- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN

- THÁNG 7 VỚI
ĐỨC "ĐỊA TẠNG BỔ TÁT"
- Tạ Duy Chân
- ---o0o---
-
Trong tháng 7 âm
lịch, đạo Phật không chỉ có ngày đại lễ "Vu lan" mà còn có lễ
tiết lớn khác, đó là ngày "Địa tạng Bồ Tát thành đạo" vào ngày
30-7.
-
Ngày lễ này thường
được gọi chung là "Địa Tạng Vương Bồ TÁt Tiết Nhật". Theo kinh
Phật, đức địa tạng Bồ Tát đã đản sinh sau khi đức Thích Ca
nhập Niết bàn và trước khi đức Di Lặc giáng thế. Hai từ "Địa
Tạng" : "Địa" nghĩa là "đất", "Tạng" còn đọc là "tàng" nghĩa
là " cất giấu, ẩn chứa", Phật hiệu của đức Bồ Tát hàm ý ví
ngài với đại địa bao la, nơi ẩn chứa vô vàn thiện căn. Đức Địa
Tạng Vương Bồ Tát là hiện thân của sự cứu khổ, Ngài được đức
Thích Ca uỷ cho trọng trách "Giáo hóa lục đạo chúng sinh" để
muôn loài khỏi rơi vào chốn trầm luân khổ hải và cử làm "U
Minh giáo chủ", cai quản âm gian , Ngài đã nguyện trước Phật
Tổ : "Nếu nơi địa ngục còn một bóng ma, quyết không thành
Phật!". Do đó, Ngài thường xuất hiện ở chốn nhân gian và nơi
âm giới để tìm phương cách tế độ chúng sinh, không chịu an
hưởng ở nơi Cực Lạc thế giới, dù rằng với công đức vô lượng
của Ngài, Ngài đã được đức Phật Tổ ban cho Phật hiệu.
-
Cũng theo sách Phật, đức Địa Tạng
Bồ Tát từng giáng sinh tại nước Tân La (nay là Triều Tiên) vào
năm thứ 4 thời Hiếu Chiếu vương trị vì (năm 695 Tây lịch) là
con em của vương thất nước này. Như các sách "Cửu Hoa sơn
chí", "Thần Tăng truyện"...đã chép, đức Địa Tạng Bồ Tát họ
Kim, tên là Kiều Giác, Ngài thông minh đỉnh ngộ, lòng dạ thiện
lương ngay từ khi còn tấm bé, năm lên 5 tuổi Ngài đã thích đi
chùa lễ Phật và rất mộ đạo. Năm Ngài 25 tuổi, Ngài có một học
vấn cao, trí tuệ siêu phàm, được mọi người yêu quí, nể vì,
đường công danh rộng mở trước mắt, nhưng Ngài không màng tới ,
quyết xin cha mẹ cho được xuất gia, tu hành tại nơi cửa Phật.
Do một lòng tu tập, đạo học của Ngài rất mau tịnh tiến, được
sư trụ trì và các sư thầy vô cùng yêu mến, nhưng Ngài không
cho như thế là đủ, vẫn miệt mài học tập, sách không mấy khi
rời tay. Vào năm thứ 28 đời vua Thánh Đức nước Tân La (729 Tây
lịch), một hôm, Ngài tình cờ nghe thấy mấy thương nhân vào
chùa lễ Phật, nói với Đại sư trụ trì, ta5i bên nước Trung Hoa
từng có một vị Hòa thượng là Đường Tam Tạng,vượt bao gian hiểm
sang Thiên Trúc thỉnh về rất nhiều kinh Phật và dịch ra chữ
Hán, nhờ đó mà đạo Phật ở nước này rất hưng vượng, Ngài bèn
tha thiết cầu xin Đại sư trụ trì cho được rời chùa, vượt biển
sang Trung Hoa để tu học, nghiên cứu kinh Phật.
-
Ngài lìa nước triều
tiên, trãi qua vô vàn sóng gió nguy hiểm, tới nước Trung Hoa
vào năm Khai Nguyên thứ 18 (730 Tây lịch) đời Đường Minh Hoàng
(tức Đường Huyền Tông). Tại Trung Hoa, Ngài nghe đồn ở huyện
Thanh Dương, tỉnh An Huy có ngọn Cửu Hỏa Sơn, cảnh sắc rất
đẹp, nổi tiếng với những truyền thuyết về Phật giáo, bèn tìm
tới, quả nhiên thấy đúng như lời thiên hạ đồn đại; lại thấy ở
ngõ Cửu Hoa, dưới ngọn Phù Dung phong thuộc núi Cửu Hoa có một
tòa cổ am, tương truyền do một nhà sư người Thiên Trúc (Ấn Độ)
là Hoà thượng Bôi Độ xây dựng lên vào năm Long An thứ 5 nhà
Đông Tấn (401 Tây lịch) để tu hành, hiện vị lão tăng trụ trì ở
am này vừa mới viên tịch, am còn bỏ trống, Ngài liền đến xin
quan huyện Thanh Dương cho được cư ngụ tại am ấy để tu hành.
Tại am này, Ngài chịu đói chịu lạnh, đọc và nghiền ngẫm kinh
Phật,đạo học của Ngài tinh tiến vượt bậc, Ngài trở thành nhà
sư rất uyên bác về Phật học, danh tiếng vang dội khắp cõi
Trung Nguyên, được nhiều tín đồ mến mộ, tìm tới nghe Ngài
giảng kinh.
-
Năm Chí Đức thứ 2
đời Đường Túc Tông (757 Tây lịch), một vị thân sĩ giàu có ở
huyện Thanh Dương là Gia Cát Tiết, vì mến mộ Ngài, đã bỏ tiền
của ra xây dựng chùa. Năm Kiến Trung thứ 2 đời Đường Đức Tông
(781 Tây lịch), viên thái thú Trì Châu là Trương Nham Hậu,
thấy Ngài đạo hạnh cao sâu, đem lòng cảm mến, lại thấy khách
thập phương đổ tới hành hương ngày một thêm đông, mà chùa thì
nhỏ không đủ cho khách lui tới, bèn dâng sớ về triều đình cho
dùng công quĩ để xây dựng lại chùa cho to, đẹp hơn. Chùa xây
dựng xong, vô cùng to rô5ng, đẹp đẽ. Quan thái thú họ Trương
lại xin Ngài đặt tên mới cho chùa. Ngài dựa vào một điển cố
trong kinh Pháp Hoa: "Một hôm, đức Thích Ca cùng một đệ tử đi
truyền đạo, trên đường bỗng bị núi cao chắn lối. Bấy giờ,
người đệ tử đang bị đói lả, ý muốn quay về, đức Thích Ca thấy
vậy, bèn chỉ tay về phía trước nói: "Ở kia có một toà thành,
chúng ta có thể tới đó hóa trai"; đặt tên chùa là "Hoá Thành"
và tên này được dùng mãi tới ngày nay.
-
Từ khi lên ngôi đại
tự Hóa Thành xây dựng xong, song song với bề thế to lớn, nguy
nga của ngôi chùa, số lượng khách thâp phương càng thêm đông
đảo,ngôi chùa trở thành một trong bốn danh thắng lớn của Trung
Hoa thời ấy.
-
Năm Trinh Nguyên thứ 10 đời Đường
Đức Tông (794 Tây lịch), Ngài đã 99 tuổi, nhưng sức khỏe vẫn
dồi dào, tinh thần minh mẫn. Một hôm, đang ngồi thiền định,
Ngài bổng mơ hồ nghe thấy có tiếng vời gọi thiêng liêng từ cõi
xa thẳm vọng tới Nam đài ở phía Nam núi Cửu Hoa, nói cho hay
rồi vui vẽ dặn dò hậu sự, truyền y bát, tích trượng cho ngườ
kế tục, đoạn bảo đệ tử đặt vào một cái chum lớn,ngồi ung dung
mà viên tịch. Ba năm sau,theo lời dặn của Ngài, các đệ
tử-trước sự chứng kiến của rất đông thiện nam, tín nữ- đã khui
mở nắp chum để rước nhục thân Ngài ra nhập tháp. khi nắp chum
mở ra, nhục thân của Ngài rất mềm, sắc diện vẫn tươi như sống,
thoang thoảng mùi thơm, không hề hư rữa. Lúc các đệ tử nhấc
nhục thân Ngài ra khỏi chum, các khớp xương Ngài vẫn không
cứng lại, chuyển động nghe phát ra tiếng kêu "rổn rảng" tựa
chuỗi xích vàng rung chuyển. Căn cứ vào điều đã ghi chép trong
kinh Phật, mọi người đều hiểu rằng, sau khi đức Thích Ca viên
tịch 1500 năm, đây là hiện tượng "Bồ Tát chuyển thể", bèn rước
nhục thân của Ngài vào tháp.Ngọn tháp tàng giữ nhục thân Ngài
là một ngọn tháp bằng đá ba tầng, cất trên "kim địa". Đêm ấy,
đúng vào giờ tý, tháp bỗng tỏa hào quang, sáng rực một vùng,
người dân thời ấy gọi là "viên quang" (ánh sáng của sự viên
mãn), còn các Tăng, Ni thì gọi đó là "thần quang thể", (ánh
sáng thần kì, màu sắc rực rỡ). Vì vậy, khu Nam Đài (không rõ
vì sao gọi là "Tây đài") được gọi là "Thần Quang Linh", ngọn
tháp đó được gọi lá "Nhục Thân bảo tháp".
-
Năm Trinh Nguyên thứ
13, đời Đường Đức Tông (797 Tây lịch) sau khi nhục thân của
đức Bồ Tát giáng thế được nhập tháp đá, hoàng đế Đức Tông, do
cảm mếnđức sáng của Ngài, đã đích thân ban chiếu truyềnxuất
công quĩ, xây trùm lên "Nhục Thân bảo tháp" một ngôi điện, đặt
tên là "nhục Thân bảo diện". Kể từ đó "Nhục Thân bảo điện"
được các triều đại kế tiếp nhau tu sữa nhiều lần. Đặc biệt
trong hai triều Minh, Thanh, "Nhục Thân bảo điện" đã được tu
sữa và xây dựng với một quy mô lớn hơn nhiều. Vào khoảng những
năm Vạn Lịch đời Minh (1573-1619 Tây lịch), triều đình đã cấp
kinh phí cho xây dựng lại "Nhục Thân bảo điện" thật nguy nga,
tráng lệ và ban danh hiệu "Hộ Quốc Nhục Thân bảo điện". Năm
Hàm Phong thứ 7 triều Thanh (1857 Tây lịch), tòa điện này vì
nằm trong vùng giao tranh ác liệt giữa quân nhà Mãn Thanh và
nghỉa quân Thái Bình Thiên Quốc, đã bị tàn phá nặng nề.Phải
đến những năm thuộc niên hiệu Đông Trị nhà Thanh (1862-1874)
mới được triều đình cho trùng tu lại, đây là tòa "Nhục Thân
bảo điện" hiện có.
-
Tòa đại điện nổi
danh này nằm trong cảnh giới của ngôi cổ tự "Hoá Thành", toạ
lạc giữa một vùng núi non hùng vĩ của "Thần Quang Lĩnh" thuộc
rặng "Cứu Hỏa Sơn" là một trong bốn đại danh thắng của Phật
giáo Trung Hoa nói riêng và của đất nước Trung hoa nói chung,
gồm: Cửu Hoa Sơn, Ngũ Đài Sơn, Nga Mi sơn và Phổ Đà sơn. Để
lên tới "Nhục thân bảo điện" phải vượt qua 84 bậc thềm đá từ
thấp lên cao ở trước điện, dọc theo hai bên các bậc thềm đá có
đóng cọc sắt, giăng dây xích sắt để bảo vệ khách lên điện và
giúp khách có chỗ vịnh tay.
-
Tòa "Nhục Thân bảo
điện" toạ lạc trên một mặt bằng vuông vức, mỗi cạnh dài 15m,
điện cao 18m. Đỉnh điện lợp ngói đúc bă2ng sắt. Các hành lang
ở quanh điện được chống đỡ bởi 24 cây cột đá, tăng thêm vẻ uy
nghi cho tòa đại điện. các lường đỡ những đầu cao hình cánh
phượng cong vút lên của mái điện và các cột kèo...của điện đều
được chạm, khắc, vẽ hình các hoa văn thật tinh xảo, sơn son
thiếp vàng hoặc tô màu rất là lộng lẫy. Ở cửa trước của điện
có treo một tấm biển lớn bằmg sứ màu xanh, nổi bật 4 chữ Hán
đại tự : "Nhục Thân Bảo Điện". Tại bên hồi lang của điện có
treo một tấm biển màu nhủ, khắc 5 chữ lớn :"Đông Nam Đệ Nhất
Sơn". Cửa sau của đuện cũng treo một tấm biển giống y tấm biển
treo ở trước điện. Bên trong tòa "Nhục Thân bảo điện" được lát
bằng đá bạch ngọc. Chính giữa điện là ngọn tháp gỗ đặt trên
nền cũng là đá bạch ngọc, tháp gỗ nà gồm có 7 tầng, tháp cao
17m, hình bát giác. Mặt ngoài của tháp gỗ, mỗi tầng 8 mặt đều
có khám thờ, trong khám có tượng đức Địa Tạng Bồ Tát thếp kim
nhũ trông rất sống động. Bên trong các tầng tháp gỗ đều có
ghép bộ "Địa Tạng Bản Nguyện kính" bằng mực kim nhũ , nét chữ
vô cùng tinh luyện. Tại tầng dưới cùng của ngọn tháp gỗ là
ngọn tháp đá 3 tầng,nơi đặt nhục thân của đửc Bồ Tát giáng thế
Kim Kiều Giác, ở mặt chính của tháp đá có treo một ngọn đèn
lưu ly hình bát giác chạm trỗ rất tinh mĩ, vốn là một cổ vật
hiếm có. Ngoài ra, bên trong "Nhục Thân bảo điện" còn trưng
bày rất nhiều bảo vật quí giá, do các vua chúa nhiều đời ban
tặng như: "Si Long kim ẩn" đúc vào đời Đường, niên hiệu Chí
Đức, do Đường Túc Tông ban tặng; "Long ẩn" đúc vào niên hiệu
Vạn Lịch, do Minh Thần Tông ban tặng v.v...và rất nhiều cổ vật
được đặt chế bằng vàng, ngọc, đá quí, đồng...cùng các cổ bản
kinh sách.
-
Ở bên ngoài "Nhục
Thân bảo điện" còn có nhiều công trình kiến trúc phụ như: các
dãy Tăng phòng, khách phòng, thiền phòng và các phòng "Triển
lãm văn vật" ...Tại phía sau điện có một tòa "dao đài" bằng
đá, hình bán nguyệt, trên đài đặt 3 cái đỉnh sắt rất lớn, chạm
khẳc vô cùng khéo đẹp: bên đài còn một toà "Cổ Hoa viên" nơi
này được gọi là "Bố Kim Thắng địa", tương truyền xưa kia vào
các ngaỳ "Địa Tạng Bồ Tát đản sinh","Địa Tạng Bồ Tát thành
đạo", thiện nam, tín nữ thập phương thường tụ tập lại đây dâng
hương lễ Phật và cúng dường phẩm vật vô cùng tấp nập.
-
Theo sách "Địa Tạng
Bồ Tát hành trạng', như đã phát lời nguyện trước đức Phật Tổ,
đức địa tạng Bồ Tát không ngừng hóa thân để cứu độ chúng sinh,
Ngài thân dư vạn biến , nhưng tâm bất biến, trong lòng không
lúc nào ngơi nghĩ tới khổ đau của chúng sinh.Hôm nay, trước 2
ngày lễ lớn kỷ niệm ngày "đản sinh" và "thành đạo" của Ngài,
hướng tưởng tới công đức vô lượng của đấng Bồ Tát, chúng ta
nguyện theo ý hướng của Ngài thiết tha làm lành tránh dữ, trải
rộng tấm lòng Bồ Tát Của Ngài rộng khắp muôn nơi, đó mới chính
là những nén "tâm hương" chúng ta cung kính dâng lên Bồ Tát.
-
|