|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN
-

-
Tiết Vu Lan Ngày Bông Hồng Cài Áo
-
Trần Trọng Khoái
-
--- o0o ---
-
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
-
-
Nguyên nghĩa và thực tế:
-
Vu
Lan phiên âm từ phạn ngữ Ullambaha, Trung Hoa dịch là "giải đảo
huyền" với nghĩa cởi mở những hình phạt khủng khiếp như treo
ngược tội nhân hay giải thoát những cực hình trong các cảnh giới
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tinh thần Phật Giáo rất tự nhiên,
dể hiểu và thích ứng với mọi thời đại, ta có thể ví người có
tội, như gian nhà đang tối tăm, chiếc áo bị vây mực, hay thân
thể bị dơ, người thức giả cần mở cửa bật đèn và dọn dẹp cho gian
nhà sáng sủa và thoáng mát; áo vây mực, cần chút thuốc tẩy, xà
phòng và biết các giặc ủi, sẽ trở thành vật hữu dụng; thân thể
thường bị các chất bẩn trong người đào thải ra, hay từ bên ngoài
vướng vào nên cần tắm rửa thường xuyên để tránh mùi "không hợp
tỷ" cho những người chung quanh. Luật pháp thế gian, người có
tội biết cải tà quy chánh cũng được giảm khinh.
-
Trong tôn giáo, người biết lổi thường ăn năng sám hối và nguyện
không tái phạm nữa, thì sẽ được giải trừ. Đây là trường hợp dành
cho người biết tu tỉnh để thăng hoa lên hàng thánh thiện, nếu
biết lổi mà không chịu sửa đổi, thì càng lún sâu vào 3 đường ác:
Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh.
-
Duyên khởi:
-
Thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo và hoằng dương Phật
Pháp, Chánh Pháp của Như Lai đã thu phục được nhiều tầng lớp
nhân dân kể các bậc lảnh đạo quốc gia, hàng thức giả, các dị
giáo và môn đồ tứ chúng quy ngưỡng rất đông trong đó có Đức Mục
Kiền Liên đường đường là vị giáo chủ của Bái Hỏa Giáo biết rỏ
giáo lý Phật Đà là thượng thừa diệu pháp nên ngài xin quy y và
trợ duyên hoằng hóa cho Đức Như Lai.
-
Luận về tâm lý con người và việc tranh cử vào các chức vụ cao
cấp ngoài xã hội, thì xưa sau cũng không khác, đức Mục Kiền Liên
được lên ngôi vị cao quý đương thời, một phần nhờ mẹ ngài là bà
Thanh Đề thuộc lớp quý tộc, muốn dùng tiền tài, uy lực của mình
để nâng Tôn Giả lên hàng lảnh đạo, nên bà không từ bỏ những điều
bất chính, gây ra tội lỗi, xúc phạm đến tôn giáo, hiền nhân, do
đó mà sau khi chết bà phải đọa vào A Tỳ địa ngục, làm kiếp ngạ
quỷ khốn khổ vô cùng. Tội nhân trong ngục phải thọ khổ triền
miên, nên cảnh giới này còn có tên là Vô Giám địa ngục.
-
Chúng tôi xin trích dẩn thêm cuốn video tape "Mục Liên Tìm Mẹ"
do Sàigòn sản xuất. Họ căn cứ vào một vài truyện tích nhân gian
về thuở hàn vi bà Thanh Đề cũng là người mộ đạo, nên không quản
ngại đường sá xa xuôi, đưa bát cơm nếp đến cúng chùa. Do viển
cảm thông linh, vị hòa thượng trụ trì đã biết rỏ nhưng vì bận
Phật sự cần thiết phải đi nên ngoài căn dặn một đệ tử phải túc
trực đón tiếp vị "đại thí chủ" này. Với tinh thần Phật Giáo,
việc cúng dường cần thành tâm hơn phẩm vật tiền tài (*) nhưng
thầy tiếp tân lại nghĩ về vị đại thí chủ sẽ là một bậc quyền
quý, hay hàng trưởng giả giàu sang mà khinh miệt và nặng lời xúc
phạm bà Thanh Đề đang đội bát cơm nếp quỳ đợi trước cổng chùa,
khẩn khoản, xin được vào cúng Phật, cúng Tăng trong buổi chiều
tà. Do sự hiểu lầm đáng tiếc này mà nhà chùa lại "thêm thù bớt
bạn", và vì phẩn uất, bà Thanh Đề sinh tâm sân hận, đã nặng lời
thề thốt quầy phá nhà chùa, nên khi gặp cơ hội làm thiếp của một
vị tướng lảnh, bà ta tận dụng quyền lực để thỏa mãn chuyện không
đâu!! Chẳng qua vì "vô minh che lấp", và "nghiệp chướng nặng nề"
thu hút nhiều người vào địa ngục, trong đó có bà Thanh Đề, nên
thế nhân có câu đối khôi hài, trào phúng với hậu ý đời này có
người đạo đức, hiền lương thì ít, kẻ hung hản lừng khừng chẳng
thiếu chi:
-
"Thiên đường sáng lạn, hiếm người vào
-
Địa ngục âm u, nhiều kẻ đến !"
-
Chúng tôi cảm thấy nội dung cuốn video này không có gì ngược với
ý nghĩa Vu Lan báo hiếu mà còn góp ý xây dựng về ngôi chùa là
nơi phụng sự Chánh Pháp, phục vụ nhân sinh nên viết ra đây để
các đồng hương thưởng lãm, xin luận cổ suy kim để thấy tinh thần
bình đẳng vô tư của nhà Phật.
-
Đức Mục Kiền Liên là một đại đệ tử của Phật thần thông đệ nhất,
ngài cảm thấy lòng mẹ thương con hơn biển rộng sông dài. Vì muốn
cho con mình hơn ai hết, nên mẹ ngài phải tận dụng tiền tài, quỷ
kế để che mắt thế nhân, đương nhiên tội lổi cũng chất chồng.
Ngài quán chiếu và thấy rỏ mẹ ngài đang khổ nơi âm cung, Ngài
đích thân đến viếng và dâng cơm cho mẹ, nhưng nghiệp lực bà
Thanh Đề quá nặng nên phẩm vị hiến dâng tội hồ không dùng được.
Tôn giả Mục Kiền Liên niệm Phật, nguyện cầu nhưng nhân quả rỏ
ràng chưa chuyển hóa nổi. Trước thâm tình mẫu tử, Ngài bi ai
thống thiết xin từ giả mẫu thân trở về bạch Phật xin tế độ mẹ
hiền!
-
Phật dạy:
-
Mẹ
ông tội lỗi sâu dầy, mặc dù ông phước trí trang nghiêm, hiếu
hạnh vẹn toàn nhưng chưa chuyển hóa được, nên phải nhờ sức chú
nguyện của Mười Phương Thánh Tăng trong ngày tự tứ vào gia tiết
Vu Lan ... Nhân ngày chư Phật hoan hỷ, Chúng Tăng tự tứ, ông nên
phát tâm tác tạo phước duyên chúng dường bố thí, hoằng pháp lợi
sanh, để nhờ công đức tu tịnh hạnh sau mùa An Cư Kiết Hạ, nên
nguyện lực của Chư Vị càng cao, hồi hướng công đức để chuyển hóa
tội lỗi của mẹ ông. Khi tội hồn đã tỉnh ngộ, thành khẩn sám hối
niệm Phật cầu vãng sanh thì tội nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành
tăng trưởng. Chư Phật Bồ Tát cũng đều hoan hỷ phóng quang tiếp
dẫn về Tây Phương An Lạc dộ của Phật Di Đà. Các Phật tử vì kẻ
mất người còn mà thành khẩn thực hành hạnh lợi tha thì cha mẹ
nhiều đời, gia thân quyến thuộc, rộng ra là thân hữu đồng hương
hay các giới hữu tình cũng sinh tâm hoan hỷ, dũng tiến trên
đường đạo, là tạo nhân lành hay dành sẵn tư lương rất cần cho
mai hậu, những người quá cố, thập loại cô hồn cũng quân triêm
thắng phước.
-
Ngài Mục Kiền Liên và Đại Chúng "y giáo phụng hành". Truyền
thống Vu Lan báo hiếu khởi đầu từ đó.
-
Vài chi tiết trong mùa Vu Lan:
-
1.
Mùa An Cư và Ngày Tự Tứ: Sau khi thành lập giáo đoàn, đức Phật
và Chư Tăng cố hoằng pháp lợi sinh. Mặc dù triều đình vua Tịnh
Phạn và công chúa Da Du Đa La tìm cách thỉnh Phật hồi triều
nhưng Như Lai đặt đức tin tôn giáo và chúng sanh vào hành chính
yếu, còn tình cảm gia đình xin dành lại vào hàng thứ yếu. Tăng
đoàn của Phật thường đi du hóa bốn phương vời cuộc sống vô cùng
thanh đạm trong thời bấy giờ như đi chân đất, quấn vải vóc để
che thân. Câu "nhất bát thiên gia phạn, cô thân vạn lý du" có
nghĩa là chiếc bình bát thọ nhận cơm cúng dường của bá tánh, đơn
thuần qua vạn nẻo để truyền bá Chánh Pháp cho tha nhân.
-
Do
sự giao thông liên lạc đương thời quá khó khăn và mùa hẻ ở Ấn Độ
mưa gió liên miên, côn trùng sinh nở, đi lại nhiều sẽ giẫm đạp
làm thương tổn sinh mệnh của muôn loài, nên Đức Phật nghĩ ra
phép "an cư kiết hạ" để các Tăng đoàn tu học tại chổ, thực hiện
nếp sống lục hòa, thanh tịnh trang nghiêm, trau giồi giới đức.
Người có kiến thức rộng, hướng dẫn đồng đạo tiến lên, ai có
những sáng kiến đặc biệt gì thì ghi vào lá bối để làm tài liệu
tham khảo về sau. Bản thân chúng tôi có dịp được mời tham gia
phái đoàn hành hương và khảo sát các ngôi chùa cổ Việt nam, nên
may mắn được xem ít "bối diệp kinh văn" trong vài ngôi chùa.
Nhất là có khá nhiều bản được lưu giử tại chùa Ma Ha Túc ở thị
xã Sóc Trăng của Phật Giáo Nam Tông. Chùa ngày có nhiều điển
tích đặc biệt là quy tụ vô số loại dơi to lớn như vịt trời, hải
âu, chúng bay rợp khắp trời, hay treo mình lủng lẳng khắp các
cây đại thụ trong vườn rộng thênh thang, do đó nhân gian thường
có tên gọi là "Chùa Dơi".
-
Sau ba tháng An Cư, thì làm lễ Tự Tứ, để chư vị kiểm điểm công
hạnh của mình, cầu Phật chứng minh, cầu Thầy bạn góp ý xây dựng
để thăng hoa trên đường tu tiến. Phật Giáo Bắc Tông thường cử
hành lễ Nhập Hạ vào mùa Phật Đản và Tự Tứ Xuất Hạ vào mùa Vu
Lan. Mỗi kỳ Hạ như vậy được tính là một tuổi đạo. Chư Tôn Giáo
Phẩm thường tính thâm niên tu trì và hành đạo bằng Hạ Lạp. Đương
nhiên là sau mỗi khóa tu, uy đức Chư Vị càng tăng, tinh thần
vững tiến nên Giai Tiết Vu Lan còn gọi là ngày Phật hoan hỷ,
ngày Tăng Tự Tứ, ngày siêu độ vong linh, ngày hiếu của thế
nhân...
-
2.
Trung Nguyên Địa Quan xá tội: Theo âm lịch và các tiết lễ Trung
Hoa thì ngày rằm đầu mỗi mùa là một lễ lớn:
-
-
Rằm tháng Giêng (đầu mùa Xuân âm lịch): lễ Thượng Nguyên Thiên
Quan giáng phước.
-
-
Rằm tháng Tư: Đại lễ Phật Đản
-
-
Rằm tháng Bảy: Lễ Trung Nguyên Địa Quan xá tội
-
-
Rằm tháng Mười: Lễ Hạ Nguyên Thủy Quan
-
3.
Ngày Hiếu của thế nhân, ngày siêo độ vong linh và tiến cúng cô
hồn: Tôn giáo và văn hóa thường ảnh hưởng với nhau tạo thành
những phong tục tập hóa trong nhân gian. Rằm tháng bảy là lễ
Trung Nguyên Địa Quan xá tội và do lời Phật dạy tứ chúng đệ tử
nhân mùa Vu Lan và ngày Tự Tứ, nên tác tạo phước duyên, hồi
hướng công đức cầu siêu nguyện độ cho Cửu Huyền Thất Tổ, Lịch
Đại Tôn Linh, Lục Thân Quyến Thuộc, Cha Mẹ nhiều đời, và nên
tưởng nhớ về kẻ mất người còn mà tùy duyên giúp đở, để xoa dịu
nổi đau thương của nhiều người trong cơn khốn khó, hay tiến cúng
thập nhị loại ám linh cô hồn, để linh hương những người quá vãng
được văn kinh thính pháp, trực vãng Tây Phương, đúng với tôn chỉ
của Phật Giáo là tự giác, giác tha, tự lợi, lợi tha.
-
4.
Ngày Bông Hồng Cài Áo: Theo lời Phật dạy và truyền thừa hiếu
hạnh của đức Mục Kiền Liên Tôn Giả cùng các thầy tổ, gần đây rút
mỹ tục tặng hoa của các quốc gia trên thế giới, nguời ta tổ chức
cài hoa hồng cho nhau trong thắng hội Vu Lan, nói lên sự cung
khính Từ Thân người đối diện với mình.
-
Những ai còn Mẹ sẽ được cài Hoa Hồng Thắm ngụ ý chúc thọ bậc cao
niên, trưởng thượng và mừng người trực diện thường vui vẻ vời Từ
Thân. Những ai mất Mẹ sẽ được cài Hoa Hồng Trắng với thành ý
nguyện cầu người quá vãng được thanh thoát tiêu diêu nơi Lạc
Quốc và nhắc nhở nhau tác tạo phước duyên, để hồi hướng công đức
cho kẻ mất người còn được quân triêm thắng phước.
-
Tìm hiểu về Tứ Trọng Ân và Tam Đồ Khổ:
-
Qua bài kệ:
-
"Nguyện dĩ thử công đức
-
Trang nghiêm Phật tịnh độ
-
Thương báo Tứ Trọng Ân
-
Hạ
tế tam đồ khổ
-
Nhược hữu kiến văn giả
-
Tất phát bồ đề tâm
-
Tân thử nhất báo thân
-
Đồng sanh Cực Lạc Quốc"
-
Với đại ý người Phật tử hay các thiện hữu đồng hương làm được
những công quả gì lợi mình lợi người tức là tái bồi cho Đạo Pháp
nhân sinh. Họ xin đem công đức này đền đáp bốn ân sâu và trợ
duyên giải thoát về 3 đường khổ. Nếu có ai thấy nghe mà sinh tâm
hoan hỷ, xin nguyện cho các vị đó sinh về nước Cực Lạc. Ta thấy
tinh thần các Phật tử canh cánh bên lòng ý niệm làm cho đời tốt
đạo đẹp, luôn đền đáp Tứ Trọng Ân:
-
1.
Ân Quốc Gia: tức là nêu cao tinh thần yêu nước thương nòi, tôn
trọng các bậc anh hùng liệt nữ, danh nhân tử sĩ đã xả thân vì
đại nghĩa quốc gia, tự cường cho dân tộc
-
2.
Ân Xã Hội: Nói chung về ân thầy bạn, các đoàn thể nhân quyền
trong cộng đồng sinh hoạt mỗi người một việc để cung ứng các nhu
cầu cần thiết cho nhau, đem lại nếp sống tinh thần và vật chất
phú túc thăng hoa.
-
3.
Ân Tông Tổ Mẹ Cha: là những vị đã tận tình gây dựng sự nghiệp,
san sẻ phần nào tinh hoa và sức sống các ngài để tài bồi cho lớp
hậu duệ vuơn lên. Cha Mẹ là những người trực tiếp sinh dưỡng con
cái, thì không lời nào tán dương cùng tận, không bút mực nào
diển tả cho trọn vẹn ân đức của Mẹ Cha! Đêm năm canh, ngày sáu
khắc không người mẹ nào để quên con chịu dơ bẩn đói lạnh, cũng
hiếm thấy người cha bỏ con lêu lỏng chơi bời với các tổn hữu ác
đạo. Ngày xưa, khi thí sinh đổ đạt, được triều đình ân tứ áo
mão, giúp phương tiện vinh quy bái tổ, thiết tưởng đó là lối
giáo dục con người hướng về cội nguồn, ghi ân Tông Tổ Mẹ Cha.
Tiếp theo những ai học hành thành đạt, hay các văn nhân soạn
giả, tạo dựng những tác phẩm giá trị thường ghi dòng chữ vào nơi
trang trong: "Dâng Kính Tôn Sư và Song Thân đã dày công giáo
dưỡng cho con nên người hữu dụng." Đó là quốc hồn quốc túy cần
phải duy trì và phát huy. Xem phim về các loài động vật, thỉnh
thoảng chúng ta thấy nhiều loại động vất ra sức chống cự với đối
thủ cường bạo để bảo vệ đàn con, hay thấy chúng tha từng miếng
mồi về mớn cho con trong cảnh "mẹ thấy con vui, con thấy mẹ
mừng", con đực luôn canh chừng các hung thú dòm ngó từ bên
ngoài, có thể thừa cơ đột nhập bắt bớ... Ôi tình nghĩa mẹ cha
tha thiết mặn nồng. Làm sao ta quên được câu ca dao thắm tình
ruột thịt:
-
"Có ông bà mới có tâng bà là gốc, mẹ cha là cành
-
Thân ta như thể lá xanh
-
Nhờ gốc tiếp nhựa, nhờ cành dưỡng nuôi!"
-
4.
Ân Đức Tam Bảo: là ghi nhớ ân đức cao dày của Phật - Pháp -
Tăng. Đức Thích Ca Như Lai là một nhân vật thượng thặng giửa thế
gian nhưng Ngài không tham luyến riêng tư, quyết "xả thân cầu
đạo, xả phú an bần". Ngài lưu lại cho đời một Giáo Pháp vô
thượng thậm thâm, thiên nhân kính ngưỡng, thật là một nhân vật
vô song, nên Phật tử hay thế nhân nghiêng mình đảnh lể ghi ân
Ngài là điểu hiển nhiên (văn thiện ngôn tắc bái).
-
Người Phật tử đã báo đáp phần nào Tứ Trọng Ân, tưởng cũng nên mở
rộng vòng tay trợ hòa cho ba đường khổ, đó là Địa Ngục - Ngạ Quỷ
- Súc Sinh. Vấn đền này thì tùy duyên tế độ, thể hiện trong
những thời tụng niệm hôm mai, hay qua những lễ nghi tôn giáo,
đại lễ Vu Lan...
-
"
Giấy rách phải giữ lấy lề" là khi hoàn cảnh không cho phép thực
hiện những điều mình ấp ủ mong muốn, nhưng phải cố gắng gìn giữ
những gì tốt đẹp, trân quý và nề nếp gia phong của tiền nhân để
lại. Nay chúng ta gặp thuận duyên thường trú tại quốc gia tự do
kinh tế dồi dào, mặc dù đất nước này (nước Mỹ) chỉ mới có 500
năm dựng nước (từ khi ông Chirstopher Columbus khám phá ra năn
1492) nhưng cũng đã có ngày Mother's Day và ngày Father's Day,
thì từ ngàn xưa Việt Nam chúng ta do Đại Lễ Vu Lan với ngày Bông
Hồng cài áo trong cận đại, đương nhiên chúng ta sẽ không thẹn
với người đi sau mà biết chu toàn đạo nghĩa.
-
Hôm nay, Trung Nguyên Giai Tiết, chúng tôi mạo muội viết vài ý
nghĩa và truyền thống Vu Lan, nhân thể chúng tôi sưu tầm và biên
soạn vài bài "Điệp Văn Truy Niệm, Chẩn Tế Chư Ân Linh Cô Hồn",
gọi là gợi nhớ các Đồng Hương một Đại Lễ cổ truyền của Á Đông,
hợp với tình đời lẽ đạo, luôn thích ứng với người muôn nơi muôn
thuở.
-
Nam Mô Siêu Thập Địa Bồ Tát Ma Ha Tát
- --o0o--
|
|