- TIỂU
KINH PHƯƠNG QUẢNG
-
(Culavedallasuttam)
-
- Như vầy tôi nghe.
- Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương
Xá), tai Veluvana (Trúc Lâm), chỗ Kalandaka Nivapa. Rồi nam cư
sĩ Visakha đến chỗ Tỷ-kheo-ni Dhammadinna ở, sau khi đến, đảnh
lễ Tỷ-kheo-ni Dhammadinna rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi
xuống một bên, nam cư sĩ Visakha thưa với Tỷ-kheo ni
Dhammadinna:
- – Thưa Ni sư, tự thân, tự thân,
(Sakkaya), được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân
là như thế nào?
- – Hiền giả Visakha, Thế Tôn gọi
năm thủ uẩn là tự thân, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng
thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức thủ uẩn. Hiền giả Visakha, năm thủ
uẩn này, Thế Tôn gọi là tự thân.
- – Lành thay, thưa Ni sư.
- Nam cư sĩ Visakha hoan hỷ, tín thọ
lời Tỷ-kheo-ni Dhammadinna nói, rồi hỏi Tỷ-kheo-ni Dhammadinna
thêm một câu hỏi nữa:
- – Tự thân tập khởi, tự thân tập
khởi, thưa Ni sư, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi
tự thân tập khởi (Sakkaya samudaya) là như thế nào?
- – Hiền giả Visakha, khát ái này
đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này
chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Hiền giả Visakha,
khát ái này, Thế Tôn gọi là tự thân tập khởi.
- – Tự thân diệt, tự thân diệt, thưa
Ni sư, được gọi là như vậy. Thế Tôn gọi tự thân diệt là như thế
nào?
- – Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt,
không tham đắm, không có dư tàn của khát ái ấy, sự xả ly, sự vất
bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp. Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt
này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt.
- – Thưa Ni sư, tự thân diệt đạo, tự
thân diệt đạo, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự
thân diệt đạo là như thế nào?
- – Hiền giả Visakha, Con đường
Thánh tám ngành này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt đạo, tức là
chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
- – Thưa Ni sư, thủ này tức là năm
thủ uẩn kia hay thủ này khác với năm thủ uẩn?
- – Không phải, Hiền giả Visakha.
Thủ này tức là năm thủ uẩn kia, thủ này không khác với năm thủ
uẩn kia, Hiền giả Visakha, phàm có dục tham đối với năm thủ uẩn,
tức là (chấp) thủ đối với chúng ở đây vậy.
- – Thưa Ni sư, thế nào là thân
kiến?
- – Ở đây, Hiền giả Visakha, kẻ vô
văn phàm phu không đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục
pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đến
yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân
nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, xem sắc là tự ngã hay
xem tự ngã là có sắc, hay xem sắc là trong tự ngã hay xem tự ngã
là trong sắc; xem thọ là tự ngã, hay xem tự ngã là có thọ, hay
xem thọ là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong thọ; xem tưởng
là tự ngã, hay xem tự ngã là có tưởng, hay xem tưởng là trong tự
ngã, hay xem tự ngã là trong tưởng; xem hành là tự ngã, xem tự
ngã là có hành, hay xem hành là trong tự ngã, hay xem tự ngã là
trong hành; xem thức là tự ngã, hay xem tự ngã là có thức, hay
xem thức là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong thức. Như vậy,
Hiền giả Visakha, là thân kiến.
- – Thưa Ni sư, thế nào là không
phải thân kiến?
- Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Đa văn
Thánh đệ tử đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc
Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đến yết kiến các bậc Chân
nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc
Chân nhân, không xem sắc là tự ngã, không xem tự ngã là có sắc,
không xem sắc là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong sắc;
không xem thọ là tự ngã, không xem tự ngã là có thọ, không xem
thọ là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong thọ; không xem
tưởng là tự ngã, không xem tự ngã là có tưởng, không xem tưởng
là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong tưởng; không xem các
hành là tự ngã, không xem tự ngã là có các hành, không xem các
hành là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong các hành; không
xem thức là tự ngã, không xem tự ngã là có thức, không xem thức
là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong thức. Như vậy, Hiền
giả Visakha, là không có thân kiến.
- – Thưa Ni sư, thế nào là Thánh đạo
Tám ngành?
- – Hiền giả Visakha, đây là Thánh
đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định.
- – Thưa Ni sư, Thánh đạo Tám ngành
này là hữu vi hay vô vi?
- – Hiền giả Visakha, Thánh đạo Tám
ngành này là hữu vi.
- – Thưa Ni sư, ba uẩn được Thánh
đạo Tám ngành thâu nhiếp hay Thánh đạo Tám ngành được ba uẩn
thâu nhiếp?
- – Hiền giả Visakha, ba uẩn không
bị Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp; Hiền giả Visakha, Thánh đạo
Tám ngành bị ba uẩn thâu nhiếp. Hiền giả Visakha, chánh ngữ,
chánh nghiệp và chánh mạng, những pháp này được thâu nhiếp trong
giới uẩn. Chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, những pháp
này được thâu nhiếp trong định uẩn. Chánh tri kiến và chánh tư
duy, những pháp này được thâu nhiếp trong tuệ uẩn
- – Thưa Ni sư thế nào là định, thế
nào là định tướng, thế nào là định tư cụ, thế nào là định tu
tập?
- – Hiền giả Visakha, nhất tâm là
định, Bốn Niệm Xứ là định tướng, Bốn Tinh cần là định tư cụ, sự
luyện tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là định tu
tập ở đây vậy.
- – Thưa Ni sư, có bao nhiêu hành?
- – Hiền giả, có ba loại hành này:
thân hành, khẩu hành, và tâm hành.
- – Thưa Ni sư, thế nào là thân
hành, thế nào là khẩu hành, thế nào là tâm hành?
- – Thở vô, thở ra, Hiền giả
Visakha, là thân hành, tầm tứ là khẩu hành, tưởng và thọ là tâm
hành.
- – Thưa Ni sư, vì sao thở vô thở ra
là thân hành, vì sao tầm tứ là khẩu hành, vì sao tưởng và thọ là
tâm hành?
- – Thở vô, thở ra, Hiền giả
Visakha, thuộc về thân, những pháp này lệ thuộc với thân, nên
thở vô thở ra thuộc về thân hành. Hiền giả Visakha, trước phải
tầm và tứ rồi sau mới phát lời nói, nên tầm tứ thuộc về khẩu
hành. Tưởng và thọ và tâm sở, các pháp này lệ thuộc với tâm, nên
tưởng và thọ thuộc về tâm hành.
- – Thưa Ni sư, như thế nào là chứng
nhập Diệt thọ tưởng định?
- – Hiền giả Visakha, Tỷ-kheo chứng
nhập Diệt thọ tưởng định, vị ấy không nghĩ rằng: "Tôi sẽ chứng
nhập Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đang chứng nhập Diệt thọ
tưởng định" hay "Tôi đã chứng nhập Diệt thọ tưởng định". Vì
rằng, tâm của vị này trước đã được tu tập như vậy nên đưa đến
trạng thái như vậy.
- – Thưa Ni sư, Tỷ-kheo chứng nhập
Diệt thọ tưởng định, những pháp gì diệt trước, thân hành, hay
khẩu hành, hay tâm hành?
- – Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo
chứng nhập Diệt thọ tưởng định, khẩu hành diệt trước, rồi đến
thân hành, rồi đến tâm hành.
- – Thưa Ni sư, làm thế nào xuất
khởi Diệt thọ tưởng định?
- – Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo
xuất khởi Diệt thọ tưởng định, không có nghĩ rằng: "Tôi sẽ xuất
khởi Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đang xuất khởi Diệt thọ
tưởng định", hay: "Tôi đã xuất khởi Diệt thọ tưởng định". Vì
rằng tâm của vị này trước đã tu tập như vậy nên đưa đến trạng
thái như vậy.
- – Thưa Ni sư, Tỷ-kheo xuất khởi
Diệt thọ tưởng định, những pháp nào khởi lên trước, thân hành,
hay khẩu hành hay tâm hành?
- – Hiền giả Visakha, Tỷ-kheo xuất
khởi Diệt thọ tưởng định, tâm hành khởi lên trước nhất, rồi đến
thân hành, rồi đến khẩu hành.
- – Thưa Ni sư, khi Tỷ-kheo xuất
khởi Diệt thọ tưởng định, vị ấy cảm giác những xúc nào?
- – Hiền giả Visakha, khi Tỷ-kheo
xuất khởi Diệt thọ tưởng định, vị ấy cảm giác ba loại xúc: không
xúc, vô tướng xúc, vô nguyện xúc.
- – Thưa Ni sư, khi Tỷ-kheo xuất
khởi Diệt thọ tưởng định, tâm của vị ấy thiên về gì, hướng về
gì, khuynh hướng về gì?
- – Hiền giả Visakha, khi Tỷ-kheo
xuất khởi Diệt thọ tưởng định, tâm của vị ấy thiên về độc cư,
hướng về độc cư, khuynh hướng về độc cư.
- – Thưa Ni sư, có bao nhiêu thọ?
- – Hiền giả Visakha, có ba thọ này,
lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ.
- – Thưa Ni sư, thế nào là lạc thọ,
thế nào là khổ thọ, thế nào là bất khổ bất lạc thọ?
- – Hiền giả Visakha, cái gì được
cảm thọ bởi thân hay tâm, một cách khoái lạc, khoái cảm, như vậy
là lạc thọ. Hiền giả Visakha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay
tâm, một cách đau khổ, không khoái cảm, như vậy là khổ thọ. Hiền
giả Visakha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm không khoái
cảm, không khoái cảm như vậy là bất khổ bất lạc thọ.
- – Thưa Ni sư, đối với lạc thọ, cái
gì lạc, cái gì khổ? Đối với khổ thọ, cái gì khổ, cái gì lạc? Đối
với bất khổ bất lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ?
- – Hiền giả Visakha, đối với lạc
thọ, cái gì trú là lạc, cái gì biến hoại là khổ. Đối với khổ
thọ, cái gì trú là khổ, cái gì biến hoại là lạc. Đối với bất khổ
bất lạc thọ, có trí là lạc, vô trí là khổ.
- – Thưa Ni sư, trong lạc thọ, có
tùy miên gì tồn tại; trong khổ thọ, có tùy miên gì tồn tại;
trong bất khổ bất lạc thọ, có tùy miên gì tồn tại?
- – Hiền giả Visakha, trong lạc thọ,
tham tùy miên tồn tại; trong khổ thọ, sân tùy miên tồn tại;
trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại?
- – Thưa Ni sư, có phải trong tất cả
lạc thọ, tham tùy miên tồn tại; trong tất cả khổ thọ, sân tùy
miên tồn tại; trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên
tồn tại?
- – Hiền giả Visakha, không phải
trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên tồn tại; không phải trong
tất cả khổ thọ, sân tùy miên tồn tại; không phải trong tất cả
bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại.
- – Thưa Ni sư, trong lạc thọ, cái
gì phải từ bỏ. Trong khổ thọ, cái gì phải từ bỏ. Trong bất khổ
bất lạc thọ, cái gì phải từ bỏ?
- – Hiền giả Visakha, trong lạc thọ,
tham tùy miên phải từ bỏ. Trong khổ thọ, sân tùy miên phải từ
bỏ. Trong bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ.
- – Thưa Ni sư, có phải trong tất cả
lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ. Trong tất cả khổ thọ, sân tùy
miên phải từ bỏ. Trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy
miên phải từ bỏ?
- – Hiền giả Visakha, không phải
trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ; trong tất cả khổ
thọ, sân tùy miên phải từ bỏ; trong tất cả bất khổ bất lạc thọ,
vô minh tùy miên phải từ bỏ. Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo
ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm và tứ. Do vậy tham đã
được từ bỏ, không còn tham tùy miên tồn tại ở đây. Ở đây, Hiền
giả Visakha, vị Tỷ-kheo suy tư như sau: "Chắc chắn ta sẽ chứng
và an trú trong trú xứ mà nay các vị Thánh đang an trú". Vì muốn
phát nguyện hướng đến các cảnh giải thoát vô thượng, do ước
nguyện ấy, khởi lên ưu tư. Do vậy, sân được từ bỏ, không còn sân
tùy miên tồn tại ở đây. Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo xả
lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền
thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Do vậy vô minh
đã được từ bỏ, không còn vô minh tùy miên tồn tại ở đây.
- – Thưa Ni sư, lạc thọ lấy gì làm
tương đương?
- – Hiền giả Visakha, lạc thọ lấy
khổ thọ làm tương đương.
- – Thưa Ni sư, khổ thọ lấy gì làm
tương đương?
- – Hiền giả Visakha, khổ thọ lấy
lạc thọ làm tương đương.
- – Thưa Ni sư, bất khổ bất lạc thọ
lấy gì làm tương đương?
- – Hiền giả Visakha, bất khổ bất
lạc thọ lấy vô minh làm tương đương.
- – Thưa Ni sư, vô minh lấy gì làm
tương đương?
- – Hiền giả Visakha, vô minh lấy
minh làm tương đương.
- – Thưa Ni sư, minh lấy gì làm
tương đương?
- – Hiền giả Visakha, minh lấy giải
thoát làm tương đương.
- – Thưa Ni sư, giải thoát lấy gì
làm tương đương?
- – Hiền giả Visakha, giải thoát lấy
Niết-bàn làm tương đương?
- – Thưa Ni sư, Niết-bàn lấy gì làm
tương đương?
- – Hiền giả Visakha, câu hỏi đi quá
xa, vượt ra ngoài giới hạn câu trả lời. Hiền giả Visakha, phạm
hạnh là để thể nhập vào Niết-bàn, để vượt qua đến Niết-bàn, để
đạt cứu cánh Niết-bàn. Hiền giả Visakha, nếu Hiền giả muốn, hãy
đến chỗ Thế Tôn ở, và hỏi ý nghĩa này. Và Thế Tôn trả lời cho
Hiền giả như thế nào, hãy như vậy thọ trì.
- Rồi nam cư sĩ Visakha hoan hỷ, tín
thọ lời Tỷ-kheo-ni Dhammadinna giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ Tỷ-kheo ni Dhammadinna, thân bên phải hướng về phía
Tỷ-kheo-ni rồi từ biệt, đi đến chỗ Thế Tôn ở. Sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, nam cư sĩ
Visakha thuật lại cho Thế Tôn tất cả câu chuyện đàm đạo với
Tỷ-kheo-ni Dhammadinna. Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với nam cư
sĩ Visakha:
- – Này Visakha, Tỷ-kheo-ni
Dhammadinna là bậc Hiền trí! Này Visakha, Tỷ-kheo-ni Dhammadinna
là bậc Đại tuệ. Này Visakha, nếu Ông hỏi Ta ý nghĩa ấy, T ũng
trả lời như Tỷ-kheo-ni Dhammadinna đã trả lời. Ông đối với nghĩa
này, hãy như vậy thọ trì.
- Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nam
cư sĩ Visakha hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- --o0o--