|
Kinh Trung Bộ
H. T. Thích Minh Châu dịch
--o0o--
- KINH SÁU THANH
TỊNH
-
(Chabbisodhanasuttam)
-
- Như vầy tôi
nghe.
- Một thời Thế
Tôn trú ở Savatthi, Jetavana, tại tinh xá ông Anathapindika. Tại
đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo, "Này các Tỷ-kheo". – "Thưa vâng,
bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói
như sau :
- – Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo nói lên chánh trí (annam) như sau : "Ta
tuệ tri như vầy: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"". Này các
Tỷ-kheo, lời nói của vi Tỷ-kheo ấy, không nên tán thán cũng
không nên bác bỏ. Không tán thán, không bác bỏ, cần hỏi câu hỏi
: "Này Hiền giả, có bốn hình thức tuyên bố này được Thế Tôn, bậc
Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chân chánh nói
lên. Thế nào là bốn ? Cái gì được thấy được nói lên như là được
thấy. Cái gì được nghe được nói lên là được nghe. Cái gì được
cảm giác được nói lên như là cảm giác. Cái gì được nhận thức
được nói lên như là được nhận thức. Bốn hình thức tuyên bố này,
Này Hiền giả, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác chơn chánh nói lên. Nhưng biết cái gì, thấy cái
gì, đối với bốn hình thức tuyên bố này, Tôn giả có thể nói là
tâm của Tôn giả được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp
thủ ?"
- Này các
Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo, các lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành
mãn, những việc phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã
thành đạt mục đích, đã đoạn trừ hữu kiết sử, và đã được giải
thoát nhờ chánh trí, câu trả lời tùy pháp (anudhamma) của vị ấy
phải như sau: "Này chư Hiền, tôi không cảm thấy luyến ái, không
chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy,
an trú với tâm không có hạn chế, đối với những vật được thấy...
được nghe... được cảm giác... được nhận thức. Chư Hiền, vì rằng
tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với bốn hình thức tuyên bố
này, tôi có thể nói tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc,
không có chấp thủ".
- Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải được tán thán, phải được tùy hỷ với
lời nói : "Lành thay ! Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời nói :
"Lành thay, một câu hỏi nữa cần phải được hỏi. : "Này Hiền giả,
năm thủ uẩn này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chân chánh nói lên. Thế nào là năm ?
Tức là sắc thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, thọ thủ uẩn, hành thủ uẩn,
thức thủ uẩn. Năm thủ uẩn này, này Hiền giả, được Thế Tôn, bậc
Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chân chánh nói
lên. Nhưng biết cái gì, thấy cái gì, đối với năm thủ uẩn này,
Tôn giả có thể nói tâm của Tôn giả được giải thoát khỏi các lậu
hoặc, không có chấp thủ ?"
- Này các
Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo các lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành
mãn, những việc phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã
thành đạt mục đích, đã đoạn trừ hữu kiết sử, và đã được giải
thoát nhờ chánh trí, câu trả lời tùy pháp của vị ấy phải như sau
: "Này chư Hiền, sau khi biết sắc này là vô lực, biến hoại,
không an ổn, đối với những sắc là những chấp thủ phương tiện
(upayupadana), là những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên, đối
với những sắc ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ,
đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát. Này chư Hiền, sau
khi biết thọ này... Này chư Hiền, sau khi biết tưởng này.. Này
chư Hiền, sau khi biết hành này.. Này chư Hiền, sau khi biết
thức này là vô lực, biến hoại, không an ổn, đối với thức là
những chấp thủ phương tiện, là những tâm cố chấp, thiên chấp,
tùy miên. Đối với những thức ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn
diệt, đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát.
Chư Hiền, vì rằng tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với năm
thủ uẩn này, tôi có thể nói tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu
hoặc, không có chấp thủ".
- Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải được tán thán, phải được tùy hỷ với
lời nói : "Lành thay". Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời nói :
"Lành thay", một câu hỏi nữa cần phải được hỏi thêm : "Này Hiền
giả, sáu giới này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chơn chánh nói lên. Thế nào là sáu ?
Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thực
giới. Sáu giới này, này Hiền giả, được Thế Tôn, bậc Tri Giả,
Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nói lên. Nhưng biết cái
gì, thấy cái gì với sáu giới này, Tôn giả có thể nói tâm của Tôn
giả được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ ?"
- Này các
Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo các lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành
mãn, những việc phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã
thành đạt mục địch, đã đoạn trừ hữu kiết sử, và đã được giải
thoát nhờ chánh trí, câu trả lời tùy pháp của vị ấy phải như sau
: "Chư Hiền, tôi đã đi đến địa giới như là không phải tự ngã, và
(đi đến) tự ngã như là không tùy thuộc địa giới. Đối với những
pháp là những chấp thủ phương tiện tùy thuộc địa giới, là những
tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên; đối với những pháp ấy, với sự
đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm
tôi được giải thoát. Này chư Hiền, sau khi tôi đã đi đến thủy
giới.. Này chư Hiền, sau khi tôi đã đi đến hỏa giới… Này chư
Hiền, sau khi tôi đã đi đến phong giới... Này chư Hiền, sau khi
tôi đã đi đến không giới... Này chư Hiền, sau khi tôi đã đi đến
thức giới như là không phải tự ngã, và (đi đến) tự ngã như là
không tùy thuộc thức giới. Đối với những pháp là những chấp thủ
phương tiện tùy thuộc thức giới, là những tâm cố chấp, thiên
chấp, tùy miên; đối với những pháp ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly,
đoạn diệt, đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải
thoát. Chư Hiền, vì rằng tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với
sáu giới này, tôi có thể nói tâm tôi được giải thoát khỏi các
lậu hoặc, không có chấp thủ".
- Này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải được tán thán, cần phải được tủy
hỷ với lời nói: "Lành thay". Sau khi tán thán tùy hỷ với lời
nói: "Lành thay", một câu hỏi nữa cần phải được hỏi : "Này Hiền
giả, sáu nội ngoại xứ này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chơn chánh nói lên. Thế nào là sáu
? Mắt và sắc, tai và tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và
xúc, ý và pháp. Sáu nội ngoại xứ này, này Hiền giả, được Thế
Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nói
lên. Nhưng biết cái gì, thấy cái gì, thấy cái gì đối với sáu nội
ngoại xứ này, Tôn giả có thể nói tâm của Tôn giả được giải thoát
khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ".
- Này các
Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo các lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành
mãn, những việc phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã
thành đạt mục đích, đã đoạn trừ hữu kiết sử, và đã được giải
thoát nhờ chánh trí, câu trả lời tùy pháp của vị ấy phải như
sau: "Chư Hiền, đối với mắt, đối với sắc, đối với nhãn thức, đối
với những pháp được nhận thức bởi nhãn thức, phàm có dục gì,
tham gì, hỷ gì, ái gì, phàm có những pháp chấp thủ phương tiện,
những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên. Đối với những pháp ấy,
với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ
tri tâm tôi được giải thoát. Chư Hiền, vì rằng tôi biết như vậy,
thấy như vậy, đối với sáu nội ngoại xứ này, tôi có thể nói tâm
tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ. Chư
Hiền, đối với tai, đối với tiếng, đối với nhĩ thức; chư Hiền,
đối với mũi, đối với hương, đối với tỷ thức; chư Hiền, đối với
lưỡi, đối với vị, đối với thiệt thức; chư Hiền, đối với thân,
đối với xúc, đối với thân thức; chư Hiền, đối với ý, đối với
pháp, đối với ý thức, đối với các pháp được nhận thức bởi ý
thức, phàm có dục gì, tham gì, hỷ gì, ái gì, phàm có những chấp
thủ phương tiện, những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên; đối
với những pháp ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt, đoạn
trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát. Chư Hiền, vì
rằng tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với sáu nội ngoại xứ
này, tôi có thể nói tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc,
không có chấp thủ".
- Này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải được tán thán, cần phải được tùy
hỷ với lời nói : "Lành thay !" Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời
nói : "Lành thay", một câu hỏi nữa cần phải được hỏi thêm :
"Nhưng này Hiền giả, do biết gì, thấy gì, do đối với các thân có
nhận thức này và đối với tất cả tướng ở ngoài, Tôn giả có thể
nói về mạn tùy miên : "Ta là người làm, sở thuộc của ta là người
làm", mạn tùy miên của Tôn giả được đoạn trừ một cách hoàn
toàn".
- Chư Tỷ-kheo,
đối với Tỷ-kheo các lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn,
những việc phải làm, đã làm, đã đặt gánh xuống, đã thành đạt mục
đích, đã đoạn trừ hữu kiết sử, và đã được giải thoát nhờ chánh
trí, câu trả lời tùy pháp của vị ấy phải như sau: "Chư Hiền,
thuở xưa, khi tôi chưa xuất gia, tôi còn ngu muội. Tôi được Như
Lai, đệ tử Như Lai thuyết pháp. Sau khi nghe pháp. Tôi có lòng
tịnh tín đối với Như Lai. Thánh tựu được tịnh tín ấy, tôi suy
nghĩ : "Đời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy
những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật
rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh
hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.
Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia
đình, sống không gia đình".
- "Chư Hiền,
một thời gian sau, tôi từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn,
từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay từ bỏ bà con quyến thuộc lớn,
cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia từ bỏ gia đình, sống
không gia đình. Khi đã xuất gia như vậy, tôi thành tựu học giới
và nếp sống các vị Tỷ-kheo, tôi từ bỏ sát sanh, tránh xa sát
sanh, bỏ trượng bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương
xót tất cả chúng sanh và các loại hữu tình. Tôi từ bỏ lấy của
không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho,
chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh không có trộm
cướp. Tôi từ bỏ phi Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống tránh
xa (phi Phạm hạnh), từ bỏ dâm dục tục pháp. Tôi từ bỏ nói láo,
tránh xa nói láo, nói những lời chơn thật, y chỉ trên sự thật,
chắc chắn, đáng tin cậy, không phản lại đời. Tôi từ bỏ nói hai
lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi; nghe điều gì ở chỗ này, không đến
nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều này ở
chỗ kia, không đi nói với những người này, để sinh chia rẽ ở
những người kia. Tôi sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích
những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa
hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Tôi
từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, tôi nói những lời
nhẹ nhàng, thuận tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp
lòng nhiều người, tôi nói những lời nói như vậy. Tôi từ bỏ nói
lời phù phiếm, tránh xa nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những
lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh
pháp, nói những lời về luật, nói những lời đáng được gìn giữ,
những lời hợp thời thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
Tôi từ bỏ không làm hại đến các hột giống và các loại cây cỏ,
dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn phi
thời. Tôi từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình
diễn. Tôi từ bỏ không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu
thoa, các thời trang, các thời sức. Tôi từ bỏ không dùng giường
cao và giường lớn. Tôi từ bỏ không nhận các hạt sống. Tôi từ bỏ
không nhận thịt sống. Tôi từ bỏ không nhận đàn bà, con gái. Tôi
từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai. Tôi từ bỏ không nhận cừu dê.
Tôi từ bỏ không nhận gia cầm và heo. Tôi từ bỏ không voi, bò,
ngựa và ngựa cái. Tôi từ bỏ không nhận ruộng nương và đất đai.
Tôi từ bỏ không nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới.
Tôi từ bỏ không buôn bán. Tôi từ bỏ các sự gian lận bằng cân
tiền bạc và đo lường. Tôi từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian
trá, lừa đảo. Tôi từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc,
bức đoạt, trộm cắp, cướp phá. Tôi bằng lòng (tri túc) với tấm y
để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào
cũng mang theo (y bát). Ví như con chim bay đến chỗ nào cũng
mang theo hai cánh; cũng vậy, tôi bằng lòng với tấm y để che
thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang
theo (y bát). Tôi thành tựu Thánh giới uẩn này, cảm giác lạc thọ
thuộc nội tâm, không lỗi lầm. Khi mắt thấy sắc, tôi không nắm
giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân
gì, vì con mắt không được chế ngự khiến tham ái, ưu bi, các ác
bất thiện pháp khởi lên, tôi tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì
con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi
ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các
pháp, tôi không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì, vì ý căn không được chế ngự khiến tham ái
ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, tôi tự chế ngự nguyên
nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Tôi thành tựu
Thánh hộ trì các căn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không
vẩn đục. Khi đi tới, khi đi lui, tôi đều tỉnh giác. Khi nhìn
thẳng, khi nhìn quanh, tôi đều tỉnh giác. Khi co tay, khi duỗi
tay, tôi đều tỉnh giác. Khi mang y kép, y bát, tôi đều tỉnh
giác. Khi ăn, uống, nhai, nuốt, tôi đều tỉnh giác. Khi đi đại
tiện, tiểu tiện, tôi đều tỉnh giác. Khi đi, đứng, ngồi, nằm,
thức, nói, yên lặng, tôi đều tỉnh giác.
- "Và tôi đều
thành tự Thánh giới uẩn này,
thành tựu Thánh hộ trì các căn này
và thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này
chọn một chỗ thanh vắng,
tịch mịch như rừng,
gốc cây, khe núi,
hang đá, bãi tha
ma, lùm cây, ngoài trời,
đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong,
tôi ngồi kiết-già,
lưng thẳng tại chỗ nói trên
và an trú chánh niệm trước mặt. Tôi từ bỏ tham ái ở đời,
sống với tâm thoát ly tham ái,
gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận,
tôi sống với tâm không sân hận,
lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình,
gột rữa tâm hết sân hân. Từ bỏ hôn trầm thụy miên,
tôi sống thoát ly hôn trầm thụy miên,
với tâm tưởng hướng về ánh sáng
chánh niệm tỉnh giác,
gột rửa tâm hết hôn trâm thụy miên. Trừ bỏ trạo cử hối
quá, tôi sống không trạo
cử, hối quá,
nội tâm trầm lặng,
gột rửa tâm hết trạo cử,
hối quá. Từ bỏ nghi ngờ,
tôi sống thoát khỏi nghi ngờ,
không phân vân lưỡng lự,
gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
- "Tôi từ bỏ
năm triền cái, các pháp
làm cho tâm ô uế, làm cho
trí tuệ muội lược này, ly
dục, ly bất thiện pháp,
chứng và trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục, sanh
có tầm có tứ. Tôi diệt tầm và tứ,
chứng và trú Thiền thứ hai,
một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm, không
tứ, nội tỉnh
nhất tâm. Tôi ly hỷ trú xả,
chánh niệm tỉnh giác,
thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và trú Thiền
thứ ba. Tôi xả lạc, xả
khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền
thứ tư, không khổ không
lạc, xả niệm thanh tịnh.
- "Với tâm định
tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu
nhuyến, dễ sử dụng,
vững chắc, bình
thản như vậy, tôi dẫn tâm,
hướng tâm đến lậu tận trí.
Tôi biết như thật: "Đây là khổ",
biết như thật: "Đây là nguyên nhân của khổ",
biết như thật: "Đây là khổ diệt",
biết như thật : "Đây là con đường đưa đến khổ diệt",
biết như thật : "Đây là những lậu hoặc",
biết như thật : "Đây là nguyên nhân của lậu hoặc",
biết như thật : "Đây là các lậu hoặc được đoạn trừ",
biết như thật : "Đây là con đường đưa đến các lậu hoặc
được diệt trừ".
- "Tôi nhờ biết
như vậy, nhờ thấy như vậy,
tâm của tôi thoát khỏi dục lậu,
thoát khỏi hữu lậu,
thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy,
tôi khởi lên sự hiểu biết : "Ta đã giải thoát"". Tôi biết
: "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, việc cần làm đã
làm; không còn trở lui trạng thái này nữa".
- "Chư Hiền
do biết như vậy,
thấy như vậy, đối với các
thân có nhận thức này và đối với tất cả tướng ở ngoài,
mạn tùy miên : "Ta là người làm,
sở thuộc của ta là người làm",
mạn tùy miên này được đoạn trừ một cách hoàn toàn".
- Này các
Tỷ-kheo Tỷ-kheo ấy cần
phải được tán thán, cần
phải được tùy hỷ với lời nói: "Lành thay !" Sau khi tán thán,
tùy hỷ với lời nói: "Lành thay"
vị ấy cần phải nói như sau: "Thật lợi ích thay cho chúng
tôi, thật khéo lợi ích
thay cho chúng tôi, khi
chúng tôi được thấy một vị sống Phạm hạnh như Tôn giả".
- Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- --o0o--
|
|