|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN
-

-
Chữ Hiếu
-
Qua Ca Dao Việt
Nam
-
& Trong Kinh Điển Phật Giáo
-
---o0o---
-
Bài thuyết trình của tác giả tại câu lạc bộ Thanh Niên, TP. Hồ
Chí Minh, ngày
12-7-1991
-
Theo truyền thống Phật giáo Bắc tông, hằng năm cứ vào ngày rằm
tháng 7, ngày chư tăng ni tự tứ, toàn thể tăng ni Phật tử noi
theo gương hiếu của đức Mục-kiền-liên, long trọng tổ chức đại lễ
Vu-lan-bồn, để tưởng nhớ và báo đáp công ơn sanh thành và dưỡng
dục của cha mẹ. Chính vì thế ngày vu-lan đã được xem là ngày Cha
Mẹ trong Phật giáo.
-
Trong ngày lễ tưởng niệm ngày hôm ấy, ai diễm phúc còn đầy đủ
song thân sẽ được cài lên áo một bông hồng đỏ. Những ai không
may mắn đã mất cha hoặc mẹ hoặc cả song thân sẽ được cài lên áo
một bông hồng trắng. Để trọng thể buổi lễ, người Phật tử đều
đình chỉ mọi công việc hằng ngày, đi lễ chùa, chúc thọ, cầu an
hoặc cầu siêu cho cha mẹ. Chư tăng ni tại các tự viện, tùng lâm
sẽ thuyết giảng về hiếu hạnh, sẽ tụng kinh Vu-lan, kinh Báo Ân
Cha Mẹ. Ngoài ra, tăng ni Phật tử còn làm lễ khánh tuế, mừng các
bậc sư trưởng của mình được thêm một tuổi đạo.
-
Ngày Vu-lan, ngày báo hiếu đã ăn sâu vào trong tâm khảm của
người Phật tử, vào lòng người Việt Nam và thật sự trở thành một
sức sống mảnh liệt, một nét văn hóa độc đáo, một nét đặc trưng
cho tính nhân bản của xã hội loài người. Hiếu được xem như một
thứ tình cảm thiêng liêng và cao đẹp nhất trong các thứ tình cảm
của loài người. Hiếu là chất liệu cho cuộc sống, là hương thơm
cho đời, là hành trang vô giá và không thể thiếu vắng ở bất kỳ
người nào. Hiếu phản ánh đời sống văn hóa và đạo đức của xã hội.
Hiếu phân định nhân cách, tri thức của con người. Hiếu là chất
liệu sống muôn thuở. Nói đến hiếu là nói đến cái gì cao đẹp
nhất, thiêng liêng nhất đối với mọi người.
-
Mỗi xã hội, mỗi tôn giáo, mỗi chủ nghĩa đều có quan niệm khác
nhau về đạo đức, nhưng cùng đề cao giá trị văn hóa, đạo đức của
hiếu đạo là tuyệt vời. Để giới hạn phạm vi bài viết, người viết
xin trình bày chữ hiếu qua Ca dao Việt Nam, những lời ca dân
gian của một dân tộc thấm nhuần tình cảm hiếu nghĩa, và chữ hiếu
trong kinh điển Phật giáo, một tôn giáo dạy về chữ hiếu nhiều
nhất, đầy đủ nhất và đặc biệt nhất trong các tôn giáo của nhân
loại.
-
I. Chữ hiếu qua Ca dao Việt Nam
-
Trong ca dao Việt
Nam,
chữ hiếu đóng một vai trò quan trọng và nền tảng về đạo đức và
luân lý xã hội. Nó góp phần giáo dục, xây dựng một xã hội bình
ổn và hạnh phúc. Trước nhất và quan trọng hơn hết, ca dao nhấn
mạnh đến công ơn trời biển và công đức sâu dày của cha mẹ, một
thứ công ơn khó mà diễn tả cho cùng:
-
- Anh ơi, em bảo anh này
-
Công cha nghĩa mẹ cao dày chớ quên!
-
Với sự diễn tả xác đáng hơn, ca dao Việt Nam khẳng định
-
Công cha nhơ núi thái sơn
-
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
-
Một lòng thờ mẹ kính cha
-
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
-
Ca dao Việt Nam đã diễn tả tình cha mẹ rất chính xác. Cha thương
con nhưng cứng rắn, nghiêm nghị nên được ví với sự sừng sửng của
núi Thái, một ngọn núi to lớn và cao vĩ. Mẹ thương con ngọt lịm
dịu dàng nên được sánh ví với suối nguồn chảy tuông êm ả, nhẹ
nhàng, bất tận. Ca dao Việt Nam còn nhấn mạnh đến nỗi cực nhọc
chín tháng cưu mang, ba năm bồng ẳm của người mẹ:
-
- Nhớ ơn chín chữ cù lao
-
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình.
-
Hay
-
- Nghĩa cha sanh cùng công mẹ dưỡng
-
Thì ngày đêm tư tưởng chớ khuây
-
Hai công đức ấy nặng thay
-
Xem bằng bể rộng, xem bằng trời cao
-
Kể từ lúc hãy còn thai dựng
-
Đến những khi nuôi nấng giữ gìn
-
Nặng nề chín tháng cưu mang
-
Công sinh bằng vượt biển sang nước người.
-
- Ơn hoài thai to như bể
-
Công dưỡng dục lớn tợ non
-
- Đội ơn chín chữ cù lao
-
Sanh thành kể mấy non cao cho vừa.
-
- Công cha nghĩa mẹ cao dày
-
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
-
Nuôi con khó nhọc đến giờ
-
Trưởng thành con phải biết thờ song thân
-
- Công cha nghĩa mẹ cao vời
-
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta
-
Nên người ta phải xót xa
-
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao!
-
Ngoài ra, ca dao còn diễn tả sự hy sinh của mẹ cho con cái là vô
cùng:
-
- Nuôi con chẳng quản chi thân
-
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn
-
Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn
-
Lên non xắn đá xây lăng phụng thờ.
-
Đặc biệt ca dao còn xác quyết công lao cao dày của cha mẹ là một
sự thật, một thực thể tình người, mà những ai đã, đang và sẽ có
con cái sẽ cảm nhận chính xác nhất:
-
- Có con mới rõ sự tình
-
Xưa kia thầy mẹ thương mình thế nao.
-
- Lên non mới biết non cao
-
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.
-
- Nuôi con mới biết lòng cha mẹ
-
Thấy loạn thì hay thuở Thuấn Nghiêu.
-
(Nguyễn Trãi)
-
Chính vì công lao sâu dày của cha mẹ là không cùng, ca dao Việt
Nam khẳng định vị trí của cha mẹ là vô song, không có gì có thể
sánh bằng. Một khi cha mẹ mất, con cái phải chật vật, đau khổ và
dường như mất cả ý nghĩa của cuộc đời:
-
- Còn cha gót đỏ như son
-
Mai sau cha mất, gót con lấm bùn
-
- Còn cha còn mẹ thì hơn
-
Mất cha mất mẹ như đờn đứt dây.
-
Trong các thứ tình cảm, ca dao khẳng định tình cảm giữa mẹ con
và con cái là cao quý nhất, vượt hơn tình yêu đôi lứa:
-
- Cha mẹ già thật đã khó tìm
-
Đạo vợ chồng chẳng hiếm chi nơi.
-
Chính vì thế, còn có nỗi đau nào hơn nỗi đau khi cha mẹ mất!
-
- Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
-
Nhớ cha nhớ mẹ chín chiều ruột đau
-
Chiều chiều ra đứng ngỏ sau
-
Ngó về quê mẹ ruột đau như dần.
-
Hay tình cảm đối với cha mẹ còn sống nhưng trong cảnh chia cách:
-
- Gió thúc cội thung nhánh tùng khua rúc rắc
-
Nhớ cha mẹ già ruột thắc gan teo.
-
Ca dao còn sánh ví cha mẹ như Phật, mà theo kinh điển Phật là
đấng cao quý nhất trong ba cõi, là thầy của chư thiên và loài
người. Nghĩa là ca dao đã trân trọng đặt cha mẹ lên vị trí tôn
quý nhất trong tam giới:
-
- Gió đưa cành trúc la đà
-
Cha mẹ còn sống Phật đà hiện thân.
-
Do sự tôn kính đó, ca dao đã dạy trước phải kính dưỡng đức
Phật-Cha mẹ trong nhà rồi sau mới kính dưỡng đức Phật ngoài
đồng. Trên cơ sở này, ca dao có quan điểm rằng sự đi tu với hình
thức "cắt ái từ thân, xuất ly gia đình" không còn là điều tiên
quyết:
-
- Tu đâu cho bằng tu nhà
-
Thờ cha kính mẹ cũng là chân tu.
-
Hay
-
- Lên chùa thấy Phật muốn tu
-
Về nhà thấ mẹ công phu sao đành.
-
Tình cảm hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ đã trở nên một thứ
tình cảm gắn bó. Ca dao đã ví cha mẹ như chuối chín cây, như xôi
nếp ngọt, như đường mía lao, để làm ngọt lịm cuộc đời và sự sống
của con:
-
- Mẹ già như chuối chín cây
-
Gió đưa mẹ rụng con rày mồ côi.
-
- Mẹ già như chuối ba hương
-
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
-
Và do vậy, phận làm con phải luôn kính cha thương mẹ:
-
- Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ
-
Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha.
-
Tuy nhiên ca dao cũng tích cực lên án những hạng người con bất
hiếu, bỏ quên công ơn sanh thành dưỡng dục lao khổ của cha mẹ,
trở lại tính tháng đếm ngày với cha mẹ, khi phải nuôi nấng cha
mẹ:
-
- Mẹ nuôi con bằng non bằng bể
-
Con nuôi mẹ con kể từng ngày
-
- Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
-
Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.
-
Dĩ nhiên những hạng người vô ân bất hiếu như vậy sẽ không nhớ
đến sự khó nhọc và lao khổ của cha mẹ:
-
- Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
-
Năm canh chày mẹ thức đủ trọn năm.
-
Mặt khác, ca dao cũng không quên nhắc đến những trang nam tử,
những thiện nữ nhân thành tâm hiếu dưỡng cha mẹ hết lòng, sớm
thăm tối viếng:
-
- Mẹ già ở túp lều tranh
-
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
-
Ca dao cũng khen ngợi những người con có hiếu thảo, tảo tần chịu
gian khó, hiếu dưỡng cha mẹ từng cái ăn cái uống, cho thỏa dạ
chân tình:
-
- Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi
-
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.
-
Hay tình cảm thống thiết của người con chẳng quản giàu nghèo,
dưỡng nuôi cha mẹ, bằng tất cả những gì có được, dù phẩm vật ấy
có thô sơ, đam bạc:
-
- Dây bầu dây mướp cùng leo
-
Sớm nuôi cha mẹ nghèo giàu sá chi.
-
Hoặc cảnh con cái chăm sóc cha mẹ một cách chu đáo cả đêm lẫn
ngày: khi cháo cơm, khi đau yếu và ngay cả những khi ra vào gặp
tôn nhan của mẹ:
-
- Cù lao đội đức cao dày
-
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng
-
Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
-
Xem cháo cơm thay thế mọi bề
-
Ra vào thăm hỏi từng khi
-
Người đà vô sự ta thì an tâm.
-
(Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
-
Ca dao Việt Nam còn tin vào nghiệp báo luân hồi, tin vào sự tái
sanh, vào kiếp sống đời sau, tin vào những thiện nhân phước báo
mà con cháu làm để hồi hướng cho cha mẹ là có tác hưởng thật sự.
Chính hiếu hạnh đó đã cảm hóa tâm tính cha mẹ và cộng với phước
báu của con cháu đã tạo mà cha mẹ được nhẹ nhàng lúc mất, và
sanh về thế giới an lành, hạnh phúc hơn. Như vậy, ca dao cũng đã
chịu ảnh hưởng tinh thần hiếu thảo trong kinh điển Phật giáo:
-
- Đêm nằm niệm Phật Thích-ca
-
Cầu cho cha mẹ kết hoa liên đài
-
Về cảnh Phật thấy hoa khai
-
Trầm luân chấm dứt, đáo lai niết-bàn.
-
Đồng thời ca dao còn tin vào quy luật nhân quả, ở đây là nhân
hiếu quả hiếu, nhân bất hiếu thì quả bất hiếu. Đây chính là bài
học thiết thực và có giá trị về chữ hiếu mà người Việt
Nam
đã sống và thực hiện từ bao đời nay:
-
- Nếu mình hiếu với mẹ cha
-
Thì con cũng hiếu với ta khác gì
-
Nếu mình ăn ở vô nghì
-
Đừng mong con hiếu làm gì hoài công.
-
Hay ấn tượng hơn qua hình ảnh ẩn dụ của những giọt nước trước
sau:
-
Hiếu thuận sanh ra con hiếu thuận
-
Ngỗ nghịch thì con có khác chi
-
Xem thử trước thềm mưa xối nước
-
Giọt sau giọt trước chẳng sai gì.
-
Nhờ có một nền tảng giáo dục luân lý đạo đức đặt trên cơ sở hiếu
nghĩa như vậy, xã hội Việt
Nam,
con người Việt
Nam
đã xứng đáng với truyền thống:
-
- Làm người hiếu nghĩa đi đầu
-
Hiếu cha hiếu mẹ việc gì không xong.
-
Trên nền tảng tôn thờ đạo hiếu thảo, xã hội Việt Nam có thể được
xem là một xã hội chuẩn mực về đạo đức hiếu thảo và làm người.
Tuy nhiên hiếu thảo theo quan niệm ca dao Việt Nam vẫn còn nhiều
hạn chế. Nó chủ yếu dạy con cái hiếu dưỡng song thân về mặt vật
chất, và hình như không chú trọng đến yếu tố hiếu dưỡng tinh
thần và đời sống đạo đức của cha mẹ, trong khi theo Phật giáo,
hiếu dưỡng quan trọng hơn là hiếu dưỡng tinh thần. Đây chính là
lý do tại sao chúng ta phải tìm hiểu chữ hiếu qua những lời kinh
Phật dạy.
-
II. Chữ hiếu trong kinh điển Phật giáo
-
Có một sự thật khi nghiên cứu Phật giáo, người ta phải thừa nhận
rằng đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến hiếu hạnh, lợi ích của hiếu
hạnh và làm thế nào để báo đáp hiếu hạnh có hiệu quả cao và công
đức lớn. Các kinh điển Phật giáo dạy về hiếu hạnh có thể liệt kê
sơ bộ sau đây:
-
- Kinh Vu-lan-bồn nêu gương hiếu hạnh của đức Mục-kiền-liên, cứu
thoát mẹ ra khỏi cảnh giới u minh, nhờ vào đạo đức tập thể của
các bậc cao tăng và a-la-hán.
-
- Kinh Báo Ân Cha Mẹ nói rõ công lao sanh thành, nuôi dưỡng khó
khăn của cha mẹ, và theo đó dạy cách báo đáp công ơn trời biển
đó.
-
- Kinh Thai Cốt và Kinh Huyết Bồn cũng có nội dung tương tự như
hai kinh trên nhưng đặc biệt nhấn mạnh công đức của cha mẹ.
-
- Kinh Hiếu Tử dạy về các phương thức báo hiếu.
-
- Kinh Tâm Địa Quán với phẩm thứ hai là phẩm báo ân, dạy cách
đền ơn cha mẹ của người xuất gia và người tại gia.
-
- Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân có đến 2 phẩm nói về hiếu
hạnh của Phật và bồ-tát trong các đời sống quá khứ.
-
- Kinh Địa Tạng kể về hiếu hạnh của bồ-tát Địa Tạng và thông qua
đó hướng dẫn cách đền ơn cha mẹ ở hiện đời cũng như các đời sống
quá khứ.
-
- Sám Pháp Mục-kiền-liên dạy về cách sám hối và hướng dẫn cha mẹ
về chánh pháp của đức Phật.
-
- Kinh Thiện Sanh hay Giáo thọ Thi-ca-la-việt (thuộc kinh điển
Pali) dạy về đời sống và các mối quan hệ đạo đức của xã hội
loài, trong đó có đề cập đến 5 nguyên tắc đạo đức của các bậc
cha mẹ đối với con cái và 5 nguyên tắc đạo đức của con cái đối
với cha mẹ.
-
- Ngoài ra, những lời dạy về hiếu hạnh đã được đề cập rải rác
trong kinh Tăng Chi, thuộc kinh tạng Pali.
-
Còn nhiều kinh sách khác đề cập đến chữ hiếu ở góc độ này hay
góc độ khác. Có thể nói, chữ hiếu bàn bạc khắp kinh điển Phật
giáo đến nỗi người ta có thể phát biểu rằng kinh điển nhà Phật
là kinh dạy về hiếu, đọc kinh Phật giáo là để trở thành người
con hiếu thảo. Theo tinh thần lời Phật dạy, người con hiếu là
người có thể thành tựu nhiều hạnh lành khác, vì hiếu là nền tảng
của muôn hạnh lành, là cơ sở của nhân thừa, là nhịp cầu giải
thoát. Để quán triệt tinh thần hiếu thảo ấy, chúng ta lần lượt
khảo sát các điểm trọng yếu sau đây:
-
1. Biết ơn và đền ơn cha mẹ là hạnh hiếu đáng khen
-
Trước nhất kinh điển Phật giáo khẳng định rằng người biết ơn và
đền ơn cha mẹ là một bậc chân nhân, là người sống gương mẫu ở
đời. Một người con được gọi là con hiếu thảo phải là một con
người như vậy:
-
"Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được
biết đến, đó là biết ơn và đền ơn đúng pháp." (Kinh Tăng Chi I.
75)
-
Làm con mà không biết ơn cha mẹ hoặc biết ơn mà không lo đền đáp
công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ là người con bất hiếu.
Người như vậy sẽ bị xã hội lên án, đời sống đạo đức sẽ bị suy
giảm, và đời sống về sau sẽ bị thối đọa:
-
"Ai thành tựu thân làm ác với cha mẹ, lời nói ác đối với cha mẹ,
ý nghĩ ác đối với cha mẹ; không biết ơn, không trả ơn, sẽ tương
xứng rơi vào địa ngục và hiện đời sẽ bị đau khổ." (Kinh Tăng Chi
I. 637).
-
Kinh còn mô tả hạnh tri ân và đền đáp công ơn sanh thành của cha
mẹ là những gì cao quý nhất trên đời. Sự cao quý đó có thể sánh
với sự xuất hiện của đức Phật cũng như sự xuất hiện của chánh
pháp. Người tri ân và báo ân như vậy là người cao quý và hiếm có
trên đời:
-
"Sự xuất hiện của Như Lai bậc chánh đẳng giác khó tìm được ở
đời. Người hoằng truyền chánh pháp của Như Lai là khó tìm được ở
đời. Người tri ân và báo ân là khó tìm được ở đời." (Kinh Tăng
Chi I. 306)
-
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật cũng nói đến vị trí của người con
hiếu thảo là vô song và hơn hết các loài động vật khác. Sự vô
song này được đức Phật sánh ví với sự vô song của Phật so với
các loài hai chân:
-
- Giữa các loài hai chân
-
Chánh giác là tối thắng
-
Trong các loài con cái
-
Hiếu thuận là tối thắng.
-
(Kinh Tương Ưng I. 8)
-
Kinh Pháp Cú khi đề cập đến các phạm trù hạnh phúc cũng có nói
đến sự hiếu kính cha mẹ là hạnh phúc tối thượng ở đời:
-
- Phúc thay, hiếu kính Mẹ
-
Phúc thay, hiếu kính Cha!
-
(Kinh Pháp Cú, kệ 332)
-
Kinh Tăng Chi còn cho biết sự hiếu dưỡng bồi công tích đức cho
cha mẹ là một trong những yếu tố chính yếu để được tái sanh về
các cõi trời. Chư thiên cõi trời 33 luôn khen tặng những người
con có hiếu bằng những lời chúc lành. Chính các vị thiên này
cũng nhờ vào hạnh hiếu thảo mà được sanh về thiên giới, làm giảm
thiểu cảnh giới A-tu-la:
-
"Phúc thay những người con hiếu kính cha mẹ, làm nhiều công đức
để hiếu kính cha mẹ, vì như vậy thiên chúng sẽ được sung mãn và
các A-tu-la sẽ bị giảm thiểu" (Kinh Tăng Chi I. 459-60).
-
Đối với kinh Hạnh Phúc, việc hiếu kính cha mẹ không chỉ là một
loại hạnh phúc mà còn là một thứ hạnh phúc tốt lành nhất trong
các hạnh phúc của con người:
-
- Sự phụng dưỡng mẹ cha
-
Là hạnh phúc lớn nhất
-
Về sự liên hệ giữa hạnh hiếu và quả báo cõi trời, đức Phật còn
cho biết thiên chủ Sakka khi còn là con người do thọ trì bảy
giới trong đó hiếu kính cha mẹ đúng pháp là giới thứ nhất mà
được quả báo sanh làm Thiên vương Đế Thích.
-
- Ai hiếu dưỡng mẹ cha
-
Kính trọng bậc gia trưởng
-
Nói những lời nhu hòa
-
Từ bỏ lời hai lưỡi
-
Chế ngự lòng xan tham
-
Là người con chân thật
-
Nhiếp phục được phẫn nộ
-
Với con người như vậy
-
Chư thiên trời 33
-
Gọi là bậc chân nhân.
-
Hình ảnh hiếu dưỡng mẹ và cha đúng pháp không chỉ được gọi là
bậc chân nhân, bậc thiện nhân, bậc cao quý, mà còn được sánh ví
ngang hàng với phạm thiên, với các bậc tiên sư. Những gia đình
có được những người con hiếu thảo như vậy được gọi là gia đình
xứng đáng được cúng dường và tán thán:
-
"Này các Tỳ-kheo, những gia đình nào mà con cái kính lễ cha mẹ,
những gia đình ấy được xem là ngang hàng với Phạm thiên, với các
bậc tiên sư và đáng được cúng dường." (Kinh Tăng Chi I. 147)
-
Để giải thích thỏa đáng lý do có sự so sánh ngang hàng này, đức
Phật dạy:
-
"Này các Tỳ-kheo, danh từ Phạm thiên, tiên sư, bậc đáng được
cúng dường là đồng nghĩa với cha mẹ. Vì cha mẹ đã đầu tư hầu hết
cuộc đời của mình vào công trình nuôi dưỡng, giáo dục và giới
thiệu con cái vào đời." (Kinh Tăng Chi I. 124).
-
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật lại cho biết lợi ích hai đời của
hiếu hạnh: hiện đời thì được các bậc hiền thánh khen ngợi và sau
khi qua đời thì được sanh vào cảnh giới chư thiên:
-
- Người tu theo thường pháp
-
Nuôi dưỡng mẹ và cha
-
Chính do công hạnh này
-
Mà các bậc hiền thánh
-
Trong đời thường tán thán
-
Khi chết được sanh thiên
-
Hưởng an lạc thù thắng
-
(Kinh Tương Ưng IB. 203)
-
Về quả phước mà người con hiếu thảo sẽ gặt hái, kinh Hạnh Phúc
còn mô tả kỷ hơn, chi tiết hơn, như đoạn trích dưới đây:
-
"Người con chí hiếu dù gặp tai nạn như nạn nước hồng thủy, địa
chấn (động đất) sẽ được thoát hiểm một cách an toàn. Nếu giàu
thì trọn hưởng gia tài, không bị nghịch cảnh, chướng duyên và
nội nghịch ngoại thù. Nếu nghèo thì đời sống trong sạch, thanh
nhàn, trời người yêu mến, danh thơm xông khắp, không bị nợ nần,
khổ sở, ít bệnh tật, được tăng trưởng tuổi thọ. Trong hiện tại
thường được các bậc hiền trí ngợi khen, kết giao thân thiện. Sau
khi chết được sanh thiên."
-
2. Tại sao chúng ta phải hiếu kính cha mẹ?
-
Để trả lời câu hỏi thông thường nhưng quan trọng này, kinh điển
Phật giáo đưa ra ba lý do. Thứ nhất về phương diện thai dựng,
cha mẹ đã khổ cực cho chúng ta trong suốt chín tháng cưu mang và
ba năm bồng ẳm. Thứ hai về phương diện giáo dục, cha mẹ đã nuôi
nấng chúng ta trở thành người tốt trong xã hội, giới thiệu chúng
ta vào đời. Thứ ba là phương diện đạo đức, cha mẹ đã hướng dẫn
con cái đến con đường chánh pháp của đức Phật.
-
Về phương diện cực khổ trong thời gian thai dựng
-
Chín tháng thai dựng là thời gian người mẹ phải chịu nhiều đau
khổ và bất tiện nhất. Kinh Phật có nhiều đoạn mô tả rất là thống
thiết, chân tình. Ba năm bú mớm là thời gian mà mẹ và cha bận
rộn và hy sinh cho con nhiều nhất. Sau đây là vài đoạn trích cho
thấy điều đó:
-
- Này A-nan, Như Lai xem chúng sanh dầu được làm người nhưng
lòng còn ngu muội, chẳng nghĩ nhớ đến công đức của cha mẹ như
non bể, không cung kính, không hiếu thảo. Mẹ mang thai con trong
vòng mười tháng, ngồi đứng không yên như mang gánh nặng, ăn uống
phải kiêng cử, chẳng còn ngon miệng. Ngày tháng thoi đưa, đến kỳ
sanh nở, mẹ chịu đau đớn mọi bề. Khi sanh được thân này, mẹ phải
ăn đắng nuốt cay, nhả bùi mớm ngọt, nâng nui, dưỡng dục, giặt
giũ dơ dáy, không nề gian khổ. Những lúc cơ hàn, tâm khổ, mẹ nằm
chỗ ướt, dành chỗ ráo cho con. Rồi ba năm bú mớm, nâng niu, dạy
bảo đủ điều, cho con ăn học." (Kinh Báo Trọng Ân Cha Mẹ, Sen
Vàng xuất bản, 20-21)
-
Sám Pháp Mục-Liên thì chép:
-
- Cha mẹ sanh ta, mang thai mười tháng, khổ sở rất nhiều, công
ơn chan chứa, nặng như núi Thái, đi lại khó nhọc, ngồi đứng
không yên, tánh mạng bấp bênh, như đèn trước gió. Ăn uống không
ngon, ngư người đau nặng, thân hình gầy yếu, tinh thần bải hoải.
Đến ngày mãn nguyệt, khổ không thể nói, chẳng kể đến mình, mệt
nhọc bao nhiêu, chỉ mong cho con sanh được vuông tròn. Bởi thế
cho nên, ngày nay chúng ta phải nghĩ đến công đức sâu dày của
cha mẹ mà lo báo ân. (Sám Pháp Mục-Liên, 135-6).
-
Ở một đoạn khác, Sám pháp này còn diễn tả:
-
- Ơn mẹ khó báo thế mà người đời chỉ ham vui chơi, không nghĩ
công mẹ, chẳng thiết báo đền. Không nhớ lúc sinh, mẹ như người
ốm. Khi mới mang thai, tinh thần mỏi mệt, ăn uống không ngon, sợ
đau thai con, suốt ngày lo lắng, chịu bao khổ não, không thể nói
hết. (Sám Pháp Mục-Liên, 139).
-
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật đưa ra hình ảnh so sánh rất ví
von nhưng vô cùng có ý nghĩa:
-
"Này các Tỳ-kheo, sữa mẹ mà các thầy đã uống trong suốt quá
trình luân hồi nhiều hơn nước trong bốn biển." (Kinh Tương Ưng
IIB. 117).
-
Vì cha mẹ mà chúng ta được sanh ra, có được tất cả. Do đó, làm
con phải thờ kính cha mẹ:
-
"Này bà-la-môn, thế nào là lữa đáng cung kính? Cha mẹ là lữa
đáng cung kính, vì từ cha mẹ, chúng ta được tạo nên. Do đó cha
mẹ là lữa đáng cung kính, tôn trọng và cúng dường." (Kinh Tăng
Chi III. 31).
-
Về phương diện giáo dục con cái
-
Cha mẹ phải vất vả nuôi nấng, dưỡng dục con, lo bạn bè, cho ăn
học, lập gia thất, chạy thầy lo thuốc khi con đau ốm, chẳng quản
tấm thân lao khổ. Những đoạn kinh dưới đây cho thấy công lao
dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái:
-
Cha mẹ dạy điều lễ nghĩa, cho con ăn học, giới thiệu nghề
nghiệp, đưa đón đi về, cần lao chăm chút, chẳng hề kể công. Trái
trời lỡ nắng, tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, chạy thầy
lo thuốc, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, năm canh vò
võ, khi bệnh con khỏi, lòng mẹ mới yên, mong con khôn lớn, con
thảo con hiền. (Kinh Báo Trọng Ân Cha Mẹ, 21-22).
-
Ở một đoạn khác theo thể kệ thơ, công ơn giáo dưỡng của cha mẹ
được mô tả đầy đủ như sau:
-
- Mẹ trải bao gian khổ
-
Công lao tựa núi trời
-
Bồng bế cùng nuôi dưỡng
-
Mong sao con lớn khôn
-
Nhường cơm cùng xẻ áo
-
Mẹ đói rách cũng vui
-
Khôn lớn tìm đôi lứa
-
Gây dựng cho nên người
-
Công cha cùng đức mẹ
-
Cao siêu tựa vực trời
-
Mẹ già hơn trăm tuổi
-
Vẫn thương con tám mươi
-
Bao giờ ân oán hết
-
Tắt nghỉ vẫn chẳng thôi.
-
(Kinh Báo Trọng Ân Cha Mẹ, 19-20)
-
Trong kinh Tăng Chi, có đoạn sau đây cũng mô tả cùng một nội
dung:
-
Cha mẹ là đấng đáng được cúng dường. Vì cha mẹ đã giúp đỡ con
cái rất nhiều: nuôi chúng lớn, dưỡng dục nên người và giới thiệu
chúng vào đời. (Kinh Tăng Chi I, 147).
-
Một đoạn khác trong kinh điển Pali đó là kinh Thiện Sanh hay còn
gọi là kinh Thọ Giáo Thi-ca-la-việt còn đề cập đến năm công ơn
khác của cha mẹ:
-
Cha mẹ thương tưởng con cái theo năm cách: ngăn chận con làm
việc ác, khích lệ con làm điều thiện, dạy cho con nghề nghiệp,
lập hôn nhân xứng đáng cho con và trao của thừa tự đúng thời.
(Trường bộ Kinh II, Đại Tạng Kinh Việt Nam, tr. 542).
-
Về phương diện hướng dẫn con vào chánh pháp
-
Đây là phương diện quan trọng và quyết định đời sống đạo đức và
trí tuệ của con cái. Chính từ phương diện này, hiếu hạnh trong
Phật giáo đã vượt trội hơn hiếu hạnh theo quan niệm thông
thường. Tương tự, ở đây, chúng ta thấy vai trò của cha mẹ là vô
song trong việc hướng dẫn con cái theo con đường chánh pháp của
Phật. Về điều này, kinh Phân Biệt và Đại Phương Tiện Phật Báo Ân
ghi:
-
Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn đến nay mới thành Phật toàn là
công ơn của cha mẹ ta. Vậy nên người học đạo không thể không
tinh tấn hiếu thảo cha mẹ."
-
Kinh Tăng Chi còn nêu rõ bốn cẩm nang đạo đức đắc nhân tâm là
các tiêu chí mà các bậc cha mẹ nên giáo dục cho con của mình:
-
- Bố thí và ái ngữ
-
Lợi hành và đồng sự
-
Đối với bốn pháp này
-
Cha mẹ dạy cho con
-
Khéo xử sự ở đời
-
Chỗ này và chỗ kia
-
Như vậy thật tương xứng
-
Đạt được an lạc lớn
-
(Kinh Tăng Chi I. 387)
-
Mục Liên Sám Pháp cũng nêu ra tiêu chí giáo dục chánh pháp cho
con như sau:
-
Khi con lớn khôn, hiểu biết việc đời, hướng đạo cho con, hoặc
cho xuất gia, tu học đạo pháp, trở thành giải thoát. Ân đức như
thế thật khó đáp đền. (Sám Pháp Mục-Liên, 127).
-
3. Đền ơn cha mẹ bằng cách nào?
-
Về phương thức báo hiếu, một lần nữa những lời dạy của Phật tỏ
ra chu đáo và toàn diện hơn các tôn giáo và triết thuyết khác.
Theo tinh thần lời Phật dạy, người Phật tử sẽ đền ơn cha mẹ trên
hai phương diện vật chất và tinh thần, tương thích với chánh
pháp.
-
Báo hiếu về phương diện vật chất
-
Trước nhất những người con nên báo đáp công ơn sanh thành của
cha mẹ bằng của cải vật chất, tiền bạc, sự chăm sóc, thăm viếng
và lòng thương kính. Nuôi dưỡng cha mẹ bằng tất cả khả năng của
mình. Dĩ nhiên trong khi đền đáp công ơn của cha mẹ, người con
hiếu thảo không nên hiếu dưỡng với ý niệm kể công "tính tháng
tính ngày" hay "kể lể từng ngày" mà phải nuôi dưỡng cha mẹ với
bầu nhiệt huyết của sự kính thương và lòng hãnh diện, vì người
Phật tử sẽ nhận thức được rằng "không có thứ hạnh phúc nào to
lớn và quý báu cho bằng thứ hạnh phúc khi cha mẹ còn sống với
ta." Cha mẹ là niềm phúc đức và niềm an lạc cho con cái. Cha mẹ
là một nửa hồn và máu huyết của con cái. Cha mẹ đã đóng góp đời
mình cho sự trưởng thành của con cái. Cha mẹ là tất cả, là của
con và vì con. Do đó, làm con hiếu thảo phải phụng dưỡng và kính
thờ cha mẹ đúng pháp.
-
Một điểm đặc biệt mà chúng ta cần lưu ý là phương thức đền đáp
công ơn cha mẹ về phương diện vật chất rất được xem trọng trong
Phật giáo. Chính từ phương thức này chúng ta mới có thể đánh giá
một cách thực tế thế nào là một người con hiếu thảo đúng nghĩa.
Trong kinh Phật dạy, mọi tài sản vật chất mà con cái đền đáp cho
cha mẹ phải là những thứ tài sản hợp pháp, chân chính, phát sanh
từ đời sống chánh mạng và chánh nghiệp. Người con nuôi dưỡng cha
mẹ bằng các nghề bất chánh, vi phạm pháp luật, tổn thương hạnh
phúc của người khác hẳn không phải là cách báo hiếu có ý nghĩa
và nhất là có thể vô tình gián tiếp đưa cha mẹ vào vòng ảnh
hưởng của một cộng nghiệp bất thiện và tội lỗi. Cách hiếu dưỡng
cha mẹ như vậy thật chất là hại cha mẹ, chứ không phải là hiếu
dưỡng theo lời Phật dạy.
-
Trong kinh Dhananjani, tôn giả Xá-lợi-phất thay lời đức Phật
giải thích cho bà-la-môn này về cái sai và cái đúng, cái nên làm
và cái không nên làm trong vấn đề phụng dưỡng cha mẹ:
-
Này Dhananjani, người con hiếu thảo không nên vì cha mẹ mà làm
các điều phi pháp, bất chánh. Vì người làm như vậy sẽ bị quỹ sứ
kéo vào địa ngục. Trước sự phán xét của nhân quả, người ấy không
thể vịn lý vì muốn cho cha mẹ sung sướng, vui lòng, để bào chữa
cho mình là vô tội. Hành động như vậy sẽ bị thác đọa địa ngục dù
nó có khóc than hay cha mẹ nó có van xin hay kể lể. (Kinh Trung
Bộ II. 188A).
-
Chính vì thế chúng ta thấy hành động hiếu thuận, hiếu dưỡng của
người con chí hiếu phải được thiết lập trên đạo đức nhân quả.
Người con hiếu chỉ làm những gì thật sự có lợi cho cha mẹ và có
lợi cho mình mà không gây bất cứ tổn hại nào cho tha nhân. Hành
vi hiếu thảo mà không hội đủ tiêu chí này không thể gọi là hiếu
đúng nghĩa. Hiếu hạnh trong đạo Phật được đặt trên định hướng
đạo đức và nhân quả. Do đó, quả báo của hiếu hạnh sẽ là sự an
lạc từ hành vi báo hiếu chân chánh, làm cho cha mẹ hoan hỷ, và
hạnh phúc thật sự. Tiêu chí báo hiếu đó được đoạn kinh dưới đây
mô tả thật cô đọng và đủ nghĩa:
-
Này Mahanam, người con hiếu với những tài sản mà mình đã nỗ lực
thâu hoạch được, do sức mạnh của đôi tay, bằng những giọt mồ hôi
đổ ra một cách hợp pháp, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng
dường cha mẹ với thiện ý thì sẽ được cha mẹ hoan hỷ, thương
tưởng và hằng cầu mong cho con được sống lâu, mạnh giỏi. Này
Mahanam, người con hiếu được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng và
mong cầu như vậy thì gia đình ấy chắc chắn sẽ thịnh vượng, không
bao giờ bị suy giảm. (Kinh Tăng Chi III. 69)
-
Trong rất nhiều kinh, đức Phật luôn luôn giáo dục cảnh giác mọi
người không nên chỉ vì lý do phụng dưỡng cha mẹ mà tác tạo các
nghiệp phi pháp, bất chánh, tổn hại mình và người. Đức Phật cũng
thường nhắc đi nhắc lại rằng sự hiếu kính đúng nghĩa có giá trị,
có an lạc phải là sự hiếu kính trên cơ sở của các hành vi và
nghề nghiệp chân chánh, phù hợp với luật pháp xã hội. Với cách
báo ân bằng đời sống chánh mạng và chánh nghiệp như vậy, đức
Phật mới tán thán, khuyến khích:
-
- Người nào theo thường pháp
-
Nuôi dưỡng mẹ và cha
-
Chính do công hạnh này
-
Đối với cha và mẹ
-
Nhờ vậy bậc hiền thánh
-
Trong đời này tán thán
-
Sau khi chết được sanh
-
Hưởng an lạc chư thiên
-
(Kinh Tương Ưng I. 225)
-
Ở một đoạn kinh khác, đức Phật cũng huấn thị tương tự. Người con
hiếu thảo đúng pháp phải tinh thấn, dốc lòng hiếu kính cha mẹ và
nhờ nhân hiếu dưỡng này khi qua đời sẽ được thác sanh về trời Tự
Tại Quang:
-
- Thờ cha mẹ đúng pháp
-
Buôn bán đúng, thật thà
-
Gia chủ không phóng dật
-
Được sanh Tự Quang thiên
-
(Sutanipana, kệ 401)
-
Trong kinh Thọ giáo Thi-ca-la-việt, đức Phật đã nêu ra năm tiêu
chí đạo đức phù hợp với chánh pháp mà một người con hiếu thảo
cần phải thực hiện để đền đáp công ơn sanh thành và dưỡng dục
của cha mẹ. Năm tiêu chí đó như sau:
-
Hiếu dưỡng cha mẹ đúng pháp, làm tròn bổn phận con cái, giữ gìn
gia phong và truyền thống, bảo vệ tốt các tài sản thừa tự và chu
đáo tang lễ khi cha mẹ qua đời. (Trường Bộ Kinh II, Đại tạng
kinh Việt Nam, tr. 542).
-
Nói một cách khác, theo đức Phật, người con hiếu thảo đền ơn cha
mẹ bằng đời sống đạo đức của mình. Sự báo hiếu đó phải bao gồm
vật chất lẫn tinh thần. Bởi lẽ mục đích của cuộc sống nhân sinh
không chỉ phải là có được chén cơm manh áo mà thôi đâu. Người ta
phải cần đến chân lý, đạo đức và đời sống tinh thần như cây cỏ
cần ánh sáng, con người cần không khí để sống vậy. Do đó báo
hiếu chỉ đơn thuần về phương diện vật chất sẽ có giá trị giới
hạn so với báo hiếu về phương diện tinh thần:
-
Hiện tiền đại chúng hãy nên biết rằng, ân đức cha mẹ không bến
không bờ, thực khó đáp đền. Dù trăm nghìn đời nghiền thân làm vị
đề hồ dâng cúng cho cha mẹ cũng không báo đáp hết công ơn cha
mẹ. Nếu lại có người dâng các thức ăn, trăm vị ngon ngọt, dâng
các áo mặc, thuốc thang đầy đủ, suốt ngày lễ lạy, cúng dường cha
mẹ cũng không báo đáp được công ơn dưỡng dục. (Sám Pháp
Mục-liên, 141).
-
Kinh Hiếu Tử dạy hiếu về vật chất mà thôi chưa phải là hiếu theo
tinh thần Phật dạy:
-
Con nuôi cha mẹ, dâng thức ăn quý, ngon miệng cha mẹ, hòa nhạc
du dương, vui tai cha mẹ, sắm áo lụa là, mát thân cha mẹ, vai
cõng cha mẹ đi khắp thiên hạ, tuy làm như thết chưa phải là
hiếu.
-
Tương tự, kinh Tăng Chi thuộc kinh tạng Pali cũng nêu rõ giới
hạn của việc báo đáp cha mẹ bằng đời sống vật chất:
-
Có hai hạng người, này các tỳ-kheo, ta nói không thể trả ơn được
đó là mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ,
làm như vậy suốt đời vừa đấm bóp hầu hạ, và dù tại đó, cha mẹ có
khạc nhổ tiểu tiện đại tiện, cũng chưa đủ đền ơn cha mẹ. (Kinh
Tăng Chi I. 75).
-
Trong kinh Báo Trọng Ân Phụ Mẫu, đức Phật đưa ra nhiều so sánh
để nhằm khẳng định sự việc báo ơn cha mẹ bằng vật chất, dù là
đúng pháp, vẫn chưa trọn nghĩa hiếu tình. Dưới đây là vài đoạn
trích tiêu biểu:
-
Ví có kẻ nào hai vai kiệu cõng cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi
trên rừng dưới biển, hai vai nặng trể mòn cả đến xương, máu chảy
cùng đường, không hề ăn hận. Cho dù như vậy cũng chưa báo đáp
được công đức cha mẹ kể trong muôn một.
-
Ví lại có người khi gặp đói kém, cắt hết thịt mình, dưỡng nuôi
cha mẹ, khỏi lúc nguy nan, riêng mình cam chịu trăm ngàn muôn
kiếp để báo thâm ân, chẳng được một phần kể trong muôn một.
-
Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp tự tay cầm dao khoét đôi mắt
mình, luyện làm thang thuốc chữa bệnh mẹ cha như thế cũng là
chưa trả được ân kể trong muôn một.
-
Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì tội mẹ cha, trăm nghìn
vòng đao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan như thế cũng chưa
trả được ân đức cha mẹ kể trong muôn một.
-
Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt
đèn cúng dường chư Phật như thế cũng chưa trả được ân kể trong
muôn một.
-
Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì bệnh mẹ cha, đập xương
lấy tủy để làm thang thuốc chữa bệnh cho cha mẹ như thế cũng
chưa trả được ân kể trong muôn một.
-
Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì cứu mẹ cha, nuốt viên sắt
nóng sém cả mình như thế cũng chưa trả được ân đức cha mẹ kể
trong muôn một. (Trang 28-30)
-
Các trích dẫn trên cho thấy đạo Phật ngoài việc hướng dẫn con
cái hiếu dưỡng cha mẹ về đời sống vật chất, cần phải biết cách
hiếu dưỡng cha mẹ về đạo đức và tinh thần. Nói khác hơn, hiếu
thảo về vật chất là thứ yếu trong khi hiếu dưỡng về tinh thần là
trọng yếu nhất.
-
Hiếu thảo về phương diện tâm thức hay tinh thần
-
Về phương diện này, trước nhất, người con hiếu thảo phải tự nỗi
lực gột bỏ các bợn nhơ của tâm lý như tham lam, sân hận, si mê,
từ bỏ sự giết chóc, gạt người cướp của, không quan hệ tình cảm
bất chánh, không nói láo, không uống rượu và các chất kích thích
tố có hại cho sức khỏe và tâm trí, nỗ lực làm các việc thiện đem
lại lợi ích cho mình và tha nhân. Nói chung hiếu thảo trước nhất
là biết cách hoàn thiện nhân cách đạo đức cho chính mình, để cha
mẹ an tâm, hoan hỷ và hãnh diện:
-
Làm con hiếu thảo theo lời kinh dạy là cố gắng tu trì, diệt trừ
tội chướng, thanh tịnh hành vi, cha mẹ hiện tiền sống lâu trăm
tuổi, tổ tiên quá khứ rũ sạch oan khiên. (Sám Pháp Mục-Liên,
46).
-
Nói cách khác theo đức Phật một trong những cách sống có hiếu
thảo với cha mẹ là làm điều thiện và phước báo cho mình và
người:
-
Tất cả mọi người nên phát tâm thành làm mọi phước đức để báo đáp
ân sâu, cha mẹ hiện tiền, quá khứ thân thuộc đều nhờ công đức ấy
mà được vãng sanh về Tịnh Độ. (Sám Pháp Mục-Liên, 46-7).
-
Ngoài ra, sám pháp này còn dạy chúng ta, một mặt hiếu dưỡng song
thân, một mặt cúng dường ba ngôi báu để gieo phúc, giữ gìn đời
sống đạo đức và tô bồi công đức bằng cách làm các việc lành. Đây
mới là cách báo hiếu có giá trị đạo đức cao:
-
Tất cả đại chúng nên phát tâm thành, cúng dường tam bảo, hiếu
thuận mẹ cha, thọ trì Phật giới, tu mọi hạnh lành, cúng dường
cha mẹ như cúng dường Phật, mong báo thâm ân. (Sám Pháp
Mục-Liên, 93).
-
Mặt khác, người con hiếu thảo còn phải biết tích tập các công
đức làm được để hồi hướng cho cha mẹ đã quá cố để đền đáp thâm
ân:
-
Nên phát hiếu tâm làm mọi việc lành, dựng nên đạo tràng, cúng
dường tam bảo, tụng kinh lễ sám, sám hối phát nguyện, tu các
công đức, hồi hướng cha mẹ, hiện tại và quá khứ. (Sám Pháp
Mục-Liên, 97).
-
Hay,
-
Làm con hiếu thảo phải thuận kính cha mẹ, báo đáp ân sâu, quy y
tam bảo, kiên trì trai giới, thiết lập đạo tràng, siêng tu sám
pháp, cầu xin sám hối thay cho cha mẹ, mong độ cha mẹ thoát khỏi
huyết bồn, sanh về cõi trời hưởng mọi an lạc. (Sám Pháp
Mục-Liên, 127-8).
-
Kế đến, người con hiếu thảo ngoài việc hoàn thiện nhân cách đạo
đức, tìm con đường giác ngộ, giải thoát cho chính mình, còn phải
biết khéo léo hướng cha mẹ bỏ tà về chánh, khuyên cha mẹ làm các
việc lành để giúp cha mẹ loại trừ các nghiệp ác, thành tựu nhân
tố giác ngộ, để cha mẹ có thể tự mình an lạc và giải thoát:
-
Hiện tiền đại chúng thiện nam tín nữ phải phát hiếu tâm cúng
dường cha mẹ, khuyên tu thập thiện, cùng chứng đạo quả, cùng
thành bồ-đề, đời này an vui, đời sau hạnh phúc. (Sám Pháp
Mục-Liên, 147).
-
Nói cách khác, theo đức Phật, người con có hiếu thảo không phải
là người con "cha mẹ đặt đâu thì ngồi đó" hay chỉ biết "vâng dạ
nuông chìu." Trái lại, người con hiếu phải đầy đủ bản lĩnh, sẳn
sàng và khéo léo hướng dẫn cha mẹ trở về con đường chân chánh,
lợi ích, để cha mẹ thật sự an lạc:
-
Nếu cha mẹ ương ngạnh, si mê tà kiến, không tin tam bảo, hung
hiểm bạo ngược, tàn ác bất nhân, gây nhiều nghiệp dữ, người con
có hiếu phải biết khuyên can cha mẹ, khiến sanh tín tâm, quay về
chánh đạo, gần gũi bạn lành, mở lòng bồ-đề, tu thiền niệm Phật,
làm cho cha mẹ thường được an ổn. (Sám Pháp Mục-Liên, 142)
-
Trong kinh Tăng Chi đức Phật cũng dạy tương tự:
-
Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng dâng cúng với của
cải vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ.
Nhưng này các Tỳ Kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam
Bảo thì khuyến khích cho có lòng tin Tam Bảo, đối với cha mẹ
sống tà giới, thì khuyến khích vào chánh giới, đối với cha mẹ
sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến
thì khuyến khích vào chánh kiến. Cho đến như vậy, này các Tỳ
Kheo, là làm đủ và đáp ơn đủ cho mẹ và cha. (Tăng Chi bộ
Kinh
I. 75)
-
Như vậy, hiếu thảo trong đạo Phật không chỉ đơn thuần đáp ứng
cho cha mẹ đời sống vật chất, tiền bạc, sự cung phụng và vâng
lời. Hiếu trong Phật giáo được đặt vào trong mục tiêu hướng đến
đời sống đạo đức và trí tuệ của cha mẹ và bản thân. Hiếu như vậy
thật sự là một thiện pháp, một sự giới thiệu, một sự tương
duyên, một thiện tri thức để cha mẹ và con cái cùng bước đi trên
con đường chân thiện mỹ, an lạc và hạnh phúc trong chánh pháp
của đức Phật. Như vậy, hiếu phải được thực hiện trong ánh sánh
chân lý của đức Phật, trên nền tảng thánh đạo tám ngành, trên cơ
sở của đạo đức, thiền định và trí tuệ. Đây là cách trang bị cho
cha mẹ đầy đủ giới, định, huệ để cùng hướng đến giải thoát, như
đoạn kinh dưới đây mô tả:
-
Có con đường đưa đến từ bỏ, vượt qua sợ hãi của sanh già bệnh
chết, không làm chia rẽ mẹ con, đó là con đường thánh gồm tám
nhánh, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. (Kinh Tăng Chi I.
203).
-
III. Thay lời kết
-
Nói tóm lại, hiếu trong kinh điển Phật giáo phải thể hiện trọn
vẹn cả hai phương diện hiếu dưỡng vật chất và hiếu dưỡng tinh
thần. Để hiếu dưỡng cha mẹ về vật chất, người con phải cúc cung
tận tụy nuôi nấng, chăm sóc, tôn kính cha mẹ đúng pháp, phục vụ
cha mẹ bằng mồ hôi và tài sản có được từ nếp sống lành mạnh,
chân chánh, làm cho cha mẹ sống an vui, thoải mái với những tình
cảm tốt đẹp nhất. Để hiếu dưỡng cha mẹ về phương diện tinh thần,
người con trước hết phải tự trau dồi tốt bản thân mình, làm tất
cả những gì tốt đẹp nhất, xa lánh những điều xấu xa, tội lỗi,
đem tiếng thơm về cho gia đình, để cho cha mẹ có thể tự hào và
hãnh diện với mọi người. Kế đến nếu cha mẹ chưa biết tam bảo thì
phải khéo léo hướng dẫn cha mẹ trở về quy y và sống dưới ánh
sáng của chánh pháp, trau dồi chánh kiến, đức hạnh chân chánh,
làm hành trang cho một đời sống an lạc và hạnh phúc hiện tại và
về sau. Nội dung hiếu dưỡng cha mẹ về đời sống tinh thần chính
là mục tiêu giáo dục của đức Phật. Đây chính là điểm vượt trội
của Phật giáo so với ca dao Việt
Nam
cũng như chữ hiếu trong các tôn giáo và học thuyết khác từ trước
đến giờ.
-
Chữ hiếu trong Phật giáo xây dựng chính yếu trên nền tảng lợi
ích thiết thực hiện tại và lợi ích an lạc giải thoát. Chữ hiếu
như vậy thật chất đã trở thành một phương tiện thể hiện hành
"lợi hành và đồng sự" cùng cha mẹ kết làm thiện tri thức, làm
pháp lữ, trên con đường thực hành chánh pháp của đức Phật, tại
đây và bây giờ. Hiếu như vậy đã trở thành một phương tiện của
đạo đức và giải thoát cho mình và người.
-
Hy vọng những điều trình bày trong bài viết ngắn này sẽ có thể
giúp cho bạn đọc hình dung trọn vẹn tinh thần hiếu đạo, báo ân
cha mẹ trong Phật giáo và từ đó để tự mỗi chúng ta phải thể hiện
nếp sống hiếu đạo phù hợp với lời Phật dạy, trong một chiều kích
lợi ích lớn hơn. Đạo hiếu trong Phật giáo mang nhiều giá trị
giáo dục đạo đức. Do đó, phàm làm con, bất luận là người xuất
gia hay tại gia, phải có ý thức trách nhiệm đền đáp công ơn
sanh thành dưỡng dục của cha mẹ một cách đúng pháp và trọn vẹn
không chỉ trong mùa Vu-lan này mà phải ở mọi lúc và mọi nơi. Đó
là cách gầy dựng hạnh phúc cho bản thân mình, gia đình mình, cha
mẹ mình cũng như tha nhân. Hiếu hạnh như vậy không chỉ có giá
trị giáo dục cho bản thân mà còn là điểm nương cho tha nhân noi
theo!
- --o0o--
|
|