TIỂU KINH THÍ DỤ LÕI CÂY
(Culasaropamasuttam)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú tại Savatthi (Xá-vệ), Jetavana
(Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Rồi Bà-la-môn
Pingalakoccha đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến nói lên với Thế
Tôn những lời hỏi thăm, chúc tụng xã giao, rồi ngồi xuống một bên.
Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Pingalakoccha bạch Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, có những Sa-môn, Bà-la-môn này là vị
Hội chủ, vị Giáo trưởng, vị Sư trưởng Giáo hội, có tiếng tốt, có
danh vọng, khi Tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, như Purana
Kassapa, Makkhali Gosala, Ajita Kesakambali, Pakudha Kaccayana,
Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nataputta, tất cả những vị này tự
xưng là nhứt thiết trí hay tất cả không phải là nhứt thiết trí,
hay một số là nhứt thiết trí và một số không phải nhứt thiết trí?
– Thôi vừa rồi, này Bà-la-môn, hãy dừng lại ở đây:
"Tất cả những vị này tự xưng là nhứt thiết trí hay tất cả không
phải là nhứt thiết trí? Hay một số là nhứt thiết trí và một số
không phải nhứt thiết trí?" Này Bà-la-môn, Ta sẽ thuyết pháp cho
Ông, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Pingalakoccha vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn
thuyết giảng như sau:
– Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây,
tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi cây, người bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua
vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi và
tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật
sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết
vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn
được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một
cây lớn, đứng thẳng có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua
giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá lấy chúng
mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích
mà lõi cây có thể thành tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm
cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ
qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là
lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này
không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong,
không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi
cây, tìm cầu lõi cây. Trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây,
người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt
võ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người
này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm
cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn đứng
thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt
vỏ trong, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một người
có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây,
không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài,
không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây.
Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi
cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong mang
đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt được mục đích
mà lõi cây có thể thành tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm
cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi,
tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật
sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết
vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn
được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trước một cây lớn, đứng thẳng, có
lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng
rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt được mục đích mà lõi
cây có thể thành tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm
cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn đứng
thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và biết rằng đó
là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy, có thể nói: "Người này biết
lõi cây, biết giác cây, biết vỏ trong, biết vỏ ngoài, biết cành
lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm
lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt
lõi cây, mang đi và biết rằng đó là lõi cây. Và người này đạt được
mục đích mà lõi cây có thể thành tựu".
Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây, có người do lòng tin
xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ,
bị chi phối bởi đau khổ, Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể
chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh
vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy hoan hỷ, tự
mãn. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen mình, chê
người: "Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như vậy, còn các
Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền". Và vị ấy không
phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được các
pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính,
danh vọng. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn,
ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi
tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy
bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài,
chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và
người ấy sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu.
Này Bà-la-môn, Ta nói rằng: Người này giống như ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ,
bi chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể
chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính,
danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan
hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng
tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn
những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng
nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Vì thành tựu giới đức
này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Vì thành tựu giới đức này, vị ấy khen
mình, chê người: "Ta trì giới, theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác
phá giới, theo ác pháp". Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và
không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn,
thù thắng hơn giới đức. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động.
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi
cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có
lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ
trong, chặt lấy vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi
cây. Và người này sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể
thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ
ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong
sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ,
bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể
chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính,
danh vọng. Vị ấy, không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng
này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố
gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù
thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở
thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Vì thành
tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì
thành tựu giới đức này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi
lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao
thượng hơn, thù thắng hơn giới đức. Vị ấy không trở thành biếng
nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền
định này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu Thiền định này, vị
ấy khen mình, chê người: "T ó Thiền định, nhứt tâm. Các Tỷ-kheo
khác không có Thiền định, tâm bị phân tán". Và vị ấy không phát
khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp
khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy
trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi
cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy vỏ trong mang đi, tưởng
rằng đó là lõi cây. Và người này sẽ không đạt được mục đích mà lõi
cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng, người này giống
như ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ,
bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể
chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính,
danh vọng. Vị ấy, không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy, không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng
này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố
gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù
thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở
thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Do thành
tựu giới này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do
thành tựu giới đức này, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng
ao ước và tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù
thắng hơn sự thành tựu giới đức. Vị ấy không trở thành biếng nhác
và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền định. Vì thành tựu Thiền định
này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu
Thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước
và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn,
thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy không trở thành biếng
nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy, do tri kiến
này, hoan hỷ tự mãn. Vị ấy, do tri kiến này, khen mình, chê người:
"Ta sống, thấy và biết. Các Tỷ-kheo khác sống không thấy và không
biết". Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh
tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn tri
kiến. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví
như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm
lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ
qua lõi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và
người này sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu.
Này Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ,
bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể
chấm dứt". Do vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính,
danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan
hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
khen mình chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng
tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn
những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng
nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức
này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu
giới đức này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước
và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn,
thù thắng hơn sự thành tựu giới đức. Vị ấy không trở thành biếng
nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền
định, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu
Thiền định, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước và
tinh tấn, chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn
sự thành tựu Thiền định. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ
động. Vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy do tri kiến này hoan hỷ
nhưng không tự mãn. Vị ấy không do tri kiến này, khen mình, chê
người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước, cố gắng tinh tấn để chứng được
các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Vị ấy không
trở thành biếng nhác và thụ động.
Và này Bà-la-môn, những pháp gì cao thượng hơn, thù
thắng hơn tri kiến? Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp
bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc, do
ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn,
thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo diệt tầm
và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Này Bà-la-môn, pháp
này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này
Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự
lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú
Thiền thứ ba. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng
hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt
hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ,
không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng
hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt
lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, Tỷ-kheo nghĩ
rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Này
Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại
nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ
rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Này
Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại
nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ
rằng: "Không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này Bà-la-môn,
pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này
Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng
Phi phi tưởng xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù
thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi
Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng (định),
sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ. Này
Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Này
Bà-la-môn, các pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm
cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, lấy và mang đi và tự
biết đó là lõi cây. Và người ấy đạt được mục đích mà lõi cây có
thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng, người này giống như ví
dụ ấy.
Như vậy, này Bà-la-môn, phạm hạnh này không phải vì
lợi ích, lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng, không phải vì lợi ích
thành tựu giới đức, không phải vì lợi ích thành tựu Thiền định,
không phải vì lợi ích tri kiến. Và này Bà-la-môn, tâm giải thoát
bất động chính là mục đích của phạm hạnh này, là lõi cây của phạm
hạnh, là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Pingalakoccha bạch Thế
Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu
thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại
những gì quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ
đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để
những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh Pháp đã được Thế
Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày. Và nay con xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp, quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận
con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng!