|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN
-

-
GƯƠNG BÁO HIẾU
-
CỦA NGƯỜI XUẤT GIA
-
--- o0o ---
-
-
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường
noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn
cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế, mà cách phổ
thông nhất như ca dao từng bảo:
-
Cha già là Phật Thích Ca,
-
Mẹ
già như thể Phật Bà Quan Âm
-
Nhớ ngày xá tội vong nhân
-
Lên chùa lạy Phật đền ơn sanh thành.
-
Đó
là một trong những cách báo hiếu đơn giản nhất của người sơ cơ
học đạo. Còn những Phật tử thì vào dịp này, thường sắm sửa phẩm
vật, thiết lễ Trai tăng cúng dường thập phương tăng chúng - sau
ba tháng thanh tịnh tu học - để hồi hướng công đức cầu nguyện
cho cha mẹ hiện tiền được phước thọ tăng long, và phụ mẫu quá cố
được sinh về nhàn cảnh. Thế còn người xuất gia báo hiếu cha mẹ
bằng cách nào?
-
I. BÁO HIẾU VỀ MẶT VẬT CHẤT LẪN TINH THẦN
-
Vào thời đức Phật có Tôn giả Tất Lăng Già Bà Ta, sau khi xuất
gia hành đạo, chạnh lòng nghĩ đến cha mẹ già yếu, nghèo khổ
không ai nuôi dưỡng. Ngài muốn đem y phục và thực phẩm cúng
dường cha mẹ, nhưng vì sợ phạm giới luật. Ngài bèn trình bày nỗi
băn khoăn của mình lên Thế Tôn. Nhân đó, đức Đạo sư họp các Tỳ
kheo và truyền dạy: "Nếu có người nào suốt cả trăm năm, vai phải
cõng cha, vai trái cõng mẹ, và dù cha mẹ có đại tiểu tiện trên
vai mình, cũng chưa thể gọi là làm tròn hiếu đạo. Hoặc đem những
thứ y phục và ẩm thực quý nhất trên đời cung phụng cha mẹ cũng
chưa đủ báo đền công ơn cha mẹ trong muôn một. Từ nay Ta cho
phép các Tỳ Kheo suốt đời hết lòng cúng dưỡng cha mẹ. Nếu ai
không cúng dường thì phạm tội nặng". (1)
-
Vâng lời Phật dạy, hàng ngày Tôn giả đi khất thực đem về chia
cho cha mẹ hai phần, còn mình thọ dụng một phần, và thường dâng
cho cha mẹ những nhu yếu khi cần.
-
Trường hợp trên đây cho chúng ta thấy, dù là người xuất gia vẫn
có bổn phận cưu mang cha mẹ nếu cha mẹ không người nuôi dưỡng.
Trường hợp Tổ Liễu Quán (1667-1742) sau đây cũng tương tự như
thế. Tổ mồ côi mẹ lúc vừa sáu tuổi, thân phụ bèn dẫn đến chùa
Hội Tôn cho thọ giáo với Hòa thượng Tế Viên. Nhưng theo hầu được
bảy năm thì Hòa thượng viên tịch. Tổ liền vượt núi băng ngàn tìm
ra Thuận Hóa thọ học với Giác Phong Lão Tổ chùa Báo Quốc. Được
một năm, lại hay tin cha già không người chăm sóc. Tổ phải trở
về nhà, hàng ngày lên núi đốn củi, đem về đổi gạo nuôi dưỡng phụ
thân. Dù hoàn cảnh gia đình thanh bạch, Tổ vẫn săn sóc cha già
chí tình, chí hiếu, cho đến khi thân phụ qua đời. Sau khi lo
việc ma chay chu đáo, Tổ mới trở ra Thuận Hóa tiếp tục con đường
tu học. (2)
-
Tấm gương của Tổ Liễu Quán có phần nào giống với hoàn cảnh của
Lục Tổ Huệ Năng (638-713) . Lục Tổ khi còn bé cha mất sớm, chỉ
còn một mẹ già, gia cảnh lại nghèo khó. Do đó, hàng ngày Tổ phải
lên non đốn củi, gánh ra chợ bán, rồi đổi lấy gạo đem về nuôi
mẹ. Một hôm nghe người ta tụng kinh Kim Cương đến câu " Ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm", Tổ cảm thấy như bừng tỉnh, nên có ý
định xin phép mẹ đến núi Hoàng Mai thọ giáo với Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn. Nhưng vì mẹ già không ai phụng dưỡng, nên lòng còn trù trừ
chưa nỡ xuất gia. Bỗng có người hiểu được tâm nguyện cuả Tổ, bèn
trợ giúp mười lạng bạc, và hứa sẽ thay mặt Tổ để trông nom nuôi
dưỡng bà cụ đến trọn tuổi già. Nhờ thế, Tổ mới an tâm, từ thân
xuất gia học đạo, và đã trở thành một trụ cột độc sáng của thiền
tông Trung Hoa. (3)
-
Nhìn lại nước ta vào thời kỳ vàng son của Phật giáo đời Trần,
cũng có vị Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là thiền sư
Huyền Quang (1254-1334). Tổ là một vị Trạng nguyên xuất chúng,
mặc dù thi đỗ, làm quan, nhưng xem phú quý như bèo bọt. Một hôm,
Tổ theo vua đến chùa Vĩnh Nghiêm tham dự pháp hội, thấy Quốc sư
Pháp Loa đang hành đạo, liền nhớ lại duyên xưa, bùi ngùi than
rằng: " Làm quan lên bồng đảo, đắc đạo đến Phổ Đà; trên cõi nhân
gian là tiên, cảnh giới Tây phương là Phật. Phú quý nào khác lá
vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên lưu luyến mãi hoài".
-
Thế rồi, dâng biểu xin vua xuất gia học đạo tu hành. Bỗng một
hôm nghe tiếng chim khách kêu vang trên cành ở trước sân, Tổ
chạnh lòng nhớ đến cha mẹ già yếu, nghĩ đến công ơn sinh dưỡng
sâu dày, liền sắm sửa hành trang trở lại cố hương, hầu thăm cha
mẹ. Về nhà, trông cha mẹ còn khỏe mạnh, và biết ông bà cụ rất
sùng tín Tam Bảo, Lòng Tổ rất hoan hỉ. Nhân đó cho xây một ngôi
chùa ở phía Tây nhà, đặt tên là chùa Đại Bi, lấy ý từ câu: " Đại
từ đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát cứu độ cha mẹ hướng về Phật đạo".
Bấy giờ cha mẹ đã có ngôi bảo điện để hàng ngày tụng niệm, khuây
khỏa tinh thần, thấm nhuần pháp vị, di dưỡng tuổi già, Tổ mới an
tâm tiếp tục sứ mệnh hoằng dương chánh pháp. (4)
-
II. BÁO HIẾU TRÊN PHƯƠNG DIỆN TINH THẦN
-
Thiền sư Hư Vân (1840-1959) lúc mới sinh được bảy ngày thì thân
mẫu từ trần, được kế mẫu thương yêu nuôi dưỡng. Đến năm mười bảy
tuổi, Ngài có chí xuất trần, nhưng thân phụ không cho phép. Vì
ông đang làm quan, tính tình lại nghiêm khắc, hơn nữa Ngài là
con trai độc nhất của gia đình. Thế nhưng, do động cơ xuất gia
mãnh liệt, cuối cùng, Ngài đã lặng lẽ thoát ly gia đình, để hoàn
thành chí nguyện cao cả của mình. Đến khi thân phụ qua đời, Ngài
ân hận đã làm cho cha già phiền lòng, lại nhớ thương mẹ hiền
vắng bóng từ lúc còn thơ ấu. Do đó, Ngài phát nguyện hành hương
đến Ngũ Đài Sơn - nơi di tích của Bồ Tát Văn Thù - cứ đi ba bước
lạy một lạy với mục đích sám hối tội lỗi không phụng dưỡng mẹ
cha trọn đạo, đồng thời hồi hướng công đức để nguyện cầu cha mẹ
sinh về cảnh giới an lành.
-
Tấm gương hiếu thảo của thiền sư Hư Vân làm cho chúng ta phải
thán phục. Thế còn thiền sư Hám Sơn (1545-?) lúc còn bé đã là
một đứa trẻ khác thường. Năm lên ba tuổi, Ngài chỉ thích ngồi
lặng lẽ một mình hơn là đi chơi với những đứa trẻ khác. Mẹ Ngài
lại là một Phật tử thuần thành, suốt đời thờ đức Đại Sĩ Quán Âm.
Năm ngài lên bảy tuổi, bà gởi con đến một ngôi trường cách nhà
một dòng sông. Một hôm, sau khi về thăm mẹ, Ngài trở lại nhà
trường, được mẹ tiễn chân ra tận bờ sông, nhưng vì quá quyến
luyến mẹ, Ngài không muốn rời khỏi tay bà. Đang cơn tức giận, bà
liền túm tóc con, ném xuống sông rồi quay về nhà mà không một
lần ngoái lại. Lúc ấy, bà nội của Ngài có mặt ở đó, kêu cứu,
Ngài mới thoát chết. Sau đó, mẹ Ngài nhiều lần đứng khóc một
mình trên bờ sông và phân trần với mẹ chồng: "Con phải làm thế
để cho nó vượt qua cái tính quá đa cảm mà học hành nghiêm
chỉnh".
-
Năm mười hai tuổi, Ngài từ giã mẹ cha, dấn thân trên con đường
du phương học đạo. Suốt thời gian ấy, mẹ Ngài luôn luôn theo
dõi tin tức con mình. Khi nghe tin Ngài đang tham học ở Ngũ Đài
Sơn, bà liền hướng về đó đảnh lễ và niệm danh hiệu đức Bồ Tát
Quán Âm. Nhờ thế, bà cảm thấy lòng mình trở nên khuây khỏa.
-
Sao bao năm xa cách, Ngài trở về nhà thăm lại song thân và định
chọn đất xây mộ cho hai người. Môt buổi sáng, Ngài cùng cha mẹ
đi thăm mồ mả tổ tiên để tỏ lòng tôn kính. Lúc ấy thân phụ
Ngài đã 80 tuổi. Ngài nói đùa với ông: "Hôm nay con chôn cha,
như vậy giúp cha khỏi trở lại thế gian này lần nữa". Vừa nói
Ngài vừa gõ cuốc xuống đất. Mẹ Ngài lập tức giật lấy cuốc
và tiếp: "Phần mụ để mụ tự đào mồ lấy, không cần ai lo cho mụ
cả". Rồi bà bắt đầu đào đất một cách vui vẻ.
-
Về
sau, Ngài mới hiểu rằng mình có một bà mẹ rất khác thường, và đó
chính là một trợ duyên thật quý báu để Ngài thành tựu được đạo
nghiệp rạng rỡ. (5)
-
Thiền sư Động Sơn Lương Giới (807-869), vị Tổ khai sáng tông Tào
Động Trung Hoa, cũng có một bà mẹ rất đặc biệt. Ngài đã trình
bày quan niệm hiếu thảo và cách thức báo hiếu của người xuất gia
đối với cha mẹ, cũng như sự mong đợi của cha mẹ đối với người
con đi tu, qua hai bức thư trao đổi giữa Ngài và mẹ Ngài. Trước
hết là lá thư Ngài gởi cho mẹ trình bày lý do và xin phép xuất
gia.
-
"Được nghe chư Phật ra đời đều do cha mẹ mà có thân. Muôn loài
hàm linh phải nhờ trời đất che chở. Thế nên, không có cha mẹ
thì chẳng sinh, không có trời đất thì chẳng trưởng. Nhưng, tất
cả hàm thức đều chịu định luật vô thường chi phối. Nghĩ đến ân
bú sú thâm trọng, cũng như công nuôi dưỡng cao dày, nếu đem của
cải thế gian phụng dưỡng, hoặc cùng máu thịt thân này dâng hiến,
cũng không thể đáp đền. Hiếu kinh nói: " Dù một ngày giết đôi
ba con vật để cung hiến cha mẹ vẫn là bất hiếu. Vì sẽ lôi nhau
vào vòng sanh tử, chịu muôn kiếp luân hồi". Do đó, muốn đền ân
sâu dày của cha mẹ đâu bằng công đức xuất gia. Vì sẽ cắt đứt
dòng sông khát ái sinh tử, vượt qua bể khổ trầm luân, đáp ân cha
mẹ nghìn đời, đền nghĩa từ thân muôn kiếp. Kinh nói: "Một người
con xuất gia, chín họ đều sinh lên cõi trời". Con nguyện bỏ thân
mạng đời này, để thành tựu đạo quả Bồ đề, đem căn trần muôn kiếp
mà thắp sáng trí tuệ Bát nhã. Cúi mong cha mẹ mở
lòng hỷ xả, dứt nỗi nhớ mong, noi gương đức vua Tịnh Phạn và
Thánh Mẫu Ma Da, hẹn sẽ gặp nhau trong hội Long Hoa. Còn hiện
nay xin cam chịu lìa nhau. Chẳng phải con quên ân dưỡng dục, mà
chỉ vì thì giờ chẳng đợi người. Cổ đức từng nói: " Thử thân bất
hướng sinh thân độ, cánh hướng hà thân độ thử thân? Thân này
chẳng nhắm đời này độ, còn đợi đời nào độ thân này?".
-
Kính xin cha mẹ lòng chớ nhớ mong!
-
Nhận được thư con, mẹ Ngài hồi âm:
-
"Mẹ cùng con đời trước có nhiều nhân duyên nên mới kết thành
tình mẹ con. Kể từ lúc mẹ hoài thai, sớm chiều cầu thần khẩn
Phật, mong sinh được con trai. Thai bào đủ tháng, mạng sống như
chỉ mành. Sinh được con trai, mẹ rất toại nguyện, xem như châu
báu, không nề hôi hám nhơ uế, chẳng ngại bú sú nhọc nhằn. Con
vừa thành người, mẹ dắt đến trường cho con học tập. Mỗi khi con
đi chơi về trễ, mẹ đứng tựa cửa ngóng trông. Nay con viết thư
về quyết xin xuất gia. Cha con đã mất, mẹ già, anh yếu, em
nghèo, mẹ biết trông cậy vào ai! Con có ý bỏ mẹ, chớ mẹ nào có
dạ quên con. Từ khi con cất bước tha phương, ngày đêm mẹ thường
rơi lệ, khổ thay! Khổ thay! Nay con lại thề chẳng về nhà, mẹ
cũng tùy theo chí nguyện của con. Mẹ không dám mong con như
Vương Tường nằm giá, như Đinh Lai khắc cây, mà chỉ mong con như
Tôn giả Mục Liên, độ mẹ thoát khỏi trầm luân, tiến lên Phật
quả. Nếu mẹ không như vậy, e phải có tội. Mẹ cầu mong cho con
hoàn thành chí nguyện của mình". (6)
-
Trên đây, chúng tôi đã trình bày một vài tấm gương báo hiếu của
người xuất gia, mỗi người có mỗi hoàn cảnh riêng, nhưng chung
quy ai cũng mang nặng ân tình của cha mẹ. Vì nhờ cha mẹ mới có
thân ta. Do đó, mở đầu bức thư Ngài Động Sơn đã nói "Chư Phật ra
đời đều nhờ cha mẹ mới có thân này". Và nhờ có thân này mới tu
thành chánh qủa cứu độ quần sinh. Thế nên, sự báo hiếu cha mẹ
đương nhiên là bổn phận thiêng liêng, không một ai được phép
quên lãng. Vì vậy, người xuất gia, nếu cha mẹ già yếu, cô độc,
không người nuôi dưỡng, vẫn có bổn phận phụng dưỡng cha mẹ cho
đến trọn đời. Trái lại, nếu cha mẹ đã có người chăm sóc tạm được
an lành, thì người tu sĩ cần dốc chí tu học, hoàn thành đạo
nghiệp, rồi vận dụng tâm lực, hồi hướng công đức, cứu vớt cha mẹ
khỏi vòng trầm luân khổ hãi. Thiết nghĩ, đó là cách báo hiếu
chân chính của đạo từ bi, và thích hợp với những ai đã chọn con
đường thoát tục.
-
Mùa Vu Lan, P.L. 2538
-
Chú thích:
-
(1) Luật Ngũ Phần, Đ.22, tr. 140c
-
(2) Theo văn bia Tổ Liễu Quán, do T.T Giới Hương phiên dịch
-
(3) Kinh Pháp Bảo Đàn
-
(4) Tam Tổ Thực Lục, bản chữ Hán, tr. 50b-54a
-
(5) Thiền đạo Tu Tập, Trương Trừng Cơ, Như Hạnh dịch, Kinh Thi
XB 1972, tr.188-219
-
(6) Theo bản dịch của H.T Thanh Từ trong băng giảng
- --o0o--
|
|