|
Kinh Trung Bộ
H. T. Thích Minh Châu dịch
--o0o--
- KINH GIÁO GIỚI
NANDAKA
-
(Nandakovadasuttam)
-
- Như vầy tôi
nghe.
- Một thời Thế
Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tinh xá
ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Rồi Mahapajapati Gotami cùng với
khoảng năm trăm Tỷ-kheo-ni đi đến bên Thế Tôn; sau khi đến đảnh
lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Mahapajapati Gotami
bạch Thế Tôn :
- – Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn hãy giáo giới cho Tỷ-kheo-ni ! Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn hãy giảng dạy cho Tỷ-kheo-ni ! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy
thuyết pháp cho Tỷ-kheo-ni !
- Lúc bấy giờ, các Thượng tọa
(Trưởng lão) Tỷ-kheo thay phiên giáo giới Tỷ-kheo-ni. Nhưng Tôn
giả Nandaka không muốn thay phiên giáo giới Tỷ-kheo-ni. Rồi Thế
Tôn cho gọi Tôn giả Ananda và nói :
- – Này Ananda,
hôm nay đến phiên ai giáo giới Tỷ-kheo-ni ?
- Bạch Thế Tôn,
chính là phiên của Nandaka thay phiên giáo giới Tỷ-kheo-ni. Bạch
Thế Tôn, Tôn giả Nandaka không muốn thay phiên giáo giới
Tỷ-kheo-ni.
- Rồi Thế Tôn
cho gọi Tôn giả Nandaka :
- – Này
Nandaka, hãy giáo giới Tỷ-kheo-ni ! Này Nandaka, hãy giảng dạy
Tỷ-kheo-ni ! Này Bà-la-môn, hãy thuyết pháp cho Tỷ-kheo-ni !
- – Thưa vâng,
bạch Thế Tôn.
- Tôn giả
Nandaka ấy vâng đáp Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi
vào Savatthi để khất thực. Sau khi khất thực ở Savatthi xong,
sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, không có người thứ
hai cùng đi, đi đến Rajakarama (Vương Tự). Các Tỷ-kheo-ni ấy
thấy Tôn giả Nandaka từ xa đi đến, sau khi thấy liền sửa soạn
chỗ ngồi và sắp đặt nước rửa chân. Tôn giả Nandaka ngồi trên chỗ
ngồi đã soạn sẵn; sau khi ngồi, liền rửa chân. Các Tỷ-kheo-ni ấy
sau khi đảnh lễ Tôn giả Nandaka, liền ngồi xuống một bên. Tôn
giả Nandaka nói với các Tỷ-kheo-ni đang ngồi một bên:
- – Các Hiền
tỷ, sẽ có cuộc luận thuyết bằng cách đặt câu hỏi. Ở đây, những
ai biết, hãy trả lời : "Tôi biết". Những ai không biết, hãy trả
lời : "Tôi không biết". Nếu có ai nghi ngờ hay nghi hoặc, ở đây,
ta cần được hỏi như sau : "Thưa Tôn giả, sự việc này là thế nào
? Ý nghĩa việc này là gì ?"
- – Thưa Tôn
giả, cho đến đây, chúng con rất hoan hỷ và thỏa mãn với Tôn giả
Nandaka, vì rằng Tôn giả đã mời chúng con (hỏi).
- – Các Hiền
tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào ? Mắt là thường hay vô thường ?
- – Thưa Tôn
giả, vô thường.
- – Cái gì vô
thường, là khổ hay lạc ?
- – Thưa Tôn
giả, là khổ.
- – Cái gì vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi xem cái
ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi". ?
- – Thưa không
vậy, Tôn giả.
- – Các Hiền
tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào ? Tai là thường hay vô thường ?...
Mũi là thường hay vô thường ?... Lưỡi là thường hay vô thường
?.. Thân là thường hay vô thường ?... Ý là thường hay vô thường
?
- – Thưa Tôn
giả, vô thường
- – Cái gì vô
thường, là khổ hay lạc ?
- – Thưa Tôn
giả, là khổ.
- – Cái gì vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán
cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã
của tôi". ?
- – Thưa không
vậy, Tôn giả. Vì sao vậy ? Trước đây, thưa Tôn giả, chúng con đã
khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng : "Sáu nội xứ này là
vô thường".
- – Lành thay,
lành thay, các Hiền tỷ ! Chính phải là như vậy, là cái nhìn như
chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử. Chư Hiền tỷ, các
Hiền tỷ nghĩ thế nào ? Sắc là thường hay vô thường ?
- – Thưa Tôn
giả, vô thường
- – Cái gì vô
thường là khổ hay lạc ?
- – Thưa Tôn
giả, là khổ.
- – Cái gì vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán
cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã
của tôi". ?
- – Thưa không
vậy, Tôn giả.
- – Chư Hiền
tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào ? Tiếng là thường hay vô thường ?
... Hương là thường hay vô thường ?... Vị là thường hay vô
thường ? .... Xúc là thường hay vô thường ? ... Pháp là thường
hay vô thường ?
- – Thưa Tôn
giả, vô thường.
- – Cái gì vô
thường là khổ hay lạc ?
- – Thưa Tôn
giả, là khổ.
- – Cái gì vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán
cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã
của tôi ?"
- – Thưa không
vậy, Tôn giả. Vì sao vậy ? Trước đây, thưa Tôn giả, chúng con đã
khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng : "Sáu ngoại xứ này
là vô thường".
- – Lành thay,
lành thay, các Hiền tỷ ! Chính phải là như vậy, là cái nhìn như
chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử. Chư Hiền tỷ, các
Hiền tỷ nghĩ thế nào ? Nhãn thức là thường hay vô thường ?
- – Thưa Tôn
giả, vô thường
- – Cái gì vô
thường là khổ hay lạc ?
- – Thưa Tôn
giả, là khổ.
- – Cái gì vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán
cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã
của tôi". ?
- – Thưa không
vậy, Tôn giả.
- – Này các
Hiền tỷ, nhĩ thức là thường hay vô thường ?
- – Thưa Tôn
giả, vô thường.
- – Tỷ thức là
thường hay vô thường ?
- – Thưa Tôn
giả, vô thường.
- – Thân thức
là thường hay vô thường ?
- – Thưa Tôn
giả, vô thường.
- – Ý thức là
thường hay vô thường ?
- – Thưa Tôn
giả, vô thường.
- – Cái gì vô
thường là khổ hay lạc ?
- – Thưa Tôn
giả là khổ.
- – Cái gì vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán
cái ấy : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã
của tôi ?"
- – Thưa không
vậy, Tôn giả. Vì sao vậy ? Trước đây thưa Tôn giả, chúng con đã
khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng : "Sáu thức thân này
là vô thường".
- – Lành thay,
lành thay, chư Hiền tỷ ! Chính phải là như vậy, là cái nhìn như
chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử. Ví như, chư Hiền tỷ,
một ngọn đèn dầu được đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến
hoại; bấc là vô thường, chịu sự biến hoại; ngọn lửa là vô
thường, chịu sự biến hoại; ánh sáng là vô thường, chịu sự biến
hoại. Chư Hiền tỷ, nếu có ai nói rằng : "Ngọn đèn dầu này được
đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc là vô thường,
chịu sự biến hoại; ngọn lửa là vô thường, chịu sự biến hoại;
nhưng ánh sáng ấy là thường còn, thường trú, thường hằng không
chịu sự biến hoại",; chư Hiền tỷ, nói như vậy là có nói chân
chánh không ?
- – Thưa không
vậy, Tôn giả. Vì sao vậy ? Thưa Tôn giả, ngọn đèn dầu này được
đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc cũng là vô
thường, chịu sự biến hoại; ngọn lửa cũng là vô thường, chịu sự
biến hoại. Còn nói gì đến ánh sáng, cũng là vô thường, chịu sự
biến hoại !
- – Như vậy là
phải, này các Hiền tỷ ! Nếu có ai nói như sau: "Sáu ngoại xứ này
là vô thường, và do duyên sáu ngoại xứ này, tôi có cảm thọ, lạc
thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường còn,
thường trú, thường hằng, không chịu sự biến hoại"; này các Hiền
tỷ, người ấy có nói một cách chân chánh không ?
- – Thưa không,
thưa Tôn giả. Vì sao vậy ? Thưa Tôn giả, do duyên cái này, cái
này cảm thọ như thế này, như thế này khởi lên. Do diệt các duyên
như thế này, như thế này, các cảm thọ như thế này, như thể này
cũng biến diệt.
- – Lành thay,
lành thay, các Hiền tỷ ! Chính phải là như vậy, là cái nhìn như
chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử. Ví như, này các Hiền
tỷ, có cây to lớn đứng thẳng, có lõi cây, với rễ vô thường, chịu
sự biến hoại, với thân cây vô thường, chịu sự biến hoại, với
cành lá vô thường, chịu sự biến hoại, với bóng cây vô thường,
chịu sự biến hoại. Nếu có người nói như sau : "Có cây lớn đứng
thẳng có lõi cây này, với rễ vô thường, chịu sự biến hoại, với
thân cây vô thường, chịu sự biến hoại, với cành lá vô thường,
chịu sự biến hoại, nhưng bóng mát của cây ấy là thường còn,
thường trú, thường hằng, không chịu biến hoại"; này các Hiền tỷ,
người ấy có nói một cách chân chánh không ?
- – Thưa không,
thưa Tôn giả. Vì sao vậy ? Thưa Tôn giả, cây to lớn đứng thẳng
có lõi cây này, có rễ vô thường, chịu sự biến hoại, có thân cây
vô thường; chịu sự biến hoại, có cành lá vô thường, chịu sự biến
hoại. Còn nói gì đến bóng mát, cũng là vô thường, chịu sự biến
hoại !
- – Như vậy là
phải, này chư Hiền tỷ ! Nếu có ai nói như sau: "Sáu nội xứ này
là vô thường, và do duyên sáu ngoại xứ này tôi cảm thọ, lạc thọ,
khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường còn,
thường trú, thường hằng, không chịu sự biến hoại"; này các Hiền
tỷ, người ấy có nói chân chánh không ?
- – Thưa không,
thưa Tôn giả. Vì sao vậy ? Thưa Tôn giả, do duyên cái này, cái
này, cảm thọ như thế này, như thế này khởi lên. Do diệt các
duyên như thế này, như thế này, các cảm thọ như thế này, như thế
này cũng biến diệt.
- – Lành thay,
lành thay, chư Hiền tỷ ! Chính phải là như vậy, là cái nhìn như
chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử. Ví như, này các Hiền
tỷ, một người đồ tể giết bò thiện xảo hay người đệ tử; sau khi
giết con bò, cắt con bò với con dao sắc bén của người đồ tể giết
bò, mà không hư hại phần thịt ở trong, không hư hại phần da
ngoài, rồi với con dao sắc bén của người đồ tể giết bò, cắt đứt,
cắt đoạn, cắt tiệt mọi dây thịt phía trong; dây gân phía trong,
dây khớp xương phía trong; sau khi cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt
và sau khi lột da ngoài, lại bao trùm con bò ấy với chính da bò
ấy rồi nói : "Con bò này đã được dính liền với da này như
trước"; này các Hiền tỷ, nói như vậy có nói một cách chơn chánh
không ? "
- – Thưa không,
thưa Tôn giả. Vì sao vậy ? Dầu cho, thưa Tôn giả, người đồ tể
giết bò thiện xảo ấy hay người đệ tử sau khi giết con bò.. (như
trên)... lại bao trùm con bò ấy với chính da bò ấy lại có thể
nói như sau : "Con bò này đã được dính liền với da này như
trước, " dầu con bò này đã bị lột ra khỏi da ấy.
- – Ta làm ví
dụ này, này các Hiền tỷ, là để nêu rõ ý nghĩa. Ở đây, ý nghĩa
này như sau : Chư Hiền tỷ, thịt ở trong là đồng nghĩa với sáu
nội xứ. Chư Hiền tỷ, da ở ngoài là đồng nghĩa với sáu ngoại xứ,
Chư Hiền tỷ, dây thịt phía trong, dây gân phía trong, dây khớp
xương phía trong là đồng nghĩa với dục hỷ và tham. Chư Hiền tỷ,
con dao đồ tể giết bò sắc bén là đồng nghĩa với Thánh trí tuệ.
Với Thánh trí tuệ này cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt nội phiền não,
nội kiết sử, nội triền phược.
- Chư Hiền tỷ,
có bảy giác chi, do tu tập, làm cho sung mãn bảy giác chi này,
vị Tỷ-kheo với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình chứng tri ngay
trong hiện tại với thượng trí; chứng đạt và an trú, vô lậu tâm
giải thoát, tuệ giải thoát. Thế nào là bảy ? Ở đây, chư Hiền tỷ,
Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y
chỉ đoạn diệt, hướng đến từ bỏ; tu tập trạch pháp giác chi, tu
tập tinh tấn giác chi, tu tập hỷ giác chi, tu tập khinh an giác
chi, tu tập định giác chi, tu tập xả giác chi, y chỉ viễn ly, y
chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Chư Hiền tỷ, bảy
giác chi này, do tu tập, làm cho sung mãn, Tỷ-kheo với sự đoạn
tận các lậu hoặc, sau khi tự mình chứng tri ngay trong hiện tại,
với thượng trí chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát.
- Rồi Tôn giả
Nandaka, sau khi giáo giới các Tỷ-kheo ni ấy với lời giáo giới,
liền cho giải tán :
- – Chư Hiền
tỷ, hãy đi về, giờ đã đến rồi.
- Rồi các
Tỷ-kheo ni ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Nandaka dạy,
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tôn giả Nandaka, thân phía hữu
hướng về Tôn giả, rồi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế
Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo-ni ấy đang
đứng một bên :
- – Này các
Tỷ-kheo-ni, hãy đi. Giờ đã đến rồi.
- Rồi các
Tỷ-kheo-ni ấy, sau khi đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về
Ngài rồi ra đi. Rồi Thế Tôn, sau khi các Tỷ-kheo-ni ấy ra đi
không bao lâu, gọi các vị Tỷ-kheo và nói :
- – Này các
Tỷ-kheo, ví như vào ngày Bố-tát, ngày mười bốn, quần chúng không
có nghi ngờ hay nghi hoặc rằng mặt trăng là không tròn hay mặt
trăng là tròn vì khi ấy mặt trăng chưa tròn; cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, dầu cho các Tỷ-kheo-ni ấy hoan hỷ với bài thuyết pháp
của Nandaka, nhưng tâm trí của họ chưa được thỏa mãn.
- Rồi Thế Tôn
nói với Tôn giả Nandaka :
- – Vậy này
Nandaka, ngày mai, Ông sẽ giáo giới cho các Tỷ-kheo-ni ấy với
bài giáo giới.
- – Thưa vâng,
bạch Thế Tôn.
- Tôn giả
Nandaka vâng đáp Thế Tôn.
- Rồi Tôn giả
Nandaka, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát,
đi vào Savatthi (Xá-vệ) để khất thực. Sau khi đi khất thực ở
Savatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về,
tự thân một mình đi đến Rajarama. Các vị Tỷ-kheo-ni ấy thấy Tôn
giả Nandaka từ xa đi lại; sau khi thấy, liền sửa soạn chỗ ngồi
và sắp đặt nước rửa chân. Tôn giả Nandaka ngồi trên chỗ đã soạn
sẵn; sau khi ngồi, liền rửa chân. Các vị Tỷ-kheo-ni ấy đảnh lễ
Tôn giả Nandaka rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Nandaka nói với
các Tỷ-kheo-ni ấy đang ngồi một bên:
- – Các Hiền
tỷ, sẽ có cuộc luận thuyết bằng cách đặt câu hỏi. Ở đây, những
ai biết hãy trả lời : "Tôi biết". Những ai không biết, hãy trả
lời "Tôi không biết". Nếu ai có nghi ngờ hay do dự, ở đây, ta
cần được hỏi như sau : "Thưa Tôn giả, sự việc này là thế nào ? "
Ý nghĩa việc này là gì?"
- – Thưa Tôn
giả, cho đến đây, chúng con rất hoan hỷ và thỏa mãn với Tôn giả
Nandaka, vì rằng Tôn giả đã mời chúng con (hỏi) !
- – Chư Hiền
tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào ? Mắt là thường hay vô thường ?
- – Thưa Tôn
giả, vô thường.
- – Những gì vô
thường... (như trên.. trang 612 đến trang 620 của kinh này). Hãy
đi, này các Tỷ-kheo-ni giờ đã đến rồi.
- Thế Tôn, sau
khi các Tỷ-kheo-ni ấy ra đi không bao lâu, Thế Tôn gọi các
Tỷ-kheo và nói:
- – Này các
Tỷ-kheo, ví như vào ngày Bố-tát, ngày rằm, quần chúng không có
nghi ngờ hay phân vân rằng mặt trăng là không tròn hay mặt trăng
là tròn, vì khi ấy mặt trăng đã tròn; cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
các Tỷ-kheo-ni ấy hoan hỷ với bài thuyết pháp của Tôn giả
Anandaka, và tâm tư của họ được thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, trong
năm trăm Tỷ-kheo-ni ấy, Tỷ-kheo-ni cuối cùng chứng dược Dự lưu,
không còn bị đọa lạc, và chắc chắn đạt đến chánh giác.
- Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
- --o0o--
|
|