ác
ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này
giống như đàn nai đầu tiên trong thí dụ.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai
suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này đã xâm
nhập, tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra, và các vật dụng thế
gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, nên trở thành mê
loạn; vì mê loạn, họ trở thành phóng dật; vì phóng dật, họ trở
thành những người bị làm theo ý Ác ma muốn giữ ác đồ mồi ấy và giữ
ác vật dụng thế gian. Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này
đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Vậy, chúng ta hãy hoàn
toàn từ bỏ các đồ mồi và các vật dụng thế gian, từ bỏ các vật dụng
đáng sợ hãi, đi sâu vào rừng và an trú". Họ hoàn toàn từ bỏ các đồ
mồi, các vật dụng thế gian, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu
vào rừng và an trú. Ở đây, họ trở thành những người ăn cỏ lúa, ăn
lúa tắc, những người ăn gạo lức, những người ăn hột cải Nivara,
những người ăn da vụn, những người ăn trấu, những người ăn nước
bột gạo, những người ăn hột vừng, những người ăn cỏ, những người
ăn phân bò, những người ăn trái cây, những người ăn rễ cây trong
rừng, những người ăn trái cây rụng để sống.
Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước trở thành khan hiếm, thân
hình của hạng Sa-môn, Bà-la-môn ấy trở thành hết sức gầy yếu. Vì
thân hình hạng Sa-môn, Bà-la-môn ấy trở thành hết sức gầy yếu, nên
sức lực tinh tấn của họ bị kiệt quệ. Vì sức lực tinh tấn bị kiệt
quệ, nên tâm giải thoát bị kiệt quệ. Vì tâm giải thoát bị kiệt
quệ, họ trở lui lại các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng
thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn. Do ở đây xâm
nhập, tham đắm ăn các món ăn, chúng trở thành mê loạn. Do mê loan
họ trở thành phóng dật. Do phóng dật, họ trở thành những người bị
làm theo ý Ác ma muốn giữ ác đồ mồi này và giữ ác vật dụng thế
gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này
đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói
rằng hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này giống như đàn nai thứ hai
trong ví dụ này.
Này các Tỷ-kheo, ở đây hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba
suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này xâm nhập,
tham đắm ăn các đồ mồi được Ác ma gieo ra và các vật dụng thế
gian... (như trên)... Như vậy hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này
đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn
thứ hai suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này xâm
nhập, tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra, và các vật dụng thế
gian... (như trên)... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này
đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Vậy chúng ta hãy hoàn
toàn từ bỏ các đồ mồi... (như trên)... chúng ta từ bỏ hoàn toàn
các đồ mồi... (như trên)..."... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn
thứ hai này cũng không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Vậy chúng
ta hãy làm một chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các
vật dụng thế gian. Ở đây, sau khi làm một chỗ ẩn nấp xong, không
xâm nhập, không tham đắm, chúng ta sẽ ăn các đồ mồi do Ác ma gieo
ra và các vật dụng thế gian. Do không xâm nhập, không tham đắm ăn
các món ăn, chúng ta sẽ không trở thành mê loạn. Do không mê loạn,
chúng ta sẽ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, chúng
ta sẽ không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn, giữ ác
đồ mồi và các vật dụng thế gian." Hạng Sa-môn, Bà-la-môn này làm
chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi do Ác ma gieo ra và giữ ác vật dụng thế
gian. Sau khi làm chỗ ẩn nấp ở đây xong, họ không xâm nhập, không
tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian.
Không xâm nhập, không tham đắm, họ không ăn các đồ mồi nên không
trở thành mê loạn. Do không mê loạn, họ không trở thành phóng dật.
Do không phóng dật, họ không trở thành những người bị làm theo Ác
ma muốn giữ ác đồ mồi và các vật dụng thế gian. Nhưng rồi họ có
những tà kiến như sau: "Thế giới là thường còn; thế giới là không
thường còn; thế giới là hữu biên; thế giới là vô biên; mạng sống
và thân thể là một; mạng sống và thân thể là khác; Như Lai sau khi
chết có tồn tại; Như Lai sau khi chết không tồn tại; Như Lai sau
khi chết có tồn tại và không tồn tại; Như Lai sau khi chết không
tồn tại và không không tồn tại". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác
ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba này
giống như đàn nai thứ ba trong ví dụ này.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư
suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất xâm nhập, tham
đắm ăn các đồ mồi của Ác ma và các vật dụng thế gian... như vậy,
hạng Sa-môn, Bà-la-môn này không thoát khỏi như ý lực của Ác ma.
Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ nhất... (như trên)... Như vậy, hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ nhất không thoát được như ý lực của Ác ma. Vậy,
chúng ta hãy từ bỏ hoàn toàn các món ăn bẫy mồi... (như trên)...".
Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai không thoát khỏi như ý lực
của Ác ma. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba suy nghĩ như sau :
"...(như trên)... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba không
thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Vậy chúng ta hãy làm chỗ ẩn nấp
tại một nơi mà Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến được. Làm
chỗ ẩn nấp ở đấy xong, chúng ta sẽ không xâm nhập, không tham đắm
ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Không xâm
nhập, không tham đắm ăn các đồ ăn nên chúng ta không trở thành mê
loạn. Do không mê loạn, chúng ta không trở thành phóng dật. Do
không phóng dật, chúng ta không trở thành những người bị làm theo
Ác ma muốn, giữ ác đồ mồi và các vật dụng thế gian". Rồi họ làm
chỗ ẩn nấp tại một nơi mà Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến
được. Làm chỗ ẩn nấp ở đấy xong, họ không xâm nhập, không tham đắm
ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Không xâm
nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật
dụng thế gian, nên họ không trở thành mê loạn. Do không mê loạn,
họ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, họ không trở
thành những người bị làm theo Ác ma muốn giữ ác đồ mồi và các vật
dụng thế gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn
thứ tư đã thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói
hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư này giống như đàn nai thứ tư trong
ví dụ này.
Này các Tỷ-kheo, sao gọi là Ác ma và Ác ma quyến thuộc
không thể đến được? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly ác
bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là
Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không còn dấu
tích, khiến Ác ma không thấy đường đi lối về. Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất
tâm. Như vậy gọi là vị Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt
của Ác ma, không còn dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường đi lối
về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm
tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như
trên)... đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả
lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ
tư không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như vậy gọi là
Tỷ-kheo... (như trên)...đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng
không tác ý đối với dị tưởng. Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô
biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Như vậy gọi là Tỷ-
kheo...(như trên)... đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng "Thức là vô
biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Như vậy, gọi là vị Tỷ-kheo...
(như trên)... đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có một vật gì",
chứng và trú Vô sở hữu xứ. Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như trên)...
đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô
sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy gọi là
vị Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về. Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và
trú Diệt thọ tưởng (định), sau khi thấy (mọi vật) với trí tuệ, các
lậu hoặc được diệt trừ. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Tỷ-kheo
làm Ác mà mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không còn dấu tích,
khiến Ác ma không thấy đường đi lối về. Vị ấy đã vượt khỏi tham
trước ở đời.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.