|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN
-

-
Lễ Vu Lan
-
Ngày Đền Ơn Đáp Nghĩa Của Đông Phương
-
---o0o---
-
-
Lễ
Vu lan là truyền thống tốt đẹp của Phật giáo thể hiện tinh thần
quý trọng ơn nghĩa và đền đáp ơn nghĩa. Khi Phật tại thế, chính
Ngài và hàng đệ tử đã là tấm gương sáng tiêu biểu cho sự thực
hành trọn vẹn ý nghĩa Vu lan báo hiếu.
-
Đức Phật đã từng nhắc nhở: hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là
tâm Phật. Trên nền tảng coi trọng hiếu để như vậy, ơn nghĩa sanh
thành dưỡng dục của cha mẹ, ông bà, tổ tiên được đức Phật xếp
vào một trong bốn trọng ơn mà hàng đệ tử phải luôn ghi nhớ và
thể hiện trong nếp sống tu tập.
-
Như vậy, có thể khẳng định đạo Phật là đạo hiếu thảo, không phải
như nhiều người hiểu lầm, nghĩ rằng người xuất gia lìa bỏ gia
đình là bất hiếu. Ý nghĩ sai lầm này bắt nguồn từ ảnh hưởng Nho
giáo, theo đó chủ trương sanh con nối dõi tông đường, chống
giặc, hết lòng phò vua, giúp nước mới là có hiếu.
-
Đạo Phật là đạo giác ngộ, tức sử dụng hiểu biết sáng suốt để
thấy được nên báo hiếu bằng cách nào mới thực sự trả được ơn
nặng của cha mẹ, tổ tiên; thấy được nên phò vua, giúp nước như
thế nào cho có ý nghĩa, đạt hiệu quả tốt cho mình và người. Thật
vậy, nếu làm công việc nối nghiệp tổ tông mà sản sanh toàn những
đứa con hư hỏng, phá làng hại nước thì chẳng báo hiếu được gì,
còn làm tổn thương danh dự của cả dòng họ. Hoặc nếu ngu muội phò
giúp ông vua tàn ác, ăn chơi sa đoạ, chỉ làm khổ dân thì đắc tội
hơn là có công. Hoặc hy sinh thân mình cho một cuộc chiến tranh
vô nghĩa cũng không thể coi là giúp nước.
-
Đức Phật tuy bỏ ngôi vua, xuất gia hành đạo, không nối nghiệp
vua cha Tịnh Phạn, nhưng phải khẳng định rằng đức Phật là bậc
đại hiếu. Thật vậy, với chí hướng thượng, xả thân tu hành, Ngài
đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, trở thành bậc đạo sư của
nhân loại khắp năm châu, được người người cung kính cúng dường,
thờ phượng, đảnh lễ suốt thời gian dài hơn 25 thế kỷ. Nhắc đến
tôn danh Phật, ôn lại cuộc đời Ngài thì người ta phải nhắc đến
vua Tịnh Phạn, đến tổ tiên dòng họ Sakya. Đức Phật đã làm sáng
danh vua Tịnh Phạn, làm cho người nhớ đến công ơn của dòng họ
Ngài. Nếu không xuất gia tu hành đạt thành Chánh giác, không là
bậc Thầy của Trời người, mà cũng sống cuộc đời bình thường như
bao nhiêu người khác, để tiếp nối ngôi vị đế vương thì ngày nay
còn mấy ai biết đến mà nhắc nhở, khen ngợi dòng họ Sakya.
-
Hàng đệ tử xuất gia nối chí Phật tất yếu cũng mang trọng trách
đền đáp ơn nghĩa. Ơn lớn cần báo đáp không chỉ giới hạn trong
tình thâm cốt nhục, vì theo nhãn quan của Phật giáo, soi sáng
bằng trí tuệ, thấy được sự hiện hữu của mỗi người trên cuộc đời
đều có tương quan mật thiết với cá nhân khác, với gia đình, với
cộng đồng xã hội. Vì vậy, hạnh báo hiếu báo ơn của đệ tử Phật
thường được diễn tả là "thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ
khổ". Đó là hạnh nguyện báo hiếu cao độ, rộng lớn, thể hiện
thành hạnh báo đáp bốn ơn trong mùa Vu lan: ơn cha mẹ, ơn Thầy
bạn, ơn xã hội và ơn Tam Bảo. Bên cạnh trách nhiệm đền đáp bốn
ơn ấy, trên bước đường tu, đệ tử Phật còn cứu khổ chúng sanh
trong ba đường ác. Nổi bật nhất là gương đại hiếu của đức Mục
Kiền Liên hết lòng cứu mẹ ra khỏi khổ nạn ngạ quỷ, được ghi lại
trong kinh Vu lan bồn. Và hơn thế nữa, Ngài còn làm rạng danh
Phật pháp, tuẫn tiết như một Thánh giả.
-
Mục Kiền Liên là một trong 10 đại đệ tử của Phật, chỉ một tuần
sau khi quy y Phật, Ngài đã đắc quả A la hán và nổi tiếng thần
thông bậc nhất. Ngài trợ thủ đắc lực cho đức Phật trong công
việc hoằng hoá độ sanh.
-
Nhưng một hôm, trên đường hành đạo, tôn giả Mục Kiền Liên bị sát
hại bởi bọn loã hình ngoại đạo xô đá từ trên núi xuống. Không ít
người thắc mắc tại sao tôn giả không dùng thần thông để đối chọi
lại với ngoại đạo mà lại để cho họ thảm sát như vậy.
-
Thiết nghĩ tôn giả Mục Kiền Liên với tư cách của vị
Thánh A la hán, Ngài đã thấu suốt ba đời nhân quả của kiếp sống
mình và người. Từ thấy biết chính xác ấy, thấy được việc đáng
làm, làm rồi sẽ kết thành quả tốt đẹp như thế nào, kể cả kết
cuộc là chấm dứt mạng sống của chính mình, thì Ngài cũng thanh
thản chấp nhận.
-
Đức Phật cho biết tôn giả Mục Kiền Liên đã biết lựa chọn cái
chết có ý nghĩa, tác động cho nhiều người phát tâm trước thánh
hạnh cao cả ấy. Ngoài ra, cái chết của Ngài còn là bài pháp sống
minh chứng sâu sắc tinh thần nhân quả, cốt lõi của giáo lý mà
đức Phật thường nhắc nhở.
-
Kinh điển đã ghi lại không ít trường hợp tôn giả Mục Kiền Liên
sử dụng thần thông để hàng phục ngoại đạo, như bắc cầu thất bảo
sang sông hay chặng núi lại không cho ngoại đạo dời đi, v.v. Vậy
mà cuối cùng Ngài lại chấp nhận cho ngoại đạo xô đá đè chết một
cách dễ dàng. Phải chăng với trí tuệ của bậc Thánh giả, Mục Kiền
Liên quán sát tương quan nhân quả nhiều đời, thấy rõ oan nghiệp
của Ngài từng gieo trồng với bọn ngoại đạo loã thể. Vì vậy, tôn
giả lựa chọn phương cách trả túc nghiệp ấy bằng cách tự để yên
cho họ giết. Điều này nói lên ý nghĩa Phật dạy khi nghiệp đã
thành, tức quả đã chín thì thần thông cũng không còn hiệu lực.
-
Thần thông là sự kết hợp trọn vẹn sức mạnh của trí lực, thể lực
mà người tu sử dụng được. Nhưng khi sức khoẻ không tốt, đầu óc
không còn minh mẫn, tâm trí không định tĩnh, thấy vật không còn
chính xác, tức những yếu tố tạo nên thần thông bị bị hư hoại thì
tự nhiên thần thông cũng không còn. Vì vậy, đối với hàng đệ tử
tiến tu giải thoát, đức Phật vẫn thường ngăn cấm việc luyện tập
hay sử dụng thần thông.
-
Thấy biết nghiệp quả đã thành, tôn giả Mục Kiền Liên lựa chọn
cái chết như vậy để trợ duyên cho Phật nói lên pháp giải thoát
của người tu hành mới là điều chính yếu, không phải tu để luyện
tập sức mạnh nhằm thủ thân hay hại người như mục tiêu của ngoại
đạo bấy giờ. Trên bước đường tu, sống hành thiện, giúp người,
không tạo việc ác, không gây oan nghiệp, chắc chắn không gặp quả
báo xấu.
-
Mục Kiền Liên là bậc Thánh giả, dĩ nhiên đời sống Ngài rất tốt.
Tuy nhiên, việc làm thánh thiện của Ngài vẫn gây khó khăn cho
hàng ngoại đạo. Họ sống vì tham vọng, vì quyền lợi nên điều tốt
của Ngài tự động ảnh hưởng tác hại đến họ, khiến họ để tâm trả
thù, giết hại. Theo tôi, đó là phản ứng phụ mà chúng ta cần
cân nhắc trên bước đường tu. Bất cứ việc làm nào cũng có phản
ứng phụ, giống như quạt máy quay cho gió mát thì cũng phát sanh
phản ứng phụ là thải ra nhiệt mà ta sờ vào đầu quạt thường thấy
nóng. Tùy theo máy tốt hay xấu mà phản ứng phụ có nhiều hay ít.
Đối với người hành Bồ tát đạo cũng vậy, nếu việc làm mang đến
lợi lạc cho nhiều người, làm sáng danh đạo pháp, mà thiệt hại
cho một số ít người, tức phản ứng phụ nhỏ, thì họ sẵn sàng chấp
nhận hậu quả không tốt của phản ứng phụ. Điển hình là tôn giả
Mục Kiền Liên đã biết trước phản ứng của ngoại đạo, nên chuẩn bị
trước cái chết để giải oan khiên, nêu cao tấm gương sáng vì đạo
pháp, bất chấp phải hy sinh cả thân mạng.
-
Quan sát thực tế, chúng ta cũng hiểu rõ được cái chết của Mục
Kiền Liên. Ngài là giáo chủ của ngoại đạo mà lại từ bỏ họ, theo
Phật, xiển dương chánh pháp một cách nhiệt tình, vô điều kiện.
Hẳn nhiên việc làm ấy gây bất bình, khổ đau, thù hận cho hàng
ngoại đạo không ít. Vì ngoại đạo sống với tham vọng, ảo giác, họ
muốn đưa Mục Kiền Liên lên làm tấm chắng của vị Thánh lớn, để
dựa theo Ngài, mà họ làm những ông thánh nhỏ hưởng lợi. Vậy mà
tôn giả Mục Kiền Liên lại dứt khoát bỏ họ, về với Phật đạo, sống
bình dị với đại chúng theo tinh thần bình đẳng, không cần được
ca tụng, thần thánh hoá. Điều ấy tất đã làm thiệt hại quyền lợi
ngoại đạo không ít.
-
Tôn giả Mục Kiền Liên thấy biết tham vọng của ngoại đạo đã biến
thành thù hận, Ngài tìm cách hoá giải, cho họ cơ hội để trả hận
bằng cách thản nhiên một mình đi ngang ngọn núi mà họ mai phục,
để họ giết chết dễ dàng. Theo tôi, Ngài sắp đặt cách chết ấy nhẹ
nhàng như người đánh cờ giả vờ thua để khỏi phải chơi nữa. Thay
vì sống đến già bịnh cũng chết thì tôn giả chọn cách đứng yên
cho người lăn đá đè chết để kẻ thù nguôi giận, giải trừ oan trái
túc nghiệp đời trước, đồng thời tác động cho người thương kính
hành động cao thượng ấy mà phát tâm hướng về Phật đạo. Quả thật,
tôn giả Mục Kiền Liên làm Phật sự không biết mệt mỏi, sử dụng cả
đến cái chết của mình như một phương tiện làm đạo, xiển dương
chánh pháp.
-
Trong mùa Vu lan, thường mưa dầm gió bấc, gợi chúng ta nhớ nghĩ
đến cha mẹ, ông bà, thân bằng quyến thuộc đã qua đời, hoặc người
sống không nơi nương tựa. Chạnh lòng nhớ đến người quá cố và
khởi tâm muốn báo hiếu báo ân, chúng ta thường tụng kinh, cầu
nguyện, bố thí, cúng dường để hồi hướng cho tất cả được tái sanh
về cảnh giới an lành. Bên cạnh những việc làm phước thiện ấy,
thiết nghĩ Tăng Ni Phật tử cần nỗ lực tu hành, phát huy trí tuệ,
tăng trưởng phước đức, mới có thể báo hiếu báo ân theo đúng tinh
thần Phật dạy "Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ"
- --o0o--
|
|