- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN

- Luận
Suy Về Bông Hồng Cài Áo
- ---o0o---
-
Văn bút "Bông hồng cài áo" của thượng tọa Thích
Nhất Hạnh, trở thành một kiệt tác và được truyền thừa rộng rãi
ở Việt Nam. Cho tới ngày nay, đã hơn 20 năm, chưa có một bản
văn nào nói về mẹ được mọi giới ưa chuộng, hoặc thay thế được.
Lời lẽ trong bài "Bông hồng cài áo", không phải súc tích ở lời
văn chải chuốt, triết lý cầu kỳ. Sở dĩ, được mến mộ, vì bản
văn vừa khế lý lẫn khế cơ. Đạo hiếu là đạo của con người và ai
cũng muốn trả ơn cha mẹ. Thượng tọa đã đáp ứng nguyện vọng
thiết tha ấy và khơi đúng nguồn cảm xúc sâu xa tận đáy lòng
mọi người. Bằng cách diễn đạt cảm xúc tận đáy lòng của chính
mình. Chắc có lẽ, ai có mẹ, cũng thương mẹ, cũng nhớ mẹ và
nghĩ về mẹ như thế. Rồi cũng có điều, làm mọi người xốn xan.
là mình đã lơ là, thiếu bổn phận, khi cha mẹ còn sanh tiền.
Nay nhận thức được, biết mình đã đánh mất đi cái gì thiêng
liêng, vô giá. Cho nên, đối với mọi người - còn mẹ hay mất mẹ,
"Bông hồng cài áo" làm cho chúng ta cay xé cõi lòng và từ đó,
hiểu mình phải làm gì, để tỏ lòng, để đền đáp công sanh thành
của mẹ cha. Cho nên bấy lâu nay, mỗi độ thu sang, Rằm tháng
Bảy, đồng bào Việt Nam, cũng như tính đồ Phật giáo đều đi
chùa, tụng kinh, cúng dường, bố thí, tạo mọi công đức lành,
cầu nguyện cho mẹ cha, người hiện tiền đượ? sống lâu trăm
tuổi, người đã qua đời, siêu sinh thác hóa.
-
Sau khi hành lễ và nguyện cầu. Từ sân chùa, tỏa
đi khắp nẻo đường đất nước, các người con hiếu đạo, miệng nở
nụ cười tươi, vì cảm thấy lòng mình thanh thản, bớt mọi ưu
phiền.
-
Dù chưa đáp đền hết ân trọng, nhưng ít ra, cũng
thể hiện cái gì đó, đối với mẹ cha. Bên cạnh niềm hân hoan đó,
mọi người như đẹp ra. Bởi vì hôm nay, ngoài chiếc nón "Bài
thơ", với tà áo dài phất phơ tung gió. Trước ngực mọi người,
ai ai cũng có chiếc bông hồng xinh xắn, mang đầy ý nghĩa thân
thương. Có những người mang trên ngực chiếc bông hồng trắng,
mắt còn đỏ hoe, sưng ướt. Họ đã khóc, cho thân phận mồ côi của
mình, cho cái tình cảm dạt dào của tình mẹ đối với con. Mắt em
càng đỏ, càng đẹp. Bởi vì trong em chang chứa tình người mà ai
đã khóc cho mẹ, biết bùi ngùi về công ơn ssnh thành dưỡng dục
của mẹ cha, thì người đó, đẹp nết lẫn đẹp lòng. Cho nên, hòa
cùng với gió thu nhè nhẹ, mưa ngâu lất phất : mùa Vu Lan Rằm
tháng Bảy, đất nước Việt Nam sống trong cảnh thanh bình. Con
người trở thành hiền diệu, bởi vì ai cũng hành trai, giữ giới
hồi hướng cho mẹ cha. Như vậy, chiếc bông hồng, điểm tô thêm
cái đạo đức của con người. Biểu tượng "Bông hồng cài áo" đã
được Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, chủ trương thực hiện tại Việt
Nam, sau khi Thượng Tọa đi du hóa tại Nhật, có ngày lễ của mẹ.
Ngày ấy, mọi ngườ? cài cho nhau đóa hoa hồng. Thấy việc làm đó
hay hay, nên khi về Việt Nam, Thượng Tọa đã viết bài "Hoa Hồng
cài áo" và phát động "cài Hoa hồng" vào dịp Vu Lan.
-
Hồi xưa, tôi cứ thắc mắc. Tại sao Thượng Tọa
không cho cài hoa khác. Chẳng hạn: hoa vạn thọ, nó vừa sặc sỡ,
thơm tho, bền bỉ và như thế có nghĩa là mênh mông muốn cho mẹ
cha được trường thọ. Hoặc tình mẹ con bất diệt. Chớ hoa hồng -
mau tàn. Hơn nữa, hoa hồng xưa nay mang tiếng là hoa đẹp, có
gai. Như vậy, chứng tỏ mình còn trách móc mẹ. Chính vì suy
nghĩ như vậy, tôi thường ngắm nghía hoa hồng. Để tìm xem chiếc
hoa hồng chức đựng ý nghĩa như thế nào. Hay đúng hơn, tôi sẽ
nói gì, để biện minh cho biểu tượng "Bông hồng cài áo".
-
Nếu chúng ta quan sát. Chúng ta thấy cây hoa
hồng có hai loại lá. Những lá gần gốc, gần nhánh, thường mang
năm lá nhỏ. Lá gần nụ hoa, chỉ còn ba lá nhỏ mà thôi. Năm
chiếc lá nhỏ, tượng trưng cho ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ,
trí, tính). Ba chiếc lá kia tượng trưng cho tam tòng (tại gia
tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Đó là nếp sống
đạo đức của người phụ nữ Á Đông, và phụ nữ toàn thế giới,
nói chung.
-
Trước hết bàn về ngũ thường. Một người con gái,
người phụ nữ, người mẹ - xứng đáng, là người giử trọn nhân
cách của mình. Người con gái, người mẹ nào cũng dạt dào tình
thương. Chính vì vậy, người con gái rất sợ đau thương, chia
lìa, chết chóc. Cho nên, con gái thường thương yêu súc vật, sợ
giết muôn loài. Đến khi thành mẹ, thì hết lòng thương con. Hễ
nghe con khóc, dù bận rộn chuyện gì, cũng tất bật ôm con vào
lòng cho bú mớm với lời ru con ngủ. Dẫu biết rằng, sữa là máu
huyết, nhựa sống của bản thân mình, nhưng vì con, mẹ cho tất
cả. Miễn sao con được no lòng. Tình thương của mẹ thật dạt dào
nên, trong Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân có đoạn : "Mẹ thời, ăn
đắng nuốt cay, đễ dành bùi ngọt đủ đầy cho con ... lại còn
khi ngủ, ướt mẹ nằm. khô ráo phần con ...Miễn con sung sướng
dầu phải mang nghiệp chướ?g cũng cam. Tính sao có lợi thì làm.
Chẳng màng tội lỗi bị giam cầm ... ". Chính cái lòng "nhân"
đó, chính sự thương yêu đó, ngườ? phụ nữ, mềm mỏng, nhiều cảm
tình và đã hy sinh, chịu đựng cho ngườ? khác; cho con cái của
mình.
-
Dù tình thương có dạt dào, dù sự luyến ái có
cùng tột. Người con gái, người mẹ, được mọi người quý kính vì
mẹ đã sống với một tư cách tốt lành. Tư cách này, được hấp thụ
bởi sự truyền thừa của tổ tiên. Khi còn nhỏ, người con gái đã
biết trau dồi "công, dung, ngôn, hạnh". Nghĩa là tự sửa đổi và
sống mực thước. Đi, đứng, nói năng, hành động đoan trang, thùy
mị, khéo léo. Lớn lên một chút đã biết giữ mình "tiết sạch giá
trong". Cho nên "khuê môn bất xuất", giữ đạo làm con, học hạnh
làm người. Khi về nhà chồng thì "thủ phận dâu con" kính trên
nhường dưới. Chính cái nề nếp gia phong, lễ nghi phép tắt được
huấn dục từ nhỏ. Ngườ? con gái Việt Nam, khi làm Mẹ đã truyền
thụ cho con mình đạo đức và sự cảm phục. Đó là cái lễ của
người Á Đông. Nếu chỉ giữ kẻ cho mình, để rồi dương tự đắt.
Người con gái đã đánh mất đi cái thùy mị và công dung ngôn
hạnh của mình. Cho nên, đối vớ? cha mẹ, thì hiếu thảo. Đối vớ?
anh chị em thì thuận hòa. Đối vớ? xã hội thì kính trên nhường
dướ?. Đối với thầy bạn thì một mực kính yêu, vâng lời. Làm vợ
thì trung nghĩa.
-
Người ta thường nói "Trai năm thê, bảy thiếp,
gái chính chuyên một chồng". Xét ra thì quá khắt khe vớ? phụ
nữ, người mẹ được mọi người sủng ái, con cái yêu vì, bởi đứ?
tánh thủy chung, tiết hạnh. Sống có "Nghĩa" như vậy, mới chứng
tỏ thương chồng vì con. Việt Nam ta có "Hòn Vọng Phu". Người
đàn bà ôm con đợi chồng ngoài chiến trận. Chờ đợi mỏi mòn rồi
hóa đá, sự hóa đá đó, nói lên sự?sắc son, nghĩa khí của người
vợ, người mẹ. Cái "Nghĩa" đó là bài học giáo dục, là tình
thương to lớ? của ngườ? phụ nữ đối với chồng và con. Thườ?g
thì ngườ? mẹ nào thủ tiết thờ?chồng, con cái trong gia đình
nên danh nên phận. Ngườ? ta thườ?g đánh giá con qua tư cách
của mẹ. Tục ngữ Việt Nam có câu "Mua heo chọn nái, mua gái
chọn dòng". Cho nên sự?trung nghĩa của mẹ là gia tài vô giá
của con.
-
Nhưng không phải vì cái nhân, cái lễ, cái nghĩa
mà người đàn bà ù lì, thiếu trí. Ngoài cái tình cảm dạt dào,
cái khuôn phép, nề nếp gia phong, cái trung kiên sắt đá. Người
phụ nữ còn biết lo toan cho sự nghiệp ngày mai bằng thêu thùa,
may vá, hoặc tần tảo nuôi chồng, nuôi con. Danh từ "Nội tướng"
vì thế được dành cho người vợ, người mẹ. Nghĩa là mẹ cũng là
người đảm đang khéo léo, lo toan, vén khéo từ chuyện trong
nhà, đến việc giao tế cư xử ngoài xã hội. Khổng Tử nên người,
phải chăng do trí của bà mẹ ? Nếu mẹ Khổng Tử cứ để cho con
sống gần lò sát sinh, thì chắc sau này Khổng Tử đã làm nghề đồ
tể. Mà người con ngay từ thuở lọt lòng đến khi khôn lớn, đều
chịu ảnh hưởng phần lớn giáo dục của mẹ. Với điệu ru con ngủ,
tư cách đoan trang, lời nói nhẹ nhàn, giáo dục khôn khéo
v.v... đã in đậm vào tâm trí của con. Cho nên, con thành
người, hiển đạt là do sự giáo dục của mẹ. Đó cái "Trí" của mẹ
vậy.
-
Cuối cùng là chữ "Tín". Rất quan trọng đối với
phụ nữ. Người mẹ được con yêu vì cũng vì chữ tín. Nghĩa là, tư
cách, đạo đức của mẹ được con và mọi người tín nhiệm. Muốn
thực hiện được chữ tín ấy, người phụ nữ phải thực hiện trọn
vẹn bốn đức tính trên (nhân, lễ, nghĩa, trí). Ngoài ra, lời
nói và việc làm phải là một. Nói năng phải giữ hòa khí, kính
nhường. Hành động phải rõ ràng, trong sáng. Tín được đánh giá
qua sinh hoạt và đời sống đạo đức của con người. Xưa kia,
Khổng Tử thấy ngườ? ta giết lợn. Về nhà hỏi mẹ, mẹ Khổng Tử
đáp : "Người ta giết lợn để lấy thịt cho con ăn". Đã lỡ lời,
dù nhà nghèo mẹ Khổng Tử phải bằng mọi cách mua cho Khổng Tử
thịt lợn để ăn. Ngày nay, Khổng Tử được làm thầy thiên hạ,
không phải tự nhiên mà được. Mà là do hấp thụ các nhân cách,
đạo đức của mẹ. Vì vậy, ngủ thường là đứ? tính cao quý mà tất
cả phụ nữ phải rèn luyện, khắc kỷ - để sau này truyền thụ lại
cho con. Năm lá hoa hồng tượ?g trưng cho đứ? tính cao đẹp ấy.
-
Khi hoa hồng có nụ. Năm chiếc lá giảm xuống còn
có ba. Tượng trưng cho tam tòng. Nghĩa là, muốn cho tình
thương trọn vẹn, đạo đức mình tốt đẹp, người phụ nữ phải có ba
đức tánh thuần phục. Khi còn nhỏ, phải hiếu thuận với cha mẹ.
Lớn lên, có chồng, phải một dạ thủy chung. Khi chồng qua đời,
thì ở vậy nuôi con. Thường người ta nói : "giọt nước trước,
chảy làm sao, giọt nước sau chảy như vậy". Cho nên, người mẹ
muốn con mình hiếu thuận, trướ? hết phải làm con hiếu thuận.
Muốn con mình quý kính, dạy dỗ được nó, thì phải là người đàn
bà chung thủy, ngay thật. Ai trên đời, không muốn tự do và
hưởng thụ. Nhưng vì con, từ nhỏ cho đến khi lìa đời, ngườ? đàn
bà đã hy sinh, đánh mất đi sự?tự do của bản thân mình. Chịu
nép mình, khắc kỷ theo nề nếp đạo đứ? gia phong. Đến khi có
chồng có con thì hết lòng vì chồng con. Chồng chết, thủ tiết
thờ chồng nuôi con. Cho nên Tam Tòng là kết tinh cái giá trị
cao quý của ngừờ? đàn bà. Nó là giá trị chung cuộc của người
phụ nữ từ?khi sanh ra đến khi lìa đời. Chính giá trị đó, kết
tinh thành nhự? sống, sự?yêu thương cho đàn con. Vì vậy, sau
ba chiếc lá đó, hoa hồng đã nẩy nở, lung linh trước gió và
khởi sắc trước ánh mặt trời.
-
Hoa hồng, ngoài cái sặc sở của màu sắc; còn
chứa đựng mùi hương nhẹ nhàng thanh khiết. Đó là kết tinh của
ngày sinh trưởng chồi non, đâm tược nẩy cành. Rồi từ năm lá,
còn ba lá, để sau cùng, nở ra một đóa hoa hồng thắm. Chiếc hoa
hồng đã hấp thụ tinh hoa của trời đất, phấn đấu trước phong ba
bão táp, để rồi góp phần làm đẹp cuộc đời. Cũng vậy cái cao
quý, cái tình thương của người mẹ là kết tinh đạo đức của tổ
tiên, của sự khôn khéo trong đời sống; để rồi chịu đựng, hy
sinh, nhẫn nại, truyền thụ cho con. Khi có con, ngoài cái trao
hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người
mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình. Cho nên,
màu hồng tượng trưng cho sự sống của người mẹ. Sự sống ấy, sức
sống ấy, mẹ để lại cho con, cho cuộc đời. Nếu mất mẹ, con đã
mất đi sứ? sống ấy, tình thương ấy. Cho nên, ai mất mẹ, như
hoa hồng không còn màu sắc.
-
Bởi trải qua quá trình hy sinh, gian khổ. Cho
nên, người mẹ dễ dàng kiệt lực. Hình ảnh chiếc hoa hồng sớm
tàn phai phải chăng nói lên sự tàn phai, kiệt lực của người
mẹ. Vì ai ? Phải chăng vì chúng ta, những người con của mẹ.
-
Muốn chiếc hoa hồng đừng vội khô héo, úa tàn.
Chỉ cần ngâm cành hoa vào ly nước lạnh. Nước lạnh thì có chất
bổ dưỡng gì. Nhưng có nó, chiếc hoa hồng thêm sức sống. Cũng
vậy, tình con đối với mẹ lợt lạt, lơ là. Nhưng mẹ thiếu tình
con, mẹ cũng chóng úa tàn, ủ dột. Vì vậy, rất diễm phúc cho
người mẹ nào có con hiếu thảo. Người mẹ ấy sẽ sống lâu, thanh
thản vui tươi một đời. Cho nên, hiếu thảo với cha mẹ là thêm
sức sống cho cha mẹ. Thiếu tình thương với cha mẹ, hoặc sống
không đạo đức, để cha mẹ lo âu, phiền muộn là bức tử cha mẹ -
như hoa hồng thiếu nước vậy.
-
Tuy nhiên, dù con có đối xử thế nào đi nữa, thì
cha mẹ vẫn cưu mang. ưu hoài lo lắng về con. Suốt cuộc đời,
nào phải dưỡng nuôi, tần tảo, rồi giáo dục, dựng vợ gả chồng.
Đến khi gần chết, còn lo cho con, cho cháu đói no, thiếu kém.
Nên cuối cùng còn để cho con di sản, gia tài. Tục ngữ Việt Nam
có câu "Công Cha như núi Thái Sơn, nghĩa Mẹ như nước trong
nguồn chảy ra". Nghĩa là công ơn của cha mẹ cao lớn, bất tận.
Cũng như vậy, hoa hồng dù chóng tàn phai, nhưng đài hoa luôn
luôn xanh tươi rắn chắc.
-
Cái khó chịu nhất của biểu tượng hoa hồng cài
áo là những chiếc gai của nó. Bởi vì, nói mẹ là tình thương,
là đạo đức, là... nhưng cuối cùng, những chiếc gai đó, như phá
tan, làm đổ nát cái cao quý thiêng liêng về mẹ. Nhưng suy đi
nghĩ lại. Chính những cái gai đó mới lột tả hết cái tình
thương cao quý của mẹ. Lịch sử nhân loại đã chứng minh, có
những bà mẹ, vì quyền lợi, địa vị, danh vọng của con đã bằng
tất cả mưu trí, kể cả tính độc ác để soán ngôi, tráo chúa. Vì
con, mẹ cũng dám xé xác tình địch để dành chồng dành cha. Vì
con, mẹ dám giết gà mổ heo để cho con được bổ dưỡng. Cho nên
Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân có dạy : "Vì con miễn sao có lợi thì
làm. Chẳng màng tội lỗi giam cầm". Tất cả tính ích kỷ, nhỏ
nhoi, độc ác, tị hiềm, thủ lợi v.v... của mẹ - là vì con. Con
chó, con gà khi có con thì trở thành hung hăng. Loài súc sanh
còn thế, huống chi con người. Cho nên, thật là hay, nếu chiếc
hoa hồng thiếu gai, nhưng hoa hồng sẽ khó giữ được cái tươi
đẹp, cái trọn vẹn của hoa hồng. Người con gái không có cứng
rắng thì khó giữ được sự tinh nguyên của ngườ? con gái.
-
Người mẹ thiếu đi tính ích kỷ, độc ác thì làm
sao bảo vệ, nuôi dưỡng đàn con. Do đó, cái cay cú, độc hiểm
mới thể hiện đứ? tính cao quý của mẹ, một cách trọn vẹn. Như
vậy, biểu tượ?g "Hoa Hồng cài áo" là một biểu tượng diễn đạt
hết tâm tình của người mẹ đối vớ? con. Cho nên cứ mỗi độ Vu
Lan Rằm tháng Bảy, tất cả những người con sung sướ?g được gắn
chiếc bông hồng lên áo. Nơi đó, tim ta đang thổn thứ?, làm
chiếc bông hồng thêm sinh động. và tình mẹ con thêm dạt dào
nhớ?thương. Nhưng cài hoa hồng lên áo, không có nghĩa là chỉ
ca ngợi về mẹ, mà còn nhắc nhở chúng ta có hiếu vớ? cha mẹ.
Chúng ta có bổn phận phải đền đáp lại ân đứ? hy sinh của cha
mẹ; đền đáp lại công ơn sinh thành, dưỡng dục. Nhưng đền đáp
bằng cách nào - chẳng thấm tháp vào đâu ! Giống như hạt muối
bỏ vào biển. Như hạt cát thêm vào sa mạc. Nhưng dầu sao, có
làm, có thể hiện thì cũng hơn không. May mắn cho chúng ta.
Chúng ta có giáo lý của Đứ? Phật. Ngài đã chỉ cho chúng ta con
đường cao thượ?g và phương pháp trả hiếu trọn vẹn. Ngày lễ Vu
Lan, cung thỉnh thập phương Tăng, thiết trai cúng dường - vớ?
thứ? ăn trăm món, trái cây trăm màu v.v... chỉ là thử thách
lòng nhiệt thành của chúng ta và tháo gở, cứ? thoát tâm bỏn
sẻn, ích kỷ của cha mẹ khi còn sinh tiền. Cái quan trọng là
chúng ta ý thứ? đượ? sự?hiếu đạo và thự? hiện trong cuộc đờ?.
Thông thường khi chúng ta thọ ân ai muốn đền đáp lại, ai cũng
muốn trả ơn cái mình đã thọ. Nếu không có đạo Phật thì chúng
ta khó thể hiện đượ? điều nầy. Bởi vì, công ơn cha mẹ cao như
trời biển. Nhưng để đối lại cái đạo đứ?, cái khắc kỷ "ngũ
thườ?g" của cha me,?chúng ta giữ "ngũ giớ?" của Phật giáo.
-
Cha mẹ mong cho chúng ta nên ngườ?, thành người
đạo đứ? cho nên suốt cuộc đờ? người đã nhẫn chịu khuôn phép
đạo đ?#7913;? của tổ tông, trui luyện đúng nhân phẩm. Nay
chúng ta cũng phải suốt đời giữ tròn năm giới. Sở dĩ năm giới
của Phật Giáo có thể đối đãi với công ơn cha mẹ, vì năm giới
của Phật Giáo xuất thế - vượt trên cái đạo đức của con người.
Giữ tròn năm giới không những chúng ta có đạo đức của một con
người, mà chúng ta còn có tình thương bao la với người, với
vật mà còn thoát khỏi cái nghiệp báo luân hồi. Một khi chúng
ta thoát được nghiệp quả luân hồi thì chúng ta còn cứu thoát
quả khổ của cha mẹ - như gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền
Liên. Cho nên, muốn cha mẹ yên lòng không gì hơn là chúng ta
có tình thương với muôn loài. Lục đạo chúng sanh cũng là cha
mẹ trong nhiều đời, nhiều kiếp. Muốn cứu rỗi cha mẹ, không gì
hơn là thoát khỏi luân hồi. Người xưa có dạy :"Nhứ? nhơn thành
đạo, cữu huyền thăng". Cho nên giữ tròn năm giới là đáp lại
năm đức của cha mẹ. Đồng thời cứu thoát cha mẹ khỏi trầm luân.
Nhưng muốn hiểu và thực hành đúng năm giới đó, chúng ta phải
quy y Tam Bảo. Bởi vì chỉ có Đức Phật, lời dạy của Phật, và
sự?hướ?g dẫn của chư Tăng là chơn chánh. Mẹ chúng ta vì chúng
ta mà giữ tam tòng, để tròn đức hạnh của một người mẹ.
-
Chúng ta muốn tròn đứ? hạnh và xứ?g đáng là
ngườ? con - không gì quý hơn là phải sống chơn chánh - bằng
cách quy thuận và thực hành theo giáo huấn của Tam Bảo. Phần
tự tu tự?độ cho chúng ta, nhờ thế được trọn vẹn. Nhưng điều đó
chỉ đáp lại công hy sinh sức nhẫn nại của cha mẹ đối với chúng
ta. Chúng ta phải phát tâm thêm nữa, thương người mến vật.
Tình thương bao la rộng lớn ấy, mới đáp lại phần nào, tình
thương của cha mẹ đối với chúng ta. Cho nên hạnh lợi tha (làm
lợi ích cho người khác) là công đức trọn đầy để hồi hướng cho
tình thương của cha mẹ. Cha mẹ sanh tiền thương ta, muốn chúng
ta sống an nhàn đạo đức, nếu chúng ta giũ tròn tam quy, ngũ
giới thì đã làm cho cha mẹ vui lòng. Cha mẹ chết đi, để lại
cho chúng ta gia tài sự sản. Đáp lại, làm con, chúng ta phải
tìm cách siêu độ vong linh về thế giới an lành. Muốn vậy,
chúng ta phải ăn chay, niệm Phật, tụng kinh v.v... mong sao
cha mẹ mình về nơi an vui vĩnh viễn. Có như vậy, chúng ta mới
cởi bỏ tất cả nghiệp chướng mà cha mẹ chúng ta đã vì chúng ta
mà gây tạo.
-
Tóm lại, đáp lại đức hạnh của mẹ, chúng ta
phải thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Đáp lại tình thương của mẹ, chúng
ta phải phát tâm tu tập.
-
Đáp lại công ơn sanh thành và dưỡng dục và lo
lắng của cha mẹ, chúng ta phải cầu nguyện và hồi hướng công
đức cho cha mẹ sớm về cõi Cực Lạc và để cởi bỏ nghiệp chướng
mà cha mẹ vì chúng ta phải đeo mang, bằng sự tu tập chứng đắc
và thanh tịnh của chính mình.
-
Được như vậy, chúng ta mới xứng đáng bổn phận
làm con và Bông Hồng cài áo trọn đầy ý nghĩa.
|